Chương 18
TIẾNG KHÒ KHÈ MÁY-HÚT-BỤI của Amy như dọa sẽ hút thằng em vào trong. “Được rồi,” Nó tự trấn an. “Đừng sợ...“
“Tại sao không chứ?” Dan nói giọng cay cú. “Nếu đã có lúc để hoảng sợ, thì là lúc này đây! Cái quái gì đã xảy ra với chiếc tàu vậy?”
“Ôi trời, Dan,” Amy rên rỉ, “Tại sao em phải giấu những trang giấy của Nannerl trên thứ có thể nhổ neo rồi bơi đi nơi khác chứ?”
Dan sửng cồ. Đau đớn, thất vọng, tức tối trộn lẫn trong dạ dày nó, một hỗn hợp chất độc cuộn xoáy. “Em đâu có nhiều nhặn gì cơ hội lúc đó, hỡi Cô Nàng Hoàn Hảo! Em ở trên một chiếc xuồng và sau lưng một nửa cái chi tộc Janus gí theo! Vậy mà lúc đó em có được giúp đỡ gì từ cô chị đáng yêu của mình nào? Ồ - em không có lái tàu được đâu!”Em chỉ nghe được có chừng đó thứ từ chị - em không thể, em không nên; không thể!Chính em đã cứu cả bọn lúc đó chứ còn ai!”
“Đây không phải là chuyện bọn biếc nào cả,” Amy phân tích. “Mà đó là chuyện các đầu mối, và nó nghĩa là những trang nhật ký.”
“Mà bọn Rắn Hổ mang đã có thể cuỗm khỏi tay chúng ta nếu như em không giấu nó vào chiếc Royal Saladin!” Dan phản pháo. “Chị nghĩ em là một thằng con nít ngu si chưa đủ chín chắn để hiểu nguy hiểm là gì hay sao! Một cuộc tranh tài; một cuộc tìm kiếm - ai giỏi hơn mấy thứ đó, là chị hay là em?”
Amy quắc mắc nhìn nó. “Chúng ta không nói về trò oanh tạc nhà hàng xóm bằng hỏa tiễn chai...”
“Chị lại đối xử với em như với thằng con nít rồi!” Nó sừng sộ. “Được được - em thích hỏa tiễn chai! Bong bóng nước nữa! Bom quả anh đào nữa! Em liếm những cục pin! Em thí nghiệm!”
“Ờ, em là bà Curie[1] đáng mến.”
[1] Ý Amy muốn nhắc tới nhà khoa học nữ Marie Cuire (1867-1934), người 2 lần được nhận giải Nobel Vật lý và Hóa học.
“Chí ít em cũng thử thứ này thứ nọ,” Nó khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình. “Còn hơn là ngồi thừ một chỗ cắn móng tay như chị, rồi tự hỏi, Nên làm hay không?”
Cô chị thở dài đau khổ. “Thôi được. Chị xin lỗi. Nhưng điều này vẫn chưa trả lời cho câu hỏi triệu đô: Giờ thì sao đây?”
Dan nhún vai. Nó vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận lời xin lỗi, nhưng tiếp tục tranh cãi chẳng được lợi lộc gì hết. “Chúng ta chờ. Làm gì khác được nào? Chiếc tàu đã neo ở đây. Có thể nó sẽ quay trở lại.”
Con bé nói ra những từ mà Dan vẫn luôn sợ hãi - cái khả năng khủng khiếp vẫn ám ảnh nó. “Sẽ ra sao nếu chuyện chỉ xảy ra duy nhất một lần? Ra sao nếu chúng ta đã hoàn toàn lạc mất những trang giấy đó?
Dan không có câu trả lời. Bất thình lình, tốc độ diễn tiến của sự việc quá nhanh đã nhấn chìm nó. Năm giờ đồng hồ trên chiếc Fiat, bám theo chiếc limo, Disco Volante, tổng hành dinh Janus, cuộc rượt đuổi trên kênh đào, bọn nhà Rắn Hổ mang.
Và giờ thì đến chuyện này.
Nó đã có thể gục xuống lối đi bằng đá và ngủ vùi đến cả một năm trời ở đó. Một sự kiệt sức tột cùng như hút sạch sức lực ra khỏi từng tế bào một trong cơ thể nó. Nó thấy già cỗi ở tuổi mười một.
Amy hẳn cũng nhận thấy điều này, choàng cánh tay qua vai thằng em và cứ thế cả hai quay trở lại nhà thờ để cập nhật cho Nellie về thay đổi mới nhất.
“Chúng ta có thể phải đợi lâu đó,” Amy nói với Nellie. “Có thể là chị nên tìm một khách sạn để ngả lưng vài giờ đi.”
“Nếu mà các nhóc nghĩ hôm nay chị bỏ các nhóc lại thêm một phút nữa thì hai đứa uống nhiều nước kênh quá rồi đâm lú đó,” Cô nàng gắt gỏng trả lời. “Đi mà đợi đi. Chị sẽ ở đây.”
“Phìiiii,” Saladin uể oải đế thêm vào.
Ôi bạn hiền Nellie. Sự ủng hộ của cô đã ít nhiều làm vơi bớt tâm trạng lúc này. Ý nghĩ có ai đó sẽ trông nom cả hai - ai đó lớn hơn, dẫu chỉ vài tuổi thôi - cũng có gì đó gần như mẫu tử. Đó là ánh sáng duy nhất giữa một khoảng trống mênh mông. Amy và Dan từ rất lâu đã chẳng thấy gì ngoài bóng tối đó.
Nhưng trong khi cả ba quyết định nán lại chờ ở đằng sau nhà thờ, thực tại u ám đã bắt đầu muốn dìm chúng xuống. Nếu không lấy lại được những trang nhật ký cất trong nệm ghế nhựa trên chiếc Royal Saladin, tất cả sẽ hoàn toàn bế tắc.
Chúng đã gặp muôn bề khó khăn trong sứ mệnh này. Nếu phủi tay sẽ khiến cả bọn không khác gì những kẻ đào tẩu trốn chui trốn lủi Dịch vụ công ích Massachusetts. Những đứa trẻ mồ côi không nhà, không quá khứ cũng chẳng có tương lai, lạc giữa một nơi cách xa mọi người thân quen, mọi điều gần gũi tới nửa vòng trái đất.
Những phút đồng hồ trôi đi như hàng trời, tựa hồ thời gian đã bị chậm lại bởi trọng lực hố đen của tình thế lúc này. Hai đứa ôm lấy nhau để đương đầu với cái lạnh và sự ẩm ướt trong đêm, cộng với nỗi sợ hãi và bất an rình rập.
Amy nhìn ánh đèn ở Venice phản chiếu trên mặt nước. “Lạ thật, đúng không? Có quá nhiều điều tồi tệ lại có thể xảy ra ở một nơi đẹp như thế này.”
Dan không để tâm đến lời chị nó vừa nói. “Biết đâu chúng ta nên chôm một con tàu khác. Rồi chí ít chúng ta cũng rảo khắp các con kênh. Chiếc Royal Saladin phải ở đâu đó chứ.” Nó nhìn cô chị đầy vẻ quyết tâm. “Bỏ cuộc không phải là lựa chọn đâu.”
“Rồi làm sao chúng ta biết được chiếc Royal Saladin sẽ không trở lại chỉ sau khi ta vừa đi một phút? Chúng ta ở đây và ở lại đây thôi.”
Với Dan, đó là một cực hình ghê gớm. Làm một cái gì đó -thậm chí là làm sai - còn dễ nuốt hơn là ngồi thừ ra chẳng làm gì. Giờ đầu tiên trôi qua trong khổ ải. Giờ thứ hai thực sự là một cuộc hành xác đau đớn. Đến giờ thứ ba, cả hai đứa đã hoàn toàn mụ mẫm, chìm sâu trong tuyệt vọng khi những âm thanh của phố thị, của động cơ tàu bè lịm đi, chỉ còn lại tiếng nước táp vào bờ và tiếng đàn accordion văng vẳng từ xa.
Cả hai luôn biết rằng trong cuộc săn lùng này, cơ may thành công của chúng thật mong manh. Nhưng không một ai nghĩ thất bại sẽ diễn ra theo cách này - một chọn lựa xui xẻo đi giấu những tờ giấy quan trọng vào một chỗ giấu mà nó có thể nổ máy và biến mất.
Hai đứa ngồi trên con đường rải đá. Hình như tiếng nhạc đang lớn dần?
Giai điệu du dương cất lên, và có một chiếc thuyền đang bo theo khúc quanh của con kênh, đèn bật sáng trưng như một cây thông Noel. Đuôi tàu lộ thiên đầy ắp những khách dự tiệc, đang nhảy múa ăn mừng náo nhiệt.
Amy và Dan cũng thấy mình như đang ăn mừng. Đó chính là chiếc Royal Saladin.
Dan quan sát những bóng người. “Một bữa tiệc sao?”
“Không phải tiệc,” Amy bảo. “Một đám cưới!”
Cô dâu chú rể đang trong buồng lái, những em bé cầm hoa tung lên người họ vô số những cánh hồng. Tiếng cười rộ lên. Những ly champagne giơ lên cao. Có tới mười lăm người đang chen chúc trên con tàu bé xíu, bao gồm cả người chơi accordion đang cố sức giữ thăng bằng trên bục dành cho người nhảy tắm.
Dan mải mê chú ý đến tấm nệm ghế, nơi nó biết những trang nhật ký của Nannerl đang được cất giấu. “Năm ngàn chiếc thuyền ở tại Venice, và em phải chọn ra một chiếc trong đường hầm tình ái! Chúng ta sẽ làm gì tiếp theo đây? Cái cuộc hi hi ha ha này có thể kéo dài đến suốt đêm đấy.”
“Chị không nghĩ là vậy. Nhìn thấy không?”
Một cách vụng về, hai gã vận lễ phục đang cố buộc chiếcRoyal Saladin vào cầu tàu. Phải thực hiện thao tác nhiều lần mới xong, và cha của cô dâu loạng chọang suýt nữa ngã nhào qua tay vịn lăn tòm xuống dòng kênh. Nhưng rồi cuối cùng tàu cũng được neo xong, và tiệc cưới bắt đầu tiến lên bờ.
Amy và Dan nấp sau một bức tường thấp chờ khách khứa leo thang đi lên nhà thờ Santa Luca. Phù rể đi sau cuối. Trước khi rời chiếc Royal Saladin, anh ta chộp tấm nệm ghế như thể “nhân tình” của mình, vừa đi lên cầu tàu vừa nhún nhảy cùng với tay chơi đàn accordion.
Tim của hai đứa trẻ nhà Cahill ngừng đập một nhịp. Chính là tấm nệm mà những trang nhật ký đang được giấu bên trong.
Những người còn lại phá lên cười khi thấy phù rể nhảy điệu valse với chiếc nệm tiến về phía trước.
Trên trán của Dan rịn một làn mồ hôi mỏng. Gã hề này làm cái gì vậy chứ? Gã bị đần đến nỗi lấy nệm ghế mang theo dự đám cưới chắc?
Tới phút cuối, người đàn ông nọ nọ mới trả tấm nệm về chỗ cũ trên chiếc Royal Saladin và theo đoàn người đi lên cầu thang.
Amy và Dan thu mình lại trong im lặng khi đám rước băng qua sân nhà thờ đi vào thánh đường Santa Luca. Ngay cả khi đã nghe tiếng cánh cửa lớn đóng sầm lại, cả hai vẫn không nhúc nhích và chưa dám lộ diện. Sau nhiều cú đảo lộn giữa rủi và may trong ngày, chúng còn nửa ngờ rằng sẽ có một thiên thạch từ bầu trời lao xuống và làm cả hai bốc hơi nếu dám nhúc nhích.
Cuối cùng, Dan bật dậy. “Nào. Hãy lấy những trang nhật ký kia trước khi họ lại lên tàu đi hưởng tuần trăng mật.”
***
Khách sạn mà cả bọn đang ở tại Venice có giá rẻ, chủ yếu vì nó không nhìn ra mặt nước. Điều này đã trở thành một điều kiện của lũ trẻ nhà Cahill.
“Không có kênh kiếc gì nữa,” Dan tuyên bố chắc nịch. “Em ghét lắm rồi.”
Trong khi Amy và Dan tắm táp thật lâu dưới vòi sen để làm ấm người và rửa phăng đi thứ nước kênh không-sạch-sẽ-lắm thì Nellie lại vùi mình vào những trang nhật ký. Chỉ là ba trang giấy viết tay. Nhưng lại chứa đựng một số thông tin thật bất ngờ.
“Hai đứa sẽ không tin vụ này đâu,” Nellie thốt lên. “Không ngạc nhiên tại sao người ta xé đi những trang này. Tất cả cho biết Nannerl đã lo lắng về Mozart đến mức nào. Bà nghĩ Mozart đang sắp điên tới nơi.”
“Điên?” Dan lặp lại. “Ý chị là, kiểu như, trồng cây chuối và phun ra đồng xu là điên hử?”
“Lúc đó ông đang nợ nần chồng chất,” Nellie giải thích, ngón tay dò theo các con chữ tiếng Đức bay bướm. “Tiêu xài nhiều hơn số tiền ông kiếm được. Nhưng vấn đề ở chỗ - mấy món mà ông mua lại toàn những thứ quái gở và vớ vẩn. Ông đang nhập về những nguyên liệu quý hiếm đắt tiền ở nước ngoài.”
Tai Amy dựng thẳng lên khi nghe đến chữ nguyên liệu.“Còn nhớ iron solute chứ? Đó cũng là một nguyên liệu. Mấy chuyện này hẳn phải liên quan đến ba mươi chín đầu mối theo một cách nào đó.”
“Mozart vùi đầu vào tất cả mấy thứ này,” Dan đồng tình. “Y hệt như Ben Franklin.”
Nellie lật sang trang khác. “Quyển nhật ký cũng có nói đến Franklin, ngay tại đây. Mozart đang trao đổi với ông ta. Biết Nannerl gọi Franklin là gì không? ‘Người họ hàng bên Mỹ của chúng ta.’ Và các em cũng sẽ không bao giờ tin còn có một Cahill khác nữa - đó là Marie Antoinette[2], chính là bà ta!”
[2] Marie Antoinette(1755 -1793) là công chúa của hoàng tộc Áo, sau này kết hôn với vua Louis XVI của nước Pháp. Bà nổi tiếng vì tiêu xài hoang phí, bị tử hình trong cuộc cách mạng Pháp.
“Chúng ta có họ hàng với hoàng hậu nước Pháp à!” Amy thốt lên đầy kinh ngạc.
“Và cả gia đình hoàng gia Áo nữa,” Nellie tiếp tục. “Đó là mối quan hệ. Bà và Mozart đã từng gặp nhau khi còn bé. Khi bà kết hôn với vua Louis XVI và sang Pháp, bà trở thành người kết nối giữa Franklin và Mozart.”
Amy hết sức kinh ngạc trước lượng thông tin quá tải vừa nhận được đến nỗi suýt nữa nó đã bỏ qua những dòng viết bằng chì rất nhạt ở mép giấy sát những chữ viết kiểu cách rất đậm của Nannerl. “Grace viết vào đây,” Giọng nó nghèn nghẹn. “Em nhận ra chữ viết tay này ở bất cứ nơi nào.”
Dan nhìn chăm chăm. “Bà của mình đã xé phần nhật ký của Nannerl ra ư?”
“Không nhất thiết như thế, nhưng những trang giấy này đã từng có lúc nằm trong tay bà. Bà đã du hành khắp thế giới. Đã trộn lẫn cuộc tranh tài này thành năm mươi cách khác nhau.” Amy nhìn dòng chữ mảnh mai cạnh cái tên Marie Antoinette và đọc to:
Từ đã cướp đi mạng sống của bà, tước đi âm nhạc
Dan buông một hơi dài đánh thượt đầy khó chịu, “Đó là Grace, rõ rồi. Rõ như bùn.”
Nellie cáu tiết. “Có chuyện quái quỷ gì với nhà Cahill của các người vậy? Tại sao cái gì cũng phải là một câu đố chứ? Tại sao các người không thể đơn giản là xuất hiện và nói toẹt ra điều mình muốn nói?”
“Khi đó không còn là ba mươi chín đầu mối nữa,” Dan phân tích. “Mà là ba mươi chín lời tuyên bố.”
Amy tư lự. “Điều Marie Antoinette nổi tiếng nhất là: Khi có người nói với bà là nông dân đang nổi loạn vì không còn bánh mì, bà đã nói, ‘Cho họ ăn bánh.’
Dan nhăn mặt. “Người ta nổi tiếng bởi vậy
Amy trợn mắt. “Bộ em không thấy sao? Làm gì có bánh! Không có tí thức ăn nào hết! Đó là biểu tượng về việc người giàu hoàn toàn không biết gì về nhu cầu của người nghèo. Những từ này đã khơi mào cho cuộc cách mạng Pháp diễn ra. Và đó là khi Marie Antoinette bị hành quyết dưới máy chém.”
“Tuyệt - máy chém,” Dan tán đồng. “Giờ thì chuyện trở nên thú vị rồi đây.”
Nellie nhướng mày. “Vậy em đang nói chính từ đó đã kết liễu mạng sống của bà - bánh?”
“Tước đi âm nhạc,” Amy nói tiếp. “Cái đó có nghĩa gì đây?”
“À, ừm,” Nellie đăm chiêu, “Marie Antoinette nói tiếng Pháp, vậy thì...”
“Chờ đã!” Amy la lên. “Em biết rồi! Grace đã kể em nghe hồi còn nhỏ!”
“Sao chị luôn đào đâu ra mấy câu chuyện trời hỡi với Grace từ triệu năm trước vậy?” Dan thắc mắc, niềm xúc động của nó hiện rõ trên khuôn mặt. “Bà mất chỉ vài tuần thôi mà em đã không còn nhớ được giọng bà ra sao rồi.”
“Thứ cũ kỹ đó mới quan trọng,” Amy nhấn mạnh. “Chúng ta đều biết bà là một người bà tuyệt vời. Nhưng qua ngần ấy năm, chị nghĩ bà cũng có một quyển nhật ký bí mật. Bà luônrèn luyện chúng ta cho cuộc thi này - gieo vào đầu ta những mẩu thông tin sẽ phải dùng đến. Đây chắc là một trong số đó.”
“Vậy ‘đây’ thực ra là gì?” Nellie gặng hỏi.
“Khi Marie Antoinette nói, ‘Hãy cho họ bánh’, người ta thường dùng chữ tiếng Pháp brioche. Nhưng Grace đã rất cẩn thận cho em biết bà dùng một từ bình dân hơn nhiều - gateau.”
Trán của Dan nhăn nhúm lại. “Bánh vẫn là bánh mà. Phải không?”
“Trừ phi nó không dính dáng gì tới bánh hết,” Nellie gợi ý. “Theo Nannerl, Marie Antoinette vẫn gửi các thông điệp bí mật giữa Franklin và Mozart. Có thể đó là một kiểu ám hiệu nào đó.
“Vậy gateau là thông điệp, còn brioche thì không - và cả hai cùng nói về một thứ?” Dan hỏi giọng đầy vẻ hồ nghi.
Amy lắc đầu. “Chị không biết nó là gì, nhưng chị tin đây là một phần của câu đố.”
Dan đang ngó qua vai Nellie để xem xét những trang nhật ký của Nannerl. “Nhìn kìa - có một ghi chú khác!”
Vết viết chì lần này còn nhạt hơn, nhưng chắc chắn vẫn là bút tích của Grace. Lần này ở ngay chính giữa trang giấy:
D > H I C
Dan lại nhăn mặt. “Chắc bà bị nấc?”
“Khoan - các dấu hiệu này viết ở ngay dưới một cái tên.” Amy nhìn chăm chăm vào trang giấy. “Fidelio Racco.”
“Là cái tay trên tờ giấy của Alistair!” Dan reo lên đầy phấn khích. “Mozart đã trình diễn tại nhà gã đó!”
Nellie dịch lại từ tiếng Đức. “Ở đây ghi rằng thời bấy giờ ông là một nhà buôn gặp thời và là một ông chủ lớn. Mozart đã thuê ông này nhập về loại thép siêu đắt mà người ta chỉ rèn ra ở vùng Viễn Đông. Nannerl đổ lỗi Racco treo giá quá cao với em mình và kết quả đã khiến ông mắc nợ. Và hãy đoán coi bà gọi lão bằng gì.”
“Quân hám tiền hút máu người khác?” Dan đoán thử.
“Gọi là ‘anh họ’.”
Mắt Dan mở to. “Lại là một Cahill khác?”
Amy kéo khóa ba lô em mình và lấy chiếc laptop của nó ra. “Hãy xem có thể học được gì từ tay họ hàng người Ý của chúng ta nào.”