Chương 18: Hoa trong mưa gió, cỏ nào không lay động
Tôi cảm thấy phải rất lâu sau mới tỉnh lại từ cơn mê man, lúc ngẩng đầu lên, Đường Thiên Trọng đang khoác tấm áo trên người ngồi trước giường, đầu tóc rối bời, rõ ràng là vừa mới khoác y phục vào. Có điều ở đầu giường có thêm hai vị thái y chuyên chẩn bệnh, chữa trị cho phủ Nhiếp chính vương, gương mặt hoang mang, lo sợ, đứng bắt mạch cho tôi. Vô Song cầm một chiếc đèn dài đứng phía cuối giường, đang lo lắng bội phần nhìn về phía thái y, bỗng nhiên quay sang nhìn thấy tôi mở mắt ra, lập tức mặt mày hớn hở, vội vã hỏi: “Cô nương, người tỉnh rồi sao? Người cảm thấy thế nào?”
Tôi lắc đầu nói: “Ta không sao hết. Có điều cảm thấy lồng ngực bí bách, khó chịu thế nào ấy.”
Đường Thiên Trọng mắng nhiếc thái y: “Lần trước các ngươi chẩn trị, không phải nói nàng ấy đã hồi phục sức khỏe rồi sao? Hôm nay là vì nguyên do gì?”
Thái y đưa tay lên lau mồ hôi, thận trọng đáp lại: “Cô nương gan không kịp giải độc, uất khí trong người quá nhiều, khí huyết lại không lưu thông, thêm vào đó tâm trạng không vui, khiến cho lồng ngực tức khí, bức bối khó chịu…”
Đường Thiên Trọng phát cáu: “Không cần phải nói với bản hầu nhiều thế. Bây giờ nói luôn rốt cuộc đây là bệnh gì, có nghiêm trọng hay không?”
Thái y mỉm cười đáp lại: “Từ trạng thái lúc này thì có thể thấy uất khí trong người đã giảm bớt nhiều rồi. Chúng thần kê đơn thuốc giải khí mát gan cho cô nương chắc là không sao nữa. Có điều…”
“Có điều cái gì?”
“Có điều cô nương đã suy nghĩ đắn đo, sầu muộn quá nhiều, bất cứ việc gì cũng nên nghĩ thoáng một chút. Cho dù bi thương, sầu thảm đến mức nào, nếu như tích tụ thành bệnh thì sẽ… thì sẽ…”
Còn chưa nói dứt lời thì Đường Thiên Trọng đã xua tay cho họ cáo lui: “Lập tức ra ngoài kê đơn, rồi sắc thuốc mang tới đây. Nếu như điều trị không khỏi, ta sẽ hỏi tội các ngươi.”
Hiếm khi thấy Đường Thiên Trọng phát cáu kiểu này, ngay cả Cửu Nhi mọi khi nhí nhảnh, nhanh mồm nhanh miệng, giờ cũng im bặt, lặng lẽ lau mồ hôi trên trán cho tôi, lén lút nhìn sắc mặt của ngài không dám nói gì nhiều.
Đợi thái y rời đi, đám người hầu mang đơn thuốc đi sắc, Đường Thiên Trọng dường như đang rất phiền não, đi đi lại lại trước giường tôi liên tục. Tấm rèm bị gió thổi bùng lên cuốn vào vạt áo của ngài, liền thấy ngài nắm chặt lấy tấm rèm, nghe "xoẹt” một tiếng, cả tấm rèm bị xé rách, rơi xuống sàn.
Ngài lạnh lùng nhìn tấm rèm có thêu hoa văn sông nước rơi trên sàn, lại đi qua đi lại trong phòng, nhìn tôi cất tiếng hỏi: “Là ta đã khiến nàng u sầu thành bệnh sao?”
Tôi nhất thời không thể đáp lại được, còn ngài dường như cũng chẳng cần câu trả lời của tôi, “hừ” một tiếng rồi nhanh chân bước ra khỏi phòng, đóng sập cánh cửa lại.
Lần này, ngay cả Vô Song, nô tì tâm phúc, trung thành với ngài nhất cũng không dám bước lại gần khuyên can, chỉ dặn dò Cửu Nhi và mấy người hầu khác phải chăm sóc tôi thật tốt rồi vội vã chạy theo sau Đường Thiên Trọng ra ngoài.
Tôi uống thuốc xong, nằm trằn trọc đến tận sáng mới cảm thấy lồng ngực dần thoải mái, dễ chịu hơn, dần dần mới có thể ngủ ngon được.
Đường Thiên Trọng sau đó không quay về phòng nữa, tôi chỉ nghe Vô Song nói, ngài đã ở lại bên thư phòng.
Đến buổi sáng ngày hôm sau, Đường Thừa Sóc liền bảo Lục phu nhân sang thăm hỏi tình trạng bệnh tật của tôi. Căn bệnh này đến nhanh mà đi cũng nhanh, tôi đã cảm thấy hồi phục nhiều, cũng không dám khiến cho trưởng bối phải lo lắng, nên trả lời là không sao. Buổi chiều lại đến nói chuyện cùng ngài một lúc, sau đó bị ngài đuổi về Đình sen, nói tôi phải tĩnh dường cho khỏe hẳn rồi mới được đến gặp ngài tiếp.
Còn cuộc sống của tôi kể từ hôm đó lại trầm lắng, tĩnh lặng trở lại.
Đường Thiên Trọng không hề quay lại Đình sen một lần nào, nghe nói công việc triều chính bận rộn, hầu hết thời gian đều ở Phú Liên Các trong Hoàng cung, ban ngày thỉnh thoảng quay về, chẳng qua cũng chỉ muốn thăm hỏi bệnh tình của phụ thân, bàn thảo một vài chuyện triều chính, không lâu sau đó lại quay về cung ngay. Xưa nay tôi cùng đã quen với việc đơn độc, nếu như ban ngày thường xuyên đến nói chuyện, xoa bóp, bấm huyệt cho Nhiếp chính vương thì cũng chẳng cảm thấy cô đơn gì cả. Có điều mồi lần đến giờ dùng bữa tối, Vô Song vẫn thường đặt thêm một bộ bát đũa ở chỗ Đường Thiên Trọng hay ngồi, lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng nghênh đón ngài đến. Điều này bỗng nhiên khiến tôi cảm thấy, chỗ ngồi trống trải kia dường như cũng khiến cho trái tim tôi trống rỗng, cô liêu hơn.
Buổi tối không có việc gì làm, tôi thường hay đọc sách, thổi tiêu, thi thoảng lại ngây người ngắm hồ sen trong sắc đêm thê lương, sau đó thì đi ngủ.
Còn bọn Vô Song, Cửu Nhi… lại không chịu nổi nhàn nhã, rảnh rang quá độ, nên lại lấy số gấm vóc hôm trước may y phục, nói là chuẩn bị dùng danh nghĩa của tôi đem tặng cho Đường Thiên Trọng vào ngày sinh nhật của ngài, hơn nữa còn nói là do tôi đích thân may.
Tôi cũng đến đó nhìn mấy lần, đường kim mũi chỉ nói cho cùng cũng chẳng thể bằng tôi được, nên muốn nhấc kim đến giúp đỡ một tay. Sau đó lại nghĩ đến Đường Thiên Trọng tâm tư sâu thẳm, mưu mô thủ đoạn, cảm thấy hơi buồn lòng, nên đành để mặc bọn chúng, chẳng thèm để tâm đến nữa.
Buổi chiều hôm đó, nghe nói bệnh tình của Nhiếp chính vương đột nhiên trở nặng, tôi cùng Vô Song vội vã chạy tới xem tình hình ra sao, mới bước đến cửa vào sân vườn thì đã bị hộ vệ của Đường Thừa Sóc ngăn lại.
“Thanh cô nương, vương gia đang tiếp khách quý, không thể vào thăm lúc này được. Phiền cô nương quay về, một lúc nữa quay lại.”
Bởi vì tôi thường xuyên tới đây, nên mấy tên hộ vệ đứng canh bên ngoài cũng quen mặt tôi hết, chắc hẳn ngài đang tiếp trọng thần triều đình nên không tiện cho tôi gặp mặt.
Tôi liền đồng ý, đúng lúc quay người bước đi, Vô Song hiếu kỳ liền hỏi thêm một câu: “Khách đến thăm là vị đại nhân nào thế?”
Mấy người hộ vệ mím môi chặt lại, làm một động tác im lặng rồi khẽ tiếng nói: “Khách đến thăm lần này không phải là mấy vị đại nhân đâu. Mà là vị thiên tử nhàn hạ của chúng ta, nghe nói bệnh tình Nhiếp chính vương trở nặng cho nên tới hỏi thăm thôi.”
Đường Thiên Tiêu?
Lòng tôi bỗng run lên, nhớ lại những lời nói ngọt ngào, ấm áp đầy tin tưởng của ngài với tôi trước khi tới am Tây Hoa, bất quay đầu lại, nhìn về phía căn phòng của Đường Thừa Sóc, rồi mới cúi đầu xuống, tiếp tục cất bước quay về.
Vô Song lại tỏ ra bất an hơn cả tôi, chạy lại gần rồi nói: “Điều này đúng là kỳ lạ, trong phủ không hề thấy nghênh giá, chắc hẳn Hoàng thượng mặc áo thường phục tới đây, không biết ngài tìm lão vương gia có việc gì, cũng chẳng biết hầu gia của chúng ta có biết chuyện hay không?”
Tôi liền nhíu mày nói: “Ngài đến hay không thì có liên quan gì đến việc hầu gia biết chuyện không?”
Vô Song ngây người đi, bỗng nhoẻn miệng cười rồi nói: “Cô nương nói vậy cũng đúng. Có điều hầu gia cả ngày hao tâm tổn sức giải quyết chính sự, luôn luôn để tâm đến Hoàng thượng, nếu như ngay cả việc Hoàng thượng đến thăm phủ đệ của mình mà không biết thì chắc là không vui đâu.”
Không vui là chuyện đương nhiên rồi, thậm chí còn suốt ngày theo dõi, giám sát Đường Thiên Tiêu là vì mục đích gì thì e là chỉ có mình Đường Thiên Trọng thấu hiểu mà thôi.
Khoảng thời gian gần đây, tôi cũng thường xuyên nói chuyện cùng Nhiếp chính vương, nên cảm thấy Đường Thừa Sóc không hề có bất cứ thành kiến gì với vị thiên tử trẻ tuổi này, ngoài việc oán trách vì ngài quá lười nhác, phởn phơ thì không hề nhận thấy bất cứ ác ý nào cả.
Nếu như Đường Thiên Tiêu đến đây để gặp Đường Thiên Trọng, thì tôi hoàn toàn nghi ngờ không biết ngài có thể an lành mà bước ra khỏi phủ Nhiếp chính vương hay không nữa.
Tôi đã dần dần đi vào hậu viện, hồ sen với những phiến lá úa tàn dần hiện lên trước mắt.
Bởi vì trời đã sang thu, bọn Vô Song sợ trông hồ sen quá đối thê lương, nên nói với bên quản sự trồng thêm mấy loại hoa nở vào cuối thu như phù dung, kim quế ở một góc hồ, sau đó còn đặt rất nhiều chậu hoa cúc quanh khu đình, tất cả đều đang sắp nở rộ.
Vô Song dù được tin tưởng đến mức nào cũng chỉ là một tiểu nha đầu, lời nói làm sao có khiến ấy người bên phòng quản sự làm theo răm rắp được, chắc hẳn đây là do Đường Thiên Trọng dặn dò.
Đúng lúc đang suy nghĩ, thì phía sau truyền lại tiếng chân bước vội vã, tiếp theo đó là tiếng nói hổn hển của một người hầu gái: “Vô Song tỷ tỷ, Vô Song tỷ tỷ.”
Hai chúng tôi liền đứng lại, khi quay đầu ra sau đã nhìn thấy người hầu gái đó đang vội vã chạy tới, hành lễ với tôi rồi nói cùng Vô Song: “Hầu gia đang ở cửa ngoài kia, đứng đợi gặp tỷ tỷ để nói chuyện, thấy bảo ngài đang có chuyện gấp.”
Vô Song vốn dĩ đang cảm thấy ảo não, lo lắng cho Đường Thiên Trọng, nghe thấy vậy liền đáp lại rồi nhìn sang phía tôi nói: “Cô nương hãy về phòng trước đi, nô tì phải qua đó xem sao.”
Đường Thiên Trọng gọi Vô Song gấp như vậy nhất định đang có chuyện gì cần kíp, tôi cũng vội vã lên tiếng: “Ngươi mau đi đi, đừng để hầu gia phải đợi lâu.” Thế là Vô Song vội vã đi theo người hầu gái kia rời khỏi, tôi một mình chậm rãi bước về phòng.
Vào những ngày thu nhàn hạ, ngô đồng khẽ rơi, hoa lá tung bay, tôi đơn độc bước đi, cánh nhạn cô đơn trên trời khiến cho tôi càng thêm cô liêu. Thật lòng không biết được Đường Thiên Trọng đang âm thầm sắp đặt mưu kế ra sao, còn Đường Thiên Tiêu liệu có nghĩ ra đối sách gì để củng cố giang sơn được truyền lại từ tổ tiên.
Đúng lúc đang cảm khái, tôi đột nhiên nghe thấy có ai đó đang gọi mình: “Nha đầu Thanh Vũ.”
Tôi quay đầu lại, suýt nữa la lên thất thanh: “Hoàng…”
Người đó như thể đã tiên đoán được từ trước liền đưa tay bịt miệng tôi lại, còn tay kia nhẹ nhàng vòng qua đường eo, ôm tôi vào lòng, nhanh chóng kéo tôi ra phía sau hòn non bộ ở cạnh bên hồ sen, cười hi ha một lúc mới chịu buông tôi ra.
Ngài nhìn tôi bằng ánh mắt vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, nắm tay tôi rồi hỏi: “Nàng vẫn khỏe chứ?”
Tôi thật lòng không hiểu nổi vị Hoàng đế chí tôn vô thường này đã làm thế nào mà tránh né được tai mắt của người khác chạy được tới đây, nhìn ngài một hồi lâu mới cất tiếng đáp lại: “Thiếp… thiếp vẫn khỏe.”
“Ồ.” Đường Thiên Tiêu nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ: “Có thật là khỏe không? Thế tại sao hôm trước trẫm lại nghe thấy nàng bị bệnh, lại còn cãi nhau cùng hầu gia, đến nay vẫn còn chưa làm lành?”
Tôi cảm thấy hơi kinh ngạc. “Ngài… làm sao mà ngài biết được?”
Rất nhanh sau đó tôi cảm thấy câu hỏi này của mình quá đối ngốc nghếch. Đường Thiên Trọng có thể sắp xếp tai mắt của mình khắp Hoàng cung thì Đường Thiên Tiêu cũng không phải hạng người vô năng, ngu ngốc, làm sao lại không sắp xếp một số tâm phúc của mình trong phủ Nhiếp chính vương chứ?
Đường Thiên Tiêu nhìn tôi một cách kỹ càng rồi than thở: “Ta vẫn luôn cho rằng Đường Thiên Trọng một lòng một dạ thích nàng, nhất định sẽ đối xử rất tốt với nàng. Thế nhưng ta nhìn bộ dạng của nàng sao lại gầy guộc, nhợt nhạt hơn hồi còn ở trong cung thế? Chiếc cằm này gầy đến mức nhọn hoắt ra, sắc mặt thì nhợt nhạt… có điều hình như cao hơn trước đó một chút, trông cũng tươi tỉnh, xinh xắn hơn trước kia.”
Rời khỏi Hoàng cung, đang ở nơi nguy hiểm trùng trùng mà ngài vẫn không đổi được cái tật đùa cợt của mình. Ngài đưa tay ra vuốt lên mặt tôi, giọng điệu đùa giỡn: “Nhìn thấy nàng thành tâm thành ý muốn rời khỏi trẫm, rời khỏi Hoàng cung, lẽ nào thật sự cho rằng Đường Thiên Trọng đối xử với nàng tốt hơn trẫm hay sao?”
Tồi hoang mang tránh khỏi bàn tay của ngài, khẽ khàng nói: “Hoàng thượng, xin ngài hãy tự trọng. Chỗ này… không phải là Hoàng cung.”
Đường Thiên Tiêu gật đầu rồi nói: “Chỗ này không phải là Hoàng cung, nàng cũng không còn là chiêu nghi của trẫm nữa. Trẫm dù không cam tâm tình nguyện, Đường Thiên Trọng cũng có thể tìm ra hàng vạn lý do để chứng minh thi thể đó là của nàng. Nha đầu chết tiệt…”
Ngài than thở đầy oán trách nhưng không hề nghe thấy chút uất ức, ảo não sau khi bị người khác lừa gạt, ức hiếp.
Có điều tôi vẫn cảm thấy áy náy nên cúi đầu nhận lỗi: “Hoàng thượng, việc ở am Tây Hoa trước đó… là thiếp đã lừa gạt ngài.”
Đường Thiên Tiêu hoàn toàn không có ý trách móc, chỉ than thở: “Trẫm đâu phải không nghĩ tới việc nàng đang lừa trẫm? Thế nhưng trẫm luôn lo lắng nàng và Nhã Ý bị kẹt giữa trẫm và Đường Thiên Trọng mãi, e rằng không tốt, cho nên chỉ muốn nàng có thể giải tỏa tâm trạng trong tầm kiểm soát của mình. Đáng tiếc… trẫm tự nhận là đã quản lý khá chặt chẽ, vậy mà các nàng vẫn có thể thừa cơ trốn thoát. Trẫm không thể tìm được nàng lại còn để tên khốn kiếp Đường Thiên Trọng đắc ý.”
Tôi chợt nhớ lại mùa hè trước đó mấy lần suýt nữa bị đẩy đến đường cùng, đôi mắt bỗng nhiên đỏ bừng lên, tựa vào hòn núi giả phía sau, lặng lẽ ngồi xuống ôm đùi.
Đường Thiên Tiêu vỗ nhẹ lên đầu tôi, mỉm cười rồi nói: “Lần này thì hối hận rồi đúng không? Không sao, trẫm nhất định sẽ nghĩ cách đón nàng hồi cung.”
Nói cho cùng ngài vẫn nhớ đến tôi, vẫn sợ tôi chịu khổ chịu nạn.
Giọng tôi bỗng khản đặc lại, miễn cưỡng mỉm cười lên tiếng: “Thiếp… cũng chẳng có gì hối hận cả. Nếu như có thể chọn lại lần nữa, có lẽ thiếp vẫn làm như vậy, vẫn mong có kết quả như vậy. Hoàng thượng không cần phải lo lắng đâu. Thiếp đã không còn là một Ninh Thanh Vũ trong lòng vẫn còn hy vọng, chờ trông như trước kia nữa rồi. Đây có lẽ… chính là số phận của thiếp.”
Đôi mắt Đường Thiên Tiêu bỗng nhiên trầm lắng, nhưng rất nhanh sau đó ngài bật cười nói: “Được rồi, có điều gì mà trẫm không biết chứ. Nàng cho rằng, Đường Thiên Trọng cũng có tính tình tốt bụng, dễ chịu như trẫm hay sao, nhìn thấy nàng nước mắt ngắn dài kề dao bên cổ đòi sống đòi chết là sẽ buông tha cho nàng hay sao? Có mà nằm mơ giữa ban ngày! Bây giờ hoàng thúc vẫn còn, dù có khoa trương đến mức nào Đường Thiên Trọng cũng không dám có hành động gì quá đáng, một khi Nhiếp chính vương mất đi, đến lúc đó, binh đao loạn lạc, phúc họa khó lường, đời người vô biên, chẳng biết thời thế sẽ ra sao nữa. Nếu như trẫm bại, có thế nào cũng chỉ có thể chấp nhận số phận mà thôi, còn nếu hắn thất bại, trẫm… sẽ không bao giờ để nàng phải uất ức nữa.”
Từ xưa đến nay tôi không bao giờ thích hỏi chuyện chính sự, nhưng bản thân tôi lại bị cuốn vào chuyện này, muốn dứt ra mà chẳng được. Tôi bèn ảo não hỏi: “Hoàng thượng và Đường Thiên Trọng thật sự phải như nước với lửa, nhất định phải gây một phen người sống kẻ chết mới được hay sao?”
Ánh mắt Đường Thiên Tiêu nhanh chóng phừng phừng lửa hận, trầm giọng nói: “Câu này nàng phải mang đến hỏi Đường Thiên Trọng mới đúng. Gần đây, hắn bắt đầu tăng cường phòng bị trong quân, ý đồ muốn giảm bớt binh lực trong tay tướng quân Phiêu Kị, Phiêu Quốc. Nếu như không phải mẫu hậu âm thầm cảnh cáo, lại nói chuyện cùng Nhiếp chính vương thì e là hắn đã sớm chỉ mũi kiếm về phía trẫm rồi.”
Tôi lầm bầm than thở: “Tại sao… tại sao phải khổ thế chứ?”
Đường Thiên Tiêu cảm nhận được nỗi bất an trong tôi, lập tức mỉm cười, thu lại hết ánh mắt tràn đầu căm giận và sát khí khi nãy, cố tỏ ra thoải mái nói thêm: “Thật ra nói cho cùng đây cũng là chuyện của đàn ông. Trẫm chỉ lo nàng ở đây chịu khổ sở, không kiềm chế được, nên mới tới chỗ hoàng thúc thăm hỏi, vừa nãy mượn cớ ra ngoài tản bộ dạo mát, nói là đi vệ sinh rồi chuồn tới đây, nói chuyện cùng nàng, khuyên nàng vài câu. Cũng muộn rồi, trẫm phải rời khỏi đây luôn. Tự mình bảo trọng đấy.”
Nhìn thấy ngài vẫy vẫy tay, ngắt ngọn cỏ cạnh bên hòn non bộ quay người bước đi, tôi đột nhiên nhớ ra một chuyện, gọi ngài đứng lại: “Nhã Ý tỷ tỷ… có lẽ cũng đau lòng lắm, miếng ngọc bội cửu long này… tỷ tỷ nhờ thiếp trả lại cho ngài.”
Đường Thiên Tiêu quay đầu lại, khuôn mặt hiện rõ nét sầu muộn, bi thương. Ngài khẽ lên tiếng: “Vậy… vậy thì bỏ đi. Sau này, nàng gặp phải chuyện khó khăn gì muốn trẫm giúp đỡ, thì cứ cầm miếng ngọc bội này đến tìm người họ Trương làm tạp vụ ở trong phòng bếp nhờ chuyển lời, trẫm sẽ nghĩ cách giúp nàng bằng được.”
Tôi đành nghe theo lời của ngài, lại không kìm được nỗi buồn trong lòng mình, tiến lên trước một bước, nói: “Hoàng thượng, ngài cũng cần phải… bảo trọng đấy.”
Người họ Trương đó chắc hẳn là tai mắt của Đường Thiên Tiêu sắp đặt trong phủ Nhiếp chính vương. Tôi đã từng lừa ngài một lần, vậy mà ngài vẫn tin tưởng đem chuyện này nói cho tôi biết mà không sợ tôi sẽ bẩm lại cho Đường Thiên Trọng nghe.
Ngài đối với tôi, cũng coi như thành tâm thành ý.
Có lẽ do nghe thấy tôi nói nghiêm túc, Đường Thiên Tiêu quay người qua, khóe miệng khẽ nhếch lên, trên khuôn mặt hiền hòa bỗng thêm vài phần thương cảm, xót xa. Thế nhưng ngài vẫn trêu chọc tôi: “Ninh đại mỹ nhân đã dặn dò vậy, trẫm lại dám không bảo trọng sức khỏe hay sao? Có điều, Thanh Vũ nha đầu, Nhã Ý tức giận trẫm, không làm nữa, nhưng nàng đừng quên làm cho trẫm một chiếc. Hai người chẳng ai làm, bảo trẫm lấy đâu ra để dùng đây?”
Không thèm đợi tôi trả lời, ngài đã khom người luồn qua một cành cây thấp, vừa chớp mắt đã biến mất tông mất dạng.
Tôi ngây người một lúc, đang chán nản bước ra khỏi hòn non bộ, liền nhìn thấy Cửu Nhi và mấy người hầu gái mặt mày hoang mang, hoảng loạn chạy trên chiếc cầu trúc. Vừa nhìn thấy mặt tôi, bọn chúng đều lộ rõ vẻ hân hoan, vui vẻ nói: “Cô nương đang ở đằng này, ở đằng này này.”
Tôi định thần lại, liền đáp lại: “Làm sao thế? Tại sao ai nấy đều hoang mang, hoảng hốt vậy?”
Cửu Nhi lau đi lớp mồ hôi dày trên trán rồi nói: “Cô nương vừa mới đi đâu thế? Lúc bọn nô tì đang ngồi trong phòng thêu thùa, nhìn qua cửa sổ thấy cô nương đang bước lại gần, vậy mà đợi bao nhiêu lâu vẫn không thấy cô nương về đến phòng. Thế nên nô tì mới bảo con tiểu nha đầu ra đầu cầu trúc nghênh đón, không ngờ nó lại bảo chẳng nhìn thấy cô nương đâu hết, khiến bọn nô tì lo sốt vó lên. Cô nương vừa mới đi đâu về thế?”
Chỗ ban nãy tôi đứng chính là góc chết mà đứng ở trong cửa sổ ngó ngang ngó dọc cũng chẳng tài nào ngó nổi, xem ra đây chính là chỗ mà Đường Thiên Tiêu đã tính toán từ đầu.
Tôi tiện tay chỉ về phía hòn non bộ rồi nói: “Vừa nãy có một chú chim có đôi cánh rất đẹp đậu trên cây ngô đồng, ta nhìn thấy hiếm có nên bước lại gần ngắm. Ai ngờ đến gần quá, khiến con chim kinh động mà bay đi mất.”
Mấy người đó nhanh chóng thở phào nhẹ nhõm.
Cửu Nhi mỉm cười nói: “A, nô tì cũng thấy chỗ Đình sen của chúng ta quá đối tĩnh mịch, tuy rằng cá trong hồ rất nhiều, nhưng đều chẳng biết nói chuyện. Chi bằng bảo Vô Song tỷ tỷ kiếm một vài chú anh vũ, sơn ca đến đây cho nhộn nhịp hơn.”
Tôi nhân cơ hội chuyển hướng nói chuyện: “Vô Song đâu rồi, lúc nãy hầu gia sai người tìm cô bé có việc sai bảo, bây giờ vẫn quay về sao?"
Cửu Nhi liền đáp: “Chắc không thể nào nhanh thế được đâu? Hay là chúng ta cứ quay về trước thôi.”
Tôi đồng ý, rồi cùng mấy đứa quay về Đình sen. Một lúc sau Vô Song cũng quay về, khuôn mặt hiện đầy vẻ mơ hồ, hoài nghi.
“Việc này đúng là kỳ lạ, thì ra không phải hầu gia gọi nô tì, mà có người nhờ một tùy tùng bên cạnh hầu gia chuyển cho nô tì vài món đồ thêu của Giang Nam, nói là chút lòng thành của người nhà. Năm mười tuổi nô tì đã bị bán vào vương phủ, người nhà cũng đã chết hết cả rồi, lấy đâu ra người nhà, thân thích nữa chứ? Đáng tiếc là khi đi hỏi thăm cặn kẽ thì tất cả mọi người đều nói là không biết, thật sự không hiểu nổi ở đâu ra chuyện ngớ ngẩn, mơ hồ này thế chứ?”
Tôi biết rõ đây là kế điệu hổ li sơn của Đường Thiên Tiêu, cũng hàm hồ đáp cho qua chuyện. Ngược lại đám người Cửu Nhi trẻ tuổi, hoạt bát, thấy đồ thêu thùa tinh tế, đẹp mắt, liền đoán phải chăng là người âm thầm ái mộ, yêu thích Vô Song tặng cho, bắt đầu bịa đặt, thêu dệt câu chuyện lung tung loạn xạ cả lên, ồn ào, ầm ĩ suốt cả một buổi sáng.
Buổi tối tôi vẫn dùng bữa như mọi ngày, nhìn thấy Vô Song mang bộ bát đũa của Đường Thiên Trọng ra, tôi cũng chẳng buồn để tâm. Đúng lúc đang cầm đũa bát, định ăn một mình thì nghe thấy tiếng bước chân chắc nịch bên ngoài truyền vào, hơn nữa tiếng động ngày càng tiến lại gần hơn.
“Hầu gia.”
Vô Song vui vẻ kêu lên rồi hớn hở chạy ra ngoài cửa nghênh đón chủ nhân.
Đường Thiên Trọng chậm rãi bước vào, đôi mắt sâu thẳm liếc vào phía trong phòng, ngồi xuống ghế cúi đầu dùng bữa.
Ngài dường như không hề chú ý gì đến tôi, cũng chẳng buồn nhìn tôi lấy một lần.
Tôi cũng không nói gì, đứng dậy hành lễ trước ngài rồi ngồi xuống dùng bữa tiếp.
Vô Song liền mỉm cười bước lại gần phía tôi nói: “Cô nương, liệu có nên bảo nhà bếp dâng thêm món canh nấm như hồi trưa không? Không phải cô nương nói mùi vị món đó ngon sao? Chắc hẳn hầu gia cũng thích ăn.”
Tôi do dự một lát rồi đáp: “Thì ra hầu gia cũng thích ăn món đó hả, ta không hề biết đấy. Vậy mau bảo nhà bếp mang lên đi.”
Vô Song đáp lại, nụ cười có phần hơi gượng gạo.
Đuờng Thiên Trọng liền đặt mạnh bát xuống bàn, khuôn mặt hầm hầm nhìn về phía tôi.
Không khí trong phòng lúc này bỗng nhiên trở nên căng thẳng, bọn Cửu Nhi đã căng thẳng đến mức không dám thở mạnh, còn món ăn trong miệng tôi lúc này chẳng còn chút mùi vị nào, có điều vẫn gắp thức ăn vào miệng.
Sau cùng ngài chẳng làm bất cứ điều gì, chẳng nói bất cứ câu nào, lại cúi đầu xuống, cầm chiếc bát lên rồi tiếp tục dùng bữa.
Tôi tự đoán trong lòng, chắc hẳn ngài vô cùng bất mãn trước thái độ của tôi, tuy rằng không làm gì cả, nhưng đa phần sẽ lại đùng đùng tức giận bỏ đi.
Thực tế, sau khi dùng bữa xong, ngài nhanh chóng rời khỏi đó, từ đầu đến cuối không nói lấy một lời. Tôi cũng chẳng nói năng gì, trong lòng đột nhiên lại cảm thấy khó chịu một cách vô cớ, thậm chí còn bực bội, bí bách hơn cả lúc bị bệnh. Cầm cây sáo trúc, tôi ngồi bên khung cửa sổ, nhìn mặt hồ lấp lánh đầy ánh sao đêm, thổi một khúc Thủy Điệu Ca Đầu, mong rằng nhịp điệu trong khúc nhạc có thể nhanh chóng xóa tan mọi khó chịu trong lòng.
Khúc nhạc còn chưa dứt, tôi liền nghe thấy Cửu Nhi ngồi trong phòng thốt lên một câu: “Đúng là khúc Bốc Toán Tử hay quá.”
Tôi ngây người một lúc, vội vã để tâm đến nhịp điệu khúc nhạc, quả nhiên không biết từ lúc nào đã chuyển sang khúc Bốc Toán Tử. Tôi bỗng nhiên nhớ lại lần đầu tiên gặp Đường Thiên Trọng bên hồ sen, lại càng cảm thấy buồn bã, thật sự chẳng thể nào xác định nổi lần tương ngộ năm ấy cho đến bên nhau lúc này rốt cuộc là duyên hay là nghiệt.
Chán nản hạ cây sáo xuống, tôi đang chuẩn bị vào đi nghỉ, thì đột nhiên thấy Vô Song chậm rãi bước lại, đôi mắt to thông minh lanh lợi kia nhạt nhòa đầy nước mắt.
Tôi vội vã gượng hỏi: “Vô Song, làm sao thế?”
Cô bé bước lại gần rồi quỳ sụp trước mặt tôi, nghẹn ngào nói: “Cô nương, nếu như hầu gia có điều gì còn chưa chu đáo, chưa quan tâm đến người, thì Vô Song xin cúi đầu thay ngài tạ lỗi trước cô nương. Trong lòng mình, lúc nào ngài cũng muốn làm cho cô nương vui vẻ, chỉ có điều là không nói ra miệng mà thôi. Cô nương… nô tì xin người, người đừng giận dỗi với hầu gia nữa.”
“Giận… giận dỗi?”