Zorba lắc đầu, hơi có vẻ giễu cợt.
- Tôi biết nói sao đây sếp? Tự nhiên điều đó nảy ra trong óc tôi như vậy. Cái cách sếp ngồi trong góc tiệm cà phê trầm lặng, dè dặt, cắm cúi trên cuốn sách mép vàng ấy tôi không hiểu tại sao tôi cảm thấy sếp thích xúp, có thế thôi. Tự nhiên điều đó đến trong óc tôi, không hiểu được. Lão đột ngột dừng lại và chúi đầu về phía trước lắng nghe.
- Im nhé. Lão nói. Có ai đang đến.
Chúng tôi nghe thấy những tiếng chân bước nhanh và tiếng thở nặng nề của một người đang chạy. Đột nhiên, trong ánh lửa chập chờn hiện ra một tu sĩ mặc chiếc áo dài rách, đầu trần, râu đỏ hoe với một bộ ria nhỏ, người sực mùi dầu parafin.
- A, chào cha Zaharia. Zorba kêu lên. Có chuyện gì mà cha hớt hơ hớt hải như vậy?
Tu sĩ quỳ xuống sàn gần đống lửa. Cằm ông ta run lên.
Zorba cúi xuống ông ta và nháy mắt.
- Phải, tu sĩ trả lời.
- Hoan hô ông thầy tu! Zorba kêu lên. Bây giờ thì chắc chắn cha sẽ được lên Thiên đàng không trật đi đâu được. Và cha sẽ có một can dầu parafin trong tay khi cha bước vào.
- A men, tu sĩ khẽ nói, tay làm dấu thánh giá.
- Sự thể diễn biến ra sao? Lúc nào? Nào, kể cho chúng tôi nghe.
- Tôi thấy thượng đẳng thiên sứ Michael, đạo hữu Canavaro ạ. Ngài đã ra lệnh cho tôi. Đầu đuôi thế này, tôi đang tước xơ đậu ở trong bếp. Các tu sĩ đi đọc kinh chiều cả, còn trơ trọi một mình tôi. Cửa đóng chặt. Tịch lặng hoàn toàn. Tôi nghe tiếng chim hót bên ngoài, nghe như tiếng thiên thần. Tôi đã sửa soạn xong mọi thứ chỉ còn có việc chờ. Tôi đã mua một can dầu parafin, giấu trong miếu đường ở nghĩa địa, ngay dưới bàn thờ để thượng đẳng thiên sứ Michael ban phước cho. Thế, chiều hôm qua, tôi ngồi tước xơ đậu, lan man nghĩ đến Thiên đàng. Tôi tự nhủ: Lạy Đức Chúa Jesus, con cũng xứng đáng ở nước Thiên đàng và con sẵn sàng ngồi tước xơ đậu đời đời trong bếp của Thiên đàng. Tôi nghĩ thế và nước mắt chảy giàn giụa trên mặt. Thình lình tôi nghe thấy tiếng đập cánh trên đầu. Tôi hiểu ra và cúi đầu, sợ run lên. Thế rồi tôi nghe thấy một tiếng nói: "Zaharia ngẩng đầu lên đừng sợ, Nhưng tôi run quá, đến nỗi ngã lăn ra đất. "Ngẩng lên, Zaharia." Cái giọng đó lại nói. Tôi ngẩng đầu lên và trông thấy. Cửa mở toang và đứng trên ngưỡng cửa là thượng đẳng thiên sứ đúng như hình vẽ trên các canh cửa thánh đường của tu viện, y chang, cánh đen, dép đỏ và hào quang vàng óng quanh đầu, có điều thay vì thanh gươm, tay ngài cầm một ngọn đuốc đang cháy. "Chào Zaharia", ngài nói - "Con là tôi tớ của Chúa", tôi đáp. "Ngài sai bảo gì ạ?" - "Hãy cầm lấy cây đuốc rực lửa này và có thể Thượng đế sẽ phù trợ ngươi đó". Tôi giơ tay ra và cảm thấy bỏng rát cả hai lòng bàn tay. Nhưng thượng đẳng thiên sứ đã biến mất. Tôi chỉ trông thấy một vệt lửa trên bầu trời như một vì sao sa.
Tu sĩ lau mồ hôi trên mặt. Sắc diện ông ta nhợt nhạt, răng va vào nhau lập cập như lên cơn sốt.
- Sao thế? Zorba nói. Trấn tĩnh lại, Zaharia. Rồi sao nữa?
Đúng lúc ấy các tu sĩ đọc kinh chiều xong, giải tán đi vào phòng ăn. Trong khi đi qua, lão tu viện trưởng đá tôi như một con chó , làm tất cả các tu sĩ cười rộ . Tôi chẳng nói gì. Sau khi thượng đẳng thiên sứ giáng, không khí vẫn còn phảng phất mùi lưu huỳnh nhưng chẳng ai để ý thấy. "Zaharia", Cha thu ngân nói, "không ăn ư?" Tôi vẫn ngậm miệng. "Y dùng thức ăn của thiên thần là đủ rồi", lão kê dâm Demetrios nói. Cả lũ tu sĩ lại cười ầm lên. Thế là tôi bèn đứng dậy đi ra nghĩa địa. Tôi phủ phục trước thượng đẳng thiên sứ. . . Hàng giờ liền tôi cảm thấy chân ngài đè nặng trên cổ tôi. Thời gian qua nhanh như chớp, ắt hẳn giờ khắc và thế kỷ sẽ trôi qua như vậy trên Thiên đàng. Đã nửa đêm. Vạn vật im lìm. Các tu sĩ đã đi ngủ. Tôi đứng dậy, làm dấu và hôn chân thượng đẳng thiên sứ. "Ý ngài sẽ được thực hiện", tôi nói. Tôi nhấc chiếc can dầu parafin, mở nắp và đi khỏi. Trước đó, tôi đã độn đầy giẻ trong áo tu sĩ tôi đang mặc.
"Đêm tối đen như mực. Trăng chưa lên. Tu viện tối mịt, mịt mùng như địa ngục. Tôi vào trong sân, leo các bậc thềm vào đến khu của tu viện trưởng. Tôi tưới dầu lên cửa ra vào, các cửa sổ và tường. Tôi chạy đến phòng Demetrios. Ở đấy, tôi tưới dầu lên khắp các phòng và dọc theo cái hành lang gỗ rộng lớn - đúng như ông dặn tôi.
Rồi tôi vào trong giáo đường thắp một cây nến từ cây đèn trước tượng Chúa Cứu Thế và bắt đầu khai hỏa."
Lúc này, tu sĩ hổn hển thở không ra hơi và dừng lại.
Mắt ông ta rực lên một ánh lửa bên trong.
- Tạ ơn Chúa. Ông ta gào lên, tay làm dấu thánh giá. Tạ ơn Chúa. Trong phút chốc, cả tu viện cháy đùng đùng. Lửa địa ngục. Tôi hét hết cơ giọng rồi cắm đầu cắm cổ chạy. Tôi chạy hoài chạy hủy và nghe thấy chuông rung cùng lũ tu sĩ la thét. . . và tôi chạy miết, chạy miết. . . Sáng ra, tôi trốn trong rừng. Tôi run cầm cập. Mặt trời lên và tôi nghe thấy bọn tu sĩ xục xạo khắp rừng tìm tôi. Nhưng Thượng đế giăng xuống một màn sương để che cho tôi nên chúng không nhìn thấy tôi. Vào khoảng chập tối, tôi nghe thấy một tiếng nói: "Hãy xuống mé biển. Đi đi." - "Xin thượng đẳng thiên sứ hãy dắt dẫn con, xin hãy dắt dẫn con". Tôi kêu lên và cất bước đi. Tôi chẳng biết mình đi lối nào nhưng đã có thượng đẳng thiên sứ dẫn đường, lúc bằng một ánh chớp, khi bằng một con chim đen trong hàng cây hoặc một vệt đường xuống núi. Và tôi dốc hết sức chạy theo ngài, đặt tất cả lòng tin vào ngài. Và ngài thật quảng đại biết bao, như ông thấy đấy. Tôi đã tìm thấy ông, Canavaro. Tôi đã thoát.
Zorba không nói một lời, nhưng mặt lão ngoác ra một nụ cười rộng đầy nhục cảm, từ khóe miệng đến mang tai lừa lông lá.
Bữa ăn tối đã chuẩn bị xong và lão nhấc nồi xuống khỏi hấp.
- Zaharia, lão hỏi, thức ăn của thiên thần là gì?
- Là tinh thần, tu sĩ vừa trả lời vừa làm dấu.
- Tinh thần à? Nói cách khác tức là rỗng tuếch chẳng có gì? Cái đó đâu có nuôi sống được người, lại đây ăn chút bánh mì với chút ít xúp cá và vài miếng thịt, rồi cha sẽ cảm thấy mình lại là mình. Cha đã làm một việc tốt. Ăn đi.
- Tôi không đói, tu sĩ nói.
- Zaharia không đói. nhưng còn Joseph thì sao? Hắn cũng không đói ư?
Tu sĩ nói khẽ như thể bộc lộ một điều tuyệt mật.
- Joseph bị thiêu cháy rồi, phỉ thui cái linh hồn hắn, cháy thui rồi. Đội ơn Chúa.
- Cháy thui? Zorba kêu lên với một tiếng cười. Như thế nào? Bao giờ? Cha có trông thấy hắn cháy không?
- Đạo hữu Canavaro, hắn cháy ngay cái lúc tôi thắp nến bằng lửa cây đèn trước tượng Chúa Jesus. Tôi thấy tận mắt hắn tòi ra khỏi miệng tôi như một dải băng đen với những chữ lửa. Ngọn lửa nến ngoạm lấy hắn và hắn quằn quại như một con rắn, nhưng rồi bị thiêu cháy ra tro. Thật nhẹ cả người. Tôi cảm thấy như mình đã vào Thiên đàng rồi.
Ông ta đứng dậy khỏi bếp lửa, nơi ông ra ngồi co ro từ nãy đến giờ.
- Tôi sẽ ra ngủ bên bờ biển, tôi được lệnh phải làm thế.
Ông ta bước đi dọc theo mé nước và biến vào trong đêm đen.
- Bác phải chịu trách nhiệm về ông ta đó, Zorba, tôi nói. Nếu cánh tu sĩ tìm thấy ông ta thì ông ta đi đời.
- Họ sẽ không tìm thấy hắn đâu, sếp đừng lo. Cái loại trò chơi này, tôi biết quá đi rồi: sáng sớm mai, tôi sẽ cạo râu cho hắn ta, biếu hắn mấy bộ quần áo ra dáng con người thật sự và đưa hắn xuống một con tàu. Sếp khỏi phải lo cho hắn, chả bõ. Món ninh có ngon không? Hãy ăn bánh mì cho khoái cái lỗ miệng và đừng bận óc về mọi cái khác.
Zorba ăn uống rất ngon lành và lau ria mép. Lúc này lão đang muốn trò chuyện.
- Sếp có để ý thấy không? Lão nói. Con quỷ trong hắn đã chết. Và bây giờ, hắn đâm rỗng ruột, tội nghiệp thằng cha, trống rỗng hoàn toàn, đi đứt. Từ nay trở đi hắn sẽ giống như tất cả mọi người khác thôi.
Lão ngẫm nghĩ một lát.
- Sếp này, sếp có nghĩ là con quỷ trong hắn đã . . . ?
- Dĩ nhiên, tôi đáp. Cái ý đốt tu viện đã ám ảnh ông ta. Bây giờ đốt rồi, ông ta thấy nguôi dịu. Cái ý ấy nó muốn ăn thịt, uống rượu, chín muồi và chuyển qua hành động. Còn ông Zaharia kia thì không có nhu cầu rượu thịt, ông ta trưởng thành bằng chay tịnh.
Zorba xoay đi xoay lại nhận xét đó trong đầu.
- Ờ, tôi nghĩ sếp có lý đấy, sếp ạ. Tôi nghĩ tôi có đến năm, sáu con quỷ trong người cũng nên.
- Tất cả chúng ta, ai cũng có một vài con quỷ trong bản thân. Zorba ạ, bác đừng băn khoăn. Và càng có nhiều càng tốt. Điều chủ yếu là sao cho chúng đều nhằm cùng một mục đích, ngay cả nếu chúng đi theo những con đường khác nhau để đạt tới đó.
Vẻ như những lời đó làm Zorba xúc động sâu sắc.
Lão gục cái đầu to tướng giữa hai đầu gối, ngẫm ngợi.
- Mục đích gì? Cuối cùng lão nói, ngước mắt lên nhìn tôi.
- Làm sao tôi biết được Zorba? Bác chỉ hỏi những câu hóc búa. Làm sao tôi cắt nghĩa được điều đó?
- Sếp cứ nói thật đơn giản cho tôi hiểu. Cho đến nay, bao giờ tôi cũng để những con quỷ của tôi tha hồ muốn làm gì thì làm, muốn đi đường nào thì đi - và chính vì thế mà người gọi tôi là bất lương, kẻ cho tôi là lương thiện, một số nghĩ tôi điên, số khác lại nói tôi khôn ngoan như Solomon. Tôi có tất cả ngần nấy thứ và còn hơn nữa - một món nộm hổ lốn chính cống. Cho nên, hãy giúp tôi làm sáng tỏ thêm đi, sếp... mục đích gì?
- Tôi nghĩ, Zorba ạ - nhưng có thể là tôi sai - tôi cho rằng có ba loại người: những kẻ lấy việc sống cuộc đời mình, ăn uống, làm tình, trở nên giàu và nổi danh làm mục đích, như họ nói ra mồm; rồi đến những kẻ không sống cuộc đời của chính mình mà lấy việc quan tâm đến cuộc đời những người khác làm mục đích - họ cảm thấy tất cả mọi người là một và họ cố gắng khai sáng đồng loại, hết lòng thương yêu đồng loại và mang lại lợi ích cho đồng loại, cuối cùng, có những kẻ nhằm sống cuộc sống của toàn thể vũ trụ - tất thảy con người, thú vật, cây cối tinh tú, chúng ta đều là một, chúng ta đều là một tố chất tham gia vào cuộc đấu tranh chung ghê gớm. Cuộc đấu tranh gì?... Biến vật chất thành tinh thần.
Zorba gãi đầu:
- Cái sọ tôi nó đặc sệt, sếp ạ, tôi không dễ gì mà nắm được những điều này... ôi, giá mà sếp có thể nhảy múa để diễn đạt tất cả những điều vừa nói, thế thì tôi hiểu được.
Tôi cắn môi, sửng sốt. Giá tôi có thể nhảy múa để diễn đạt tất cả những ý nghĩ tuyệt vọng đó. Nhưng tôi không có khả năng ấy, đời tôi lỡ rồi.
- Hoặc nếu sếp có thể nói tất cả những điều đó trong một câu chuyện, sếp à. Như Hussein Aga đã làm. Đó là một lão già Thổ Nhĩ Kỳ, hàng xóm của chúng tôi. Già lụ khụ, nghèo rớt mồng tơi, không vợ không con, cô đơn hoàn toàn. Quần áo lão rách rưới nhưng sạch bóng. Lão tự giặt lấy quần áo, tự nấu ăn lấy, cọ rửa sàn bóng lộn và ban đêm thường sang chơi nhà chúng tôi. Lão thường ngồi ngoài sân với bà tôi cùng với một số bà già khác và đan bít tất. Thế, như tôi đã nói, lão Hussein Aga ấy là một con người thánh thiện. Một hôm lão bế tôi lên lòng và đặt tay lên đầu tôi như thể ban phước lành cho tôi. "Alexis", lão nói, "ông kể cho cháu nghe một điều bí mật nhé. Bây giờ cháu còn bé quá chưa hiểu được, nhưng khi nào lớn lên, cháu sẽ hiểu. Nghe đây, cháu bé, cả bẩy truyện về trời lẫn bẩy truyện về đất đều không đủ sức chứa Thượng đế, nhưng một trái tim người thì đủ. Cho nên, cháu phải rất thận trọng - và mong sao ông có thể ban phước lành cho cháu - đừng bao giờ gây tổn thương cho một trái tim người.
Tôi im lặng nghe Zorba. Tôi nghĩ thầm: giá mình có thể ngậm miệng cho đến khi ý niệm trừu tượng đạt tới tột đỉnh và trở thành một câu chuyện! Nhưng chỉ có những nhà thơ lớn mới đạt tới mức như thế được, hoặc cả một dân tộc sau hàng mấy thế kỷ cố gắng thầm lặng.
Zorba đứng dậy :
- Để tôi đi xem tên phóng hỏa của chúng ta ra sao và đắp cho hắn tấm mền để hắn khỏi cảm lạnh. Tôi cũng sẽ mang theo chiếc kéo nữa, chắc không phải là một công việc thượng đẳng gì cho lắm.
Lão cười khanh khách men theo bờ nước, tay cầm kéo và mền. Trăng vừa lên và tãi một ánh sáng nhợt nhạt, bệnh hoạn trên mặt đất.
Còn lại một mình bên đống lửa đang tàn, tôi cân nhác đánh giá lới lẽ của Zorba - nó giàu ý nghĩa và có một mùi trần thế nồng ấm. Ta cảm thấy nó dâng lên từ đáy sâu bản thể lão và vẫn giữ một hơi ấm con người. Lời của tôi thì bằng giấy. Nó từ đầu óc giội xuống, họa hoằn mới hoen một đốm máu. Nếu nó có chút giá trị nào thì chính là nhờ đốm máu ấy.
Nằm sấp bụng xuống, tôi đang bới lớp than tàn còn ấm thì Zorba trở về, hai cánh tay thõng bên sườn và một vẻ kinh ngạc trên nét mặt.
- Sếp xin đừng xem đây là chuyện quá nghiêm trọng . . .
Tôi bật dậy.
- Lão tu sĩ chết rồi, Zorba nói.
- Chết rồi?
- Tôi thấy hắn nằm trên một tảng đá, dưới ánh trăng vằng vặc. Tôi quỳ xuống bắt đầu cắt râu và tàn tích của bộ ria. Tôi cắt hoài, cắt mãi mà hắn vẫn không động cựa chi hết. Tôi bốc lên, bắt đầu gọt nhẵn cả mái tóc lờm xờm của hắn, chắc tôi đã cắt đi ít nhất là nửa ký râu tóc khỏi mặt hắn. Rồi khi thấy hắn như vậy, trụi thui lủi như con cừu bị xén lông, tôi cười như nắc nẻ: "Này, Signor Zaharia! Tôi kêu lên vừa cười vừa lay hắn. Dậy đi mà xem phép lạ Đức Mẹ Đồng Trinh vừa hoàn thành!". Dậy cái cóc khô! Hắn không động đậy. Tôi lại lay hắn. Chẳng thấy gì! Tội nghiệp thằng cha, lẽ nào hắn đã tịch nhanh thế được, tôi tự nhủ. Tôi cởi chiếc áo dài của hắn, phanh ngực hắn ra và đặt tay lên mé trái tim hắn. Thình thịch, thình thịch? Chẳng thấy gì hết! Máy đã ngừng chạy.
Trong khi nói, Zorba trấn tĩnh lại. Trước cái chết lão đã lặng người không nói được mất một lúc, nhưng chẳng mấy chốc lão đã ổn định lại đâu vào đấy.
- Bây giờ ta phải làm gì đây, sếp? Theo tôi, ta phải thiêu hắn. Kẻ nào giết người khác bằng dầu parafin, chính hắn sẽ chết bằng dầu parafin. Trong kinh Phúc âm, có câu nào tương tự như thế không? Quần áo hắn nhớp bẩn cứng quèo, dầu parafin sẵn đây, hắn sẽ cháy bùng lên như chính Judas trong Ngày thứ Năm Thánh.
- Bác muốn làm thế nào thì làm, tôi nói, lòng bối.
Zorba trở nên đăm chiêu suy nghĩ sâu xa.
- Thật là rầy rà, cuối cùng lão nói, rầy rà quá. Nếu châm lửa vào hắn, quần áo hắn sẽ cháy đùng đùng như bó đuốc, nhưng tội nghiệp hắn chỉ còn da bọc xương. Gày đét như hắn tất sẽ phải mất rất nhiều thì giờ mới cháy ra tro hết. Người hắn chẳng có lấy một phân mỡ nào để gia tăng ngọn lửa.
Lão lắc đầu nói thêm:
- Nếu có Chúa Trời, theo sếp, liệu Người có biết trước mọi sự việc này mà cho hắn có tí mỡ tí thịt để giúp cho chúng ta nhẹ việc không? Sếp nghĩ thế nào?
- Đừng có ngoéo tôi vào chuyện này. Bác muốn làm gì thì cứ làm, nhưng làm nhanh nhanh lên.
- Tốt nhất là có một thứ phép lạ nào đó xảy ra. Bọn tu sĩ kia sẽ phải tin rằng đích thân Chúa đã biến thành thợ cạo xuống cạo râu cho hắn, rồi kết liễu đời hắn để phạt về cái tội phá tu viện.
Lão gãi đầu.
- Nhưng phép lạ nào? Phép lạ nào mới được kia chứ? Đó chính là chỗ mi bế tắc, Zorba.
Mảnh trăng lưỡi liềm đã sắp lặn xuống chân trời và chuyển sang màu đồng được đánh bóng.
Mệt mỏi, tôi đi ngủ. Rạng sáng thức dậy, tôi thấy Zorba đang pha cà phê bên cạnh. Mặt lão trắng bệch, mắt đỏ ngầu và sưng húp vì mất ngủ. Nhưng đôi môi dê của lão tủm tỉm cười ranh mãnh:
- Đêm qua tôi không ngủ, sếp ạ, tôi có chút việc phải làm.
- Việc gì, lão xỏ lá?
Lão cười to và đặt ngón tay chẹn ngang môi.
- Tôi không nói cho ông biết vội! Mai là ngày làm lễ khánh thành hệ thống dây cáp vận chuyển của chúng ta. Tất cả lũ lợn béo ấy sẽ có mặt ở đây để ban phước, rồi chúng sẽ được biết về phép lạ mới do Đức Mẹ Báo Oán vừa ra tay thực hiện - vĩ đại thay quyền lực của Ngài!
Lão dọn cà phê ra:
- Sếp biết không, tôi nghĩ mình có thể làm một tu viện trưởng cừ khôi, lão nói. Nếu tôi khai trương một tu viện, tôi cuộc với sếp là tất cả các tu viện khác sẽ phải đóng cửa mất hết khách với tôi. Các ngài thích nước mắt ư? Một miếng bọt biển ướt bé xíu đặt đằng sau các thánh tượng, thế là các vị thánh sẽ tha hồ mà khóc. Thích sấm sét đùng đùng? Tôi sẽ để một cái máy dưới bàn thờ cho nó chạy rầm rầm đến điếc tai. Thích ma? Cho hai tu sĩ tin cẩn nhất choàng "dra" trắng ban đêm lượn lờ trên mái tu viện. Và mỗi năm, tôi tập hợp một đám mù lòa, què cụt và bán thân bất toại nhân ngày hội Đức Mẹ và lo liệu sao cho chúng lại nhìn thấy ánh mặt trời, hoặc đứng thẳng dậy được, để nhảy múa ngợi ca sáng danh Mẹ! Có gì đáng cười hả sếp? Tôi có ông chú, một hôm thấy một con la già sắp chết. Người ta đem bỏ cho nó chết trong núi. Chú tôi đem nó về nhà. Sáng sáng chú tôi dắt nó ra bãi chăn và tối lại dẫn nó về. Này Haral bos! Dân làng thường gọi lớn khi thấy ông đi qua. "Ông cho rằng ông có thể làm gì với cái con la già ấy?" - "Nó là nhà máy sản xuất phân bón của tôi." Chú tôi trả lời. Vậy đó, sếp ạ, trong tay tôi, tu viện sẽ là một nhà máy làm ra phép lạ.