CHƯƠNG 12
LÚC HỌ ĐI LÒNG VÒNG trên các con phố ở Luxor, Dan bắt đầu cảm thấy Ai Cập giống như một cái lò nướng còn mình là một con gà tây. Nó mừng rỡ khi chiếc taxi chạy vào một con đường nhỏ dẫn xuống bến cảng vì như thế nó có thể ngắm dòng nước màu xanh lá của sông Nile. Nó chẳng thấy mát mẻ hơn tẹo nào, nhưng dù sao cũng còn hơn là nhìn thấy toàn cát là cát.
“Chúng ta đang ở đâu vậy anh?” Amy hỏi Theo lúc mọi người lấy hành lý.
Theo trả tiền cho tài xế. Anh hất hàm về hướng chiếc thuyền nhỏ buồm trắng, đang đậu trên dòng nước. “Kia.”
“Ái chà chà,” Dan thích thú. “Một chiếc thuyền sao? Bá chấy.”
“Đúng thế,” Amy nói. “Và nó không dừng lại.” Từ trước đến giờ Amy chưa từng thích thú với tàu bè. Và việc ấy còn tồi tệ hơn khi nó suýt nữa bị chết đuối lúc bị quẳng khỏi con tàu xuống dòng kênh ở Venice.
“Những chiếc thuyền này được gọi là dahabiyya,” Theo giải thích. “Mọi người có thấy những thuyền buồm nhỏ hơn trên sông không? Chúng gọi là felucca. Không chuyến đi nào đến Ai Cập được xem là trọn vẹn nếu không có một chuyến du ngoạn trên felucca này. Một người bạn của tôi nói rằng chúng ta có thể ở lại vài đêm trên thuyền của anh trong lúc anh ấy còn đang ở Cairo.”
“Này, có lẽ là sau khi chúng ta đến tham quan lăng Nữ hoàng Neferfarty xong, ta sẽ tắm sông nhé,” Dan đề nghị.
“Là Nefertari, và cho dù chú em muốn làm gì thì cũng đừng bao giờ bơi trên dòng sông Nile đấy nhé,” Theo dặn dò. “Có đủ các loài ký sinh trùng - các loài sâu bọ - có thể khiến chú em cảm thấy rất là, nói sao nhỉ, khó chịu. Ấu trùng của chúng sẽ xâm nhập vào da chú em. Và dĩ nhiên đôi khi còn có cả cá sấu nữa.”
“Okê, vậy là anh đã thuyết phục được em rồi đó,” Dan đáp.
“Đi nào mọi người, mang hành lý lên thuyền thôi.”
Buồng lái ngăn nắp, rộng rãi và bóng loáng. Có đủ không gian cho hai người nằm ngủ ở đầu mũi thuyền, và khu vực để ngồi tạo thành một chiếc giường khác. Kệ sách xếp dọc theo buồng lái. Theo nói, anh sẽ ngủ trên boong. “Để trông chừng cá sấu,” anh chàng nháy mắt.
“Còn bây giờ,” anh nói tiếp, “tôi phải đi hỏi han về cách vào lăng mộ. Có thể cần một vài lời thuyết phục nữa. Khi trời thật sự nóng lên các em có thể sẽ muốn nghỉ ngơi đôi chút, nhưng mọi người vẫn còn thời gian để khám phá thung lũng. Mọi người muốn bắt đầu từ đâu nào?”
Amy giở quyển sách hướng dẫn của Grace. Trên máy bay, nó để ý rằng Grace đã viền quanh một địa điểm bằng nét mực màu xanh nhạt. “Bà nói không được bỏ qua đền Hatshepsut.”
“Tuyệt vời. Cả hai di tích đều nằm cùng mạn Thebes của con sông.” Theo nhìn Nellie. “Cô em nghĩ sao về việc đến tham quan văn phòng của một nhà khảo cổ thứ thiệt?”
“Thật sao? Em rất thích.”
Dan tròn xoe mắt nhìn Amy. Hai đứa chưa bao giờ biết rằng cô nàng au pair nhanh nhảu của mình lại có thể sành sỏi cái khoản... làm con gái đến thế. Trên máy bay nó đã bị say gió khi trông thấy hai người này cùng nhau chén một bịch đậu phộng. Nó ước ao sao cho Nellie quay lại tôn thờ chiếc iPod của cô nàng.
“Hãy thả bộ xuống dọc theo con sông rồi tôi sẽ bắt taxi cho hai em,” Theo nói với Dan và Amy. “Nellie và tôi sẽ gặp các em ở đền Hatshepsut trong đúng boong một giờ nữa. Khi đó, chúng ta sẽ vào trong lăng mộ.”
***
“Chị không tin được rằng anh Theo nói như thế này vẫn còn chưa phải là nóng,” Amy nói. “Còn có thể nóng hơn đến mức nào nữa chứ?”
Amy sắp sửa càu nhàu thêm nữa thì trước mặt nó một cảnh tượng kinh ngạc đang dần hiện ra trong bầu không khí lượn sóng của sa mạc. Đền Hatshepsut nằm ở dưới chân những vách đá sừng sững. Nó được xây thành ba tầng, với các hàng cột dựng thẳng dọc theo mặt trước. Một dãy dốc và bậc thang dẫn khách vào tham quan bên trong đền.
“Chẳng phải là vô cùng lộng lẫy hay sao?” con bé thốt lên.
“Chỗ nào?” Dan hỏi lại. “Cát? Hay là... cát?”
“Chúng ta đang ở đây, trên mặt đất mà con người đã từng bước đi hàng ngàn năm về trước. Chị đã đọc được trong quyển sách...”
Dan giơ hai ngón lên. “Cảnh giác có thuyết giáo.”
“... rằng ngôi đền này được kiến trúc sư của nữ hoàng, ngài Senenmut, thiết kế vào Vương triều thứ 18. Về sau, nó bị hoàng đế Ramses phá hủy...”
“Em đoán là gã ta không phải fan hâm mộ
“... và thậm chí nơi đây có một thời gian từng là một tu viện Ai Cập. Người ta vẫn đang khai quật các thành phần của kiến trúc này. Chị nghĩ chúng ta nên đi ngay đến chỗ phù điêu mô tả chuyến hành trình của nữ hoàng đến Vùng đất của Punt[1]. Hãy nhìn xem bà Grace đã viết gì ở đây.”
[1] “Vùng đất của Punt”, còn gọi là Pwenet, là một đối tác giao thương nổi tiếng của người Ai Cập thời bấy giờ, chuyên sản xuất và xuất khẩu vàng, hương liệu, gỗ, ngà voi và cả nô lệ. Tuy nhiên, cho đến nay đây vẫn là một vùng đất hoàn toàn bí ẩn.
Đừng bỏ lỡ chúng! Thậm chí từ Tân Vương quốc, một nữ hoàng đã phải đi mua sắm Giáng sinh.
“Punt ở đâu?” Dan thắc mắc. “Nó ở cạnh Pass và Hike có phải không?”
“Không một ai biết rõ. Họ nghĩ nó ở Somali ngày nay. Hatshepsut đã thực hiện một cuộc thám hiểm tới đó.”
Hai đứa đi đến một dốc lớn thoai thoải, ở giữa có những bậc thang nông. Cái nóng bật ra từ tảng đá nhạt màu và hắt vào người chúng. Những màu vàng, màu be của cát và vách đá khiến mọi vật trở thành một thứ ánh sáng lung linh giần giật trong không khí. Amy mừng vì Theo đã nằng nặc ép chúng phải mang theo kính mát và mũ lưỡi trai. Ánh sáng chói lóa khiến không thể nhìn thấy gì được bằng mắt thường. Càng xuống sâu phía dưới, Amy càng thấy khiếp sợ. Tất cả khiến nó nôn nao, cái nóng gay gắt, bầu trời màu xanh dương, vách đá, sự hùng vĩ của các bức tượng và cột kiến trúc.
“Bà ta đây rồi,” Amy chỉ vào một bức tượng Hatshepsut.
“Í chà, bà này có râu,” Dan nói. “Nữ hoàng là một gã trai kìa!”
“Bà ta gọi mình là vua,” Amy giải thích. “Thế nên đôi khi bà ta còn trang điểm thêm ình bộ râu.”
“Sao cũng được,” Dan nói. “Em nghĩ bà ấy cần cạo râu.”
“Nhanh nào, chị nghĩ rằng các bức phù điêu nằm ở tầng thứ hai.” Sau khi tham khảo quyển cẩm nangAmy dừng lại trong chốc lát. Dan cố rướn người nhìn ra sau vai chị nó.
“Chị nghĩ chúng ta rẽ phải,” Amy nói.
“Không, trái chứ,”
“Phải. Rồi trái, rồi lại sang phải...”
“Và rẽ tiếp, rồi đá một phát rồi nhảy cái tùm. Đây là chỉ dẫn hay là màn biểu diễn cổ vũ vậy?” Dan cố chộp lấy quyển sách. “Cho em xem với.”
“Thôi, chị hiểu ra rồi.”
“Nhưng em vẫn chưa xem mà!”
Amy giằng lại quyển sách khỏi tay Dan. “Chị không muốn em làm mất nó.”
“Được, em sẽ làm mất cho coi,” Dan cay cú làu bàu.
Amy tiến nhanh về phía trước. Nó không muốn quyển sách rời khỏi tay mình. Những lời nhắn của Grace vẫn còn trong đó, và ngay cả khi con bé không thể tự mình hiểu được chúng, thì Amy cũng không muốn để Dan làm đổ soda lên các trang giấy hay để quên quyển sách ở một quán cà phê nào đó.
Dan cau mày lủi thủi theo sau chị nó. Amy vẫn nhìn lên các bức tường khổng lồ và dò lại trong quyển sách, nóng lòng muốn tìm đúng nơi đang muốn đến. Bất thình lình, Amy đứng lại chỉ tay lên cao. “Kia rồi! Đó là nơi có trong tấm hình của Grace.” Con bé đứng vào chỗ Grace đã đứng và tạo dáng theo y hệt.
“Em chả hiểu gì sất,” Dan nói. “Mấy trăm ngàn năm gì đó trước kia, nữ hoàng đi đến Punt. Em chẳng thấy điều này có ăn nhập gì với chúng ta hết. Chị, nhìn xem kìa.”
Nó chỉ vào một bức tượng với thân hình thấp, mập tròn. Amy tham khảo quyển sách. “Đó là Nữ hoàng vùng đất Punt. Bà ta đã trao món quà là những cây myrrh[2] cho nữ hoàng Hatshepsut.”
[2] Myrrh hay còn gọi là cây nhựa thơm“Em chả thèm quan tâm, bà ta vẫn nên từ bỏ món bánh falafel thì hơn.”
“Tại sao Grace dẫn ta đến đây?” Amy hỏi to. “Bà đang cố gắng nói với chúng ta điều gì chăng? Nản quá đi mất!”
“Nhưng chí ít bà cũng cố gắng,” Dan đáp. “Cuối cùng thì bà cũng đã để lại cho chúng ta một cái gì đó để mà đi tiếp. Bà để lại manh mối là con Saladin để ta biết cách mở bức tượng. Chỉ có hai chúng ta mới biết được điều này thôi.”
“Có lẽ là em có lý.” Amy nhìn về phía thung lũng, rồi đến hàng dài khách du lịch đang nối tiếp đi lên bờ dốc. Nó nhận ra hai bóng người đang tụt lại phía sau. “Nhìn kìa!” Amy la lên. “Đó là Jonah và cha hắn.”
“Ôi trời,” Dan rên rỉ. “Thế mà em cứ hy vọng rằng cha con nhà nó chí ít thì cũng sẽ bị nhốt vĩnh viễn chớ.”
Thình lình, một luồng ánh sáng rọi vào khiến chúng cảm thấy như đang nổi bật lên trước mắt mọi người. Dan và Amy nhìn xuống bên dưới dốc thấy hai cái bóng nhỏ xíu của Jonah và cha nó đột ngột dừng lại. Jonah ngồi xuống, ngay bên phải con dốc, như thể nó đã cảm thấy quá mệt và nóng nên không bước nổi nữa. Cha nó đang khom người xuống bên nó, hẳn là đang thúc giục gã nhóc đứng dậy.
“Theo và Nellie đâu rồi?” Dan thắc mắc. “Lẽ ra hai người đó đã đến đây rồi chứ?”
Amy rùng mình cảm nhận được một cơn lo sợ. “Mình đi tìm hai anh chị ấy đi.”
Cả hai trèo lên tầng kế tiếp. Khi đến đỉnh dốc, tụi nó trông thấy Theo và Nellie đang đứng cạnh một chiếc cột.
“Bọn chị đang tìm hai em đó!” Nellie nói, mặc dầu Amy cảm thấy dường như cô nàng và Theo đã đứng ở đó từ lâu, tay trong tay.
“Tôi có tin tốt và tin xấu,” Theo nói. “Tin xấu - lăng mộ Nefertari đã đóng cửa.”
“Xong phim!” Dan kêu lên.
“Tin tốt là Theo thật tuyệt vời,” Nellie nhìn Theo bằng cặp mắt lấp lánh cảm phục. “Lem phải xem anh ấy hành động ra sao. Anh ấy đến gặp người có chức vụ cao nhất, một nhà khảo cổ thứ dữ gì đó, và bắt đầu nói với ông ta về việc anh ấy đang viết quyển sách này, và nhà khảo cổ đó bị ấn tượng ngay tức khắc trước sự giỏi giang của Theo đến nỗi đã cho anh ấy thẻ thông hành và nói rằng chúng ta có thể vào bên trong lăng mộ! Thiên tài trăm phần trăm!”
“Cô em nói quá rồi. Chẳng đáng gì đâu.” Theo bảo.
“Đừng khiêm tốn vậy chứ,” Nellie nói.
“Thật sự chẳng có tí gì tài năng của tôi cả. Chỉ là vì cô em quá duyên dáng mà thôi.”
“Ờ, xin chào? Có phải hội mèo khen mèo dài đuôi đây không?” Dan chen vào. “Lăng mộ ư?”
“Phải,” Theo đáp. “Chúng ta nên đi ngay, trước khi ông ta đổi ý.”
“Có lối đi phụ không anh?” Any hỏi. “Em, ừm, đại loại em muốn xem được vài thứ mà du khách sẽ không thấy được.”
“Anh luôn biết đường thoát, còn nhớ không nào?” Theo bảo. “Nhưng chớ quên điều này - nếu nói về những ngôi mộ, thì chỉ có duy nhất một lối đi mà thôi.”
***
“Xem nào, chúng ta buộc phải tuân theo một số luật lệ,” Theo giải thích. “Ngôi mộ này hiện đang ở trong tình trạng rất yếu, do đó tuyệt đối không mang theo máy ảnh, không đèn flash, không đèn pin. Khi tôi mở cửa, ánh sáng sẽ ùa vào. Mọi người sẽ nhìn thấy được đường đi, nhưng không sáng sủa lắm đâu. Các bức bích họa phải được bảo quản bằng mọi giá. Hãy cẩn thận khi bước xuống thang, và không được chạm vào bất cứ thứ gì ở trên tường. Và khi tôi ra hiệu là đã đến giờ đi ra, chúng ta đi ra. Ta có mười phút. Mọi người đồng ý chứ?”
Mọi người đều gật đầu. Theo mở cánh cửa bằng sắt nặng trịch. Anh chàng biến mất đằng sau cổng xuống lăng mộ và cả bọn theo xuống những nấc thang chật hẹp. Không khí càng ở sâu càng mát mẻ hơn, và có mùi bụi. Amy nghe tiếng Dan ho. Con bé hy vọng không khí ngột ngạt sẽ không làm ảnh hưởng đến chứng hen suyễn của nó.
Theo nói khẽ. “Lăng mộ được tìm thấy đã trống rỗng. Trước đó rất lâu, bọn cướp đã lấy đi tất cả rồi. Nhưng nó vẫn còn một kho báu đáng giá hơn.”
Họ bước vào căn phòng đầu tiên. Amy hít một hơi vào buồng phổi. Màu sắc ùa túa ra với nó, vô cùng lung linh, sống động. Những sắc đỏ, vàng, xanh lá, xanh dương.
“Đó, chính là Nefertari. Tên của bà nghĩa là Điều đẹp đẽ nhất.”
Bức vẽ hình người mặc chiếc áo choàng màu trắng trong suốt, có cổ rộng màu vàng và đôi bông tai hình đóa hoa nở rộ.
“Bà ấy thật xinh đẹp,” Nellie nói. “Mình thực sự muốn chỗ nữ trang của bà.”
“Nhìn lên xem,” Theo thầm thì.
Trần trên đầu họ được vẽ bằng màu xanh dương sẫm. Các vì sao màu vàng được vẽ bằng những nét cọ nhanh, hàng nọ nối tiếp hàng kia. Điều này khiến Amy cảm thấy chóng mặt.
“Ngôi mộ được thiết kế ra nhằm làm nơi cho Nefertari giã biệt cuộc sống khi đi xuống thế giới bên kia,” Theo giải thích. Anh dẫn đường ọi người bước xuống những bậc thang hẹp khác. “Rất nhiều vị thần đón chào nữ hoàng và dẫn dắt bà trên suốt cuộc hành trình. Căn phòng cuối cùng chính là phòng chứa mộ.”
Họ đi qua những bức phù điêu tuyệt đẹp và sống động trên tường. “Đó là thần Osiris,” Theo chỉ tay. “Thần âm phủ, chồng nữ thần Isis. Khi ta vào bất kỳ ngôi mộ nào, tức là ta đã vào thế giới của Osiris.”
Họ đi vào trong phòng an táng. “Nơi đây, Isis sẽ dẫn Nefertari tới âm phủ,” Theo giải thích. “Hãy xem cách bà ấy cầm tay nữ hoàng mới nhẹ nhàng làm sao. Và Isis sẽ đặt chìa khóa hình chữ thập, biểu tượng của cuộc sống vĩnh cửu, vào miệng nữ hoàng.”
Amy đã quên hết về manh mối. Thật khó mà tập trung khi có quá nhiều màu sắc và những điều bí ẩn vây quanh. Amy đang đứng giữa một thế giới cổ đại, và tất cả những gì nó muốn làm là xoay tròn và xoay tròn xung quanh để thu gom càng nhiều hình ảnh vào tâm trí càng tốt.
“Mười phút của chúng ta đã hết,” Theo thông báo.
“Nhưng không thể thế được! Chúng ta vừa mới đến đây thôi mà!” Amy phản đối.
“Thời gian ở đây ngưng đọng, có phải không nào? Nhưng ta vẫn phải đi thôi. Em đã tìm thấy cái mình muốn hay chưa?”
“Chưa, nhưng ở đây thật đáng kinh ngạc,” Amy tiếc nuối. Làm thế nào nó có thể chọn riêng ra một con chữ tượng hình hay là một bức điêu khắc chứ? Mọi thứ đều cổ xưa, đã tồn tại hàng ngàn năm trước khi Katherine Cahill được sinh ra. Katherine ắt hẳn đã trông thấy lăng mộ này, hẳn bà đã bước vào chốn này và bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của nó, như chính tụi nó bây giờ. Làm thế nào bà ấy có thể lưu lại thứ gì ở đây khi biết chắc chắn sẽ có ai đó tìm thấy? Bà ấy không thể để lại được món gì ở đây cả; người hướng dẫn của bà cũng chính là bọn cướp lăng mộ, do đó bà biết chắc chắn những đồ vật sẽ không được an toàn.
Amy ngoái nhìn lăng mộ lần cuối trong lúc tất cả leo trở lại lên trên về với không khí và ánh sáng mặt trời. Bà đã để lại thứ gì, hả bà Katherine? Amy tự hỏi.
***
Trong lúc trở về thuyền, họ trông thấy một tờ giấy trắng phất phơ trên cột buồm. “Cái gì thế nhỉ?” Amy hỏi giọng cảnh giác.
“Có lẽ là thực đơn của cửa hàng mua mang đi,” Dan trả lời. “Xác ướp có ăn pizza không nhỉ?”
Cả bọn nhảy lên thuyền và tiến lại gần hơn. Nellie hoảng hốt. Tờ giấy được đính vào cột buồm bằng một con dao trông thật đáng sợ. Lưỡi dao lóe sáng dưới ánh mặt trời.
Họ bước đến gần hơn để đọc tờ giấy.
Cái chết sẽ ập đến kẻ phá bĩnh
giấc yên nghỉ ngàn thu
trong chớp mắt
“Câu này ghê rợn quá,” Nellie rùng mình.
Theo rút con dao ra và vò nát tờ giấy. “Chắc hẳn dân địa phương đang cố hù dọa chúng ta để mua vui đây mà.”
Amy không nghĩ như thế. Nó thắc mắc “Nhưng thế có nghĩa là gì?”
“Đó là lời nguyền của pharaoh,” Theo giải thích. “Một thứ mê tín ngớ ngẩn, chấm hết. Bất cứ ai xâm hại một ngôi mộ sẽ hứng chịu một cái chết kinh hoàng và bất đắc kỳ tử. Là mấy thứ như trong phim kinh dị ấy. Toàn chuyện trẻ con.”
Trẻ con? Dan nhìn Amy. Là Jonah, thằng bé ngầm nói với chị nó.
Nellie chạy đi bày biện bữa trưa mà họ đã mua mang trở về thuyền. “Chúng ta có thể đừng nhắc đến các lời nguyền xác ướp trước khi ăn, có được không? Chúng thật sự khó tiêu đấy.”
Dan và Amy ngồi vào ghế ở ngoài tầm mà Theo và Nellie có thể nghe thấy, hai anh chị đang tán gẫu với nhau trong lúc ăn. “Vậy là Jonah biết chúng ta đang ở đây,” Dan nói.
Amy đang múc một ít baba ghanoush[3] dùng chung với bánh mì Ấn gọi là aish merahrah.
[3] Món cà tím Trung Đông.
“Phải rồi. Chắc là thằng đó. Có vẻ đúng cái kiểu của hắn.”
“Thằng cha đó thà đi theo mình chứ không tự nghĩ ra gì được đâu,” Dan nói. “Nhưng đây là cái gì vậy?”
Amy liếc xuống chiếc đĩa. “Một thứ cà tím gì đó, chị nghĩ vậy.”
“Không phải, cái chúng ta đang mù tịt kia. Chúng ta mù tăm mù tịt 39 manh mối rồi! Phải có lý do vì sao Katherine Cahill dẫn ta đến ngôi mộ đó chứ.” Dan đã thuộc bài thơ ngớ ngẩn của Katherine. Giờ thì nó chầm chậm nhẩm lại bài thơ trong đầu.
Dan ngồi dậy. “Này, chị nhớ không - Từng bước dưới bầu trời sao cổ đại vào tâm trí. Ta đã nghĩ Katherine nói về bầu trời. Nhưng nếu như bà ấy muốn nói...”
“Những ngôi sao trên trần ngôi mộ!” Amy reo lên.
“Từng bước,” Dan nói tiếp. “Chúng ta đã nhìn vào mọi thứ trên tường, nhưng vẫn chưa xem các bậc thang có đúng không? Ta phải quay trở lại ngôi mộ thôi!”