Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Mà dù có hậu nhân, nhưng do yếu tố tỷ lệ chết sớm của ấu nhi lớn và gia tộc thời này vẫn là thành phần cơ bản tạo nên xã hội, thế giới quan của cả xã hội đều thống nhất tức con đàn cháu đống là duy mỹ.
Vậy nên, thời đại phụ quyền nông nghiệp mà bất kể gia tộc hay xã hội đều cần có một lượng lớn nhân lực này thì những nam tử quyền chức đa thê đa thiếp là lẽ thuận lý hợp tình.
Ở xã hội đó, một người có địa vị mà chỉ lấy có một vợ, không nạp thê thiếp là không phù hợp cách nhìn của xã hội, hắn sẽ gặp trắc trở trong nhiều mặt của cuộc sống, bị đối xử không công bằng. Còn với một vị quân chủ, việc có hay không tôn tử đầy đàn lại càng được coi trọng và có liên hệ mật thiết tới vận mệnh tiền đồ của đất nước. Đương nhiên, bất cập ở chỗ, vị quân chủ có quá ít phi tử sẽ bị quần thần công kích, còn nạp quá nhiều thê thiếp cũng vẫn bị quần thần lấy làm cớ để quở trách, rốt cuộc trách nhiệm của một vị vua không chỉ vẻn vẹn ở chỗ nối đõi tông đường.
Thê thiếp Dương Hạo lại không nhiều, chỉ có bốn vị, ít hơn rất nhiều so với những đại nhân gia thế quyền quý ở Hà Tây, họ thường có đến hơn mười thê thiếp. Do vậy, việc hắn nạp thiếp là họp ý các quần thần, được ủng hộ nhiệt tình. Nhưng nạp thiếp chỉ là `nạp thiếp, còn hoàng hậu lại là mẫu nghi thiên hạ, phải được khắp thiên hạ đồng khánh chúc mừng, còn nạp thiếp không cần phải nhiều quy tắc như vậy, cũng không cần văn võ ba quan chúc tụng, chỉ đơn giản tổ chức một đại lễ.
Điều này cũng thực hợp ý Dương Hạo. Nữ Anh vừa hạ sinh chưa đầy tháng, cơ thể vẫn chưa hồi phục, chỉ e không thể tham gia một buổi lễ kéo dài quá lâu, cho nên chỉ tổ chức một nghi thức rất đơn giản. Dương Hạo tự tay nâng lấy tấm lụa hồng che mặt tân nương, dắt tay nàng vào cư sở. Hắn dùng một thanh gỗ nhẹ nhàng gỡ tấm lụa che mặt lên, trước mặt hiện ra một dung mạo yêu kiều quyến rũ, khuôn mặt xinh đẹp tô thêm nét phấn giống như một đóa hoa tươi rực rỡ, trên mặt nàng lúc ấy lăn xuống hai hàng lệ châu.
Dương Hạo gỡ vương miện ra cho nàng rồi ngồi xuống bên cạnh, dịu dàng đưa tay lau nước mắt cho nàng hỏi: "Nàng sao vậy?".
Nữ Anh ngậm ngùi nói: "Không sao, chỉ là... Chỉ là cuối cùng cũng thành người của chàng, người ta... Trong lòng thiếp thấy rất vui...".
Dương Hạo không nhịn nổi cười nói: "Ngốc, nói như vậy là sao chứ, không phải nàng sớm đã là người của ta sao?".
Nữ Anh ngả vào lòng hắn, lắc đầu nói: "Không giống nhau đâu, chỉ đến lúc gỡ khăn che mặt ra, được quang minh chính đại bước vào bậc cửa này, thiếp mới cảm thấy thực sự trở thành người của ngài, trong lòng thấy rất thoải mái. Thiếp từ trước đến giờ chưa từng có cảm giác này, cảm giác được mãn nguyện bình yên".
Dương Hạo như hiểu được phần nào, hắn nhẹ nhàng ôm lấy thân hình yêu kiều, hôn lên khuôn mặt tỏa hương thơm dịu nhẹ, dường như hắn đã nghe thấu từng tiếng lòng của nàng. Trải qua bao nhiêu trắc trở, có lẽ người con gái trước mắt hắn bây giờ trong lòng đang thiếu mất cảm giác an toàn. Đối với Dương Hạo mà nói, từ giây phút nàng cùng với hắn thì nàng đã là người của hắn rồi, nhưng với nàng mà nói, đây mới thực là một nghi lễ quan trọng, để thông cáo cho các thần dân được biết, có ý nghĩa trọng đại vô thường trong lòng nàng.
Nàng là một người phụ nữ phong hoa tuyệt đại, cũng là một người con gái ngây thơ trong trắng. Không giống ở chỗ, trước đây nàng giống như tiên nữ bất thực khổ hạnh thế gian, sống trong mộng ảo vô thực, còn giờ đây nàng mới thực là một người phụ nữ sống thực hoạt sắc, một người trần thế thật sự.
Dương Hạo chợt nhớ đến lần đầu tiên cùng nàng, nàng nằm trên giường với một bộ áo ngủ mỏng manh, nổi lên từng đường nét quyến rũ, mái tóc đen dài mượt mà trải trên lụa, đang chìm trong giấc ngủ như một vị tiên nữ xinh đẹp. Bây giờ, nhìn nàng hắn lại càng thấy rất thực, rất đáng yêu.
Cảm giác đụng chạm tới cơ thể cũng là chân thật, hắn còn nhớ sự mềm mại mà mình cảm nhận được khi đôi tay luồn khắp làn da nàng, khiến hắn không kìm chế nổi...
Nữ Anh nhắm nghiền đôi mắt, dâng lên cho Dương Hạo đôi môi nóng bỏng. Dương Hạo không hề tiến thêm một bước, chỉ nhẹ nhàng ôm lấy nàng, cùng ngả lưng xuống giường để cảm nhận chính cảm xúc của nàng.
Nữ Anh trong lòng thấy rất mỹ mãn, thực ra điều mà Dương Hạo nghĩ lại quá đơn giản so với nàng. Khi gánh vác trách nhiệm quá nặng nề như vậy, dù Dương Hạo có chuyên tâm cũng khó có thể lĩnh hội được cảm giác mãn nguyện yên ổn này của nàng.
*
* *
Những kẻ nô lệ mà Tháp Lợi Bặc đem từ phương Tây đến lại càng dễ để làm chúng thỏa lòng, trải qua đoạn đường dài khổ nhọc cuối cùng cũng đến được Hưng Châu, như vậy chúng không cần phải tiếp tục những ngày lê lết bị đòn roi đánh đập mà một khi bị quỵ ngã sẽ bị vứt lại bên đường mặc kệ sống chết, không cần phải ngậm một miếng lương khô cứng đến mức đau rách cả miệng, không phải ngủ chung với lũ muỗi bọ bủa vây tứ phía. Họ chỉ cần được uống một ngụm nước nóng, ngủ trong một nơi có thể coi là nhà, như thế họ thấy hạnh phúc lắm rồi.
Nhất là khi ở Sa Châu, khi họ nghe được tin từ quan địa phương rằng vị đại nhân chấp chính nơi đây từng công bố "Nông Nô lệnh", thoáng nghe lệnh đó sẽ bảo đảm nhiều quyền sinh tồn cho thân phận nô lệ mình, có thể thoát ly số phận nô lệ bằng việc phát minh sáng tạo và lập chiến công, trở thành một công dân thực sự, họ vui mừng như mình sắp rời khỏi địa ngục tới nơi thiên đường. Nguyện vọng càng nhỏ bé lại càng dễ làm toại nguyện.
Đối với Tháp Lợi Bặc, ngoài niềm hạnh phúc được nghe thấy tiếng kêu của tiền ra chính là việc chứng kiến phúc âm được truyền bá tới mọi chân trời góc bể, để tất cả mọi người dù là kẻ tàn ác hung bạo hay người ôn hòa nhu nhược cũng trở thành tín đồ trung thành thực sự. Nhưng ở nơi của Dương Hạo, hắn lại gặp phải một cái gai bất đại bất tiêu trong mắt, không thể thu lợi như ý muốn.
Thương đạo Tây Vực thông suốt đem đến nguồn lợi to lớn, Dương Hạo đương nhiên thu được biết bao lợi lớn từ đó. Nhưng cái lợi mà hắn thu được không hề thua kém Dương Hạo, hắn cũng không dám gây sự với một nhân vật lớn khống chế cả hành lang Hà Tây này. Kết quả là chỉ có thể nhượng bộ nép mình trước cường thế của Dương Hạo, nếu không những nỗ lực từ trước đến nay của hắn sẽ trở thành bọt nước.
Nỗi ác mộng này bắt đầu từ lúc Dương Hạo tiến hành thu mua nô lệ, trong chiến tranh giữa La Mã và Đại Thực (Ả Rập) đã bắt rất nhiều tù binh, tù binh quý tộc được thu mua với giá cao, còn những binh sĩ bình thường lại khó được sắp xếp trao đổi đến, đế quốc của họ không cần nhiều dân đến vậy.
Dương Hạo lại muốn mua nô lệ từ hắn, hắn vốn vui mừng cho rằng đây thực là con đường tài lộc mới. Nó thực là con đường tài lộc lớn nhưng ai ngờ ở nơi phương Đông xa xôi như vậy lại có một kẻ có thể coi là hậu nhân của đức hoàng Khắc La Tô của đế quốc La Mã. Đồng thời những nô lệ mà hắn buôn đến đây lại có quan hệ mật thiết với La Mã. Vậy nên, trước mặt Dương Hạo hắn không còn là kẻ duy nhất thay mặt cho phương Tây nữa. Tuy sự việc đã qua nhiều năm nhưng những tên quý tộc La Mã vẫn coi trọng chuyện tìm thấy từng kẻ thủ hạ thất lạc của mình, họ coi đó là công lao lớn vĩ đại, vì những người đồng bào thất lạc viễn phương đó, họ sẵn sàng nhiệt tình hợp tác với Dương Hạo vị quân chủ Đông phương tốt bụng này.
Tháp Lợi Bặc cho dù vứt bỏ được món lợi kiếm được từ Đông phương cũng không thể để Dương Hạo gây chiến với La Mã, làm hắn rơi vào thế hạ phong trên chiến trường Tây phương. Nguồn quốc khố của nước hắn chủ yếu là lấy từ thương nghiệp, một khi chiến tranh tiếp tục thất lợi, các thương lộ Tây phương đều sẽ bị người La Mã chặt đứt, thương lộ Đông phương lại trở nên quan trọng hơn hết. Từ triều Đường, đế quốc Đại Thực vốn đã là một nước mậu dịch chủ yếu nhất của Đông phương, qua con đường tơ lụa, người Đại Thực đã có mặt khắp nơi ở thành Trường An.
Nếu như bây giờ muốn tìm kiếm một tuyến hải vận lớn, để có thể đáp ứng nhu cầu thương mại của cả một đế quốc, muốn gây dựng một đội thuyền viễn vận lớn với đầy đủ đội hộ tống vận hành thì thực là khó khăn, đến cả trăm năm nữa cũng khó mà hoàn thành được. Nguyên cớ bất thành có rất nhiều, cho nên dù không bá chiếm được thương đạo Tây Vực, hắn vẫn nuôi dưỡng ý chí theo thương đạo truyền thống này, đồng thời hắn cũng muốn tăng cường sự ảnh hưởng chính trị của mình đối với Dương Hạo, kẻ làm vua cả vùng Tây Bắc, hoặc do vương triều mới lập này sẽ đem đến nhiều lợi cho hắn, không chỉ là tiền bạc mà còn là sự hợp tác trong quân sự và chiến trường, nên hắn vẫn cứ đến, càng muốn hợp tác mật thiết hơn nữa với Dương Hạo.
Hắn tin tưởng rằng, chí ít thì mình vẫn đi trên đầu của những tên người La Mã.
Vừa đặt chân đến Hưng Châu Tây Vực, Tháp Lợi Bặc đã nhìn thấy cây thánh giá từ xa, thánh giá được dựng trên mái một căn nhà kiểu Tây Bắc rất bình thường, xung quanh đều là đất trống, họ đang vội vàng xây cất lại thành một kiến trúc mới. Chỉ nhìn sơ qua cũng biết, tương lai đó sẽ là một nơi khang trang đồ sộ.
"Đây là gì vậy?". Tháp Lợi Bặc chau mày lại, trước khi tới thành, Tháp Lợi Bặc đã gọi trưởng quầy hàng đích thân ra thành đón hắn, lúc này cũng đang đứng ngay cạnh, trưởng quầy nhìn một lúc rồi nói: "À, đó là giáo đường của linh mục Lộ Tây Ô Tư, Lộ Tây Ô Tư đem mấy tu sĩ từ Đại Tần đến đây bố thí truyền đạo, nơi đang xây dựng đó là đại giáo đường của họ".
Nỗi lo lắng hiện lên trong đầu hắn, Tháp Lợi Bặc nhìn khu kiến trúc đó một hồi, rồi nhìn sang mảnh đất phía đối diện hỏi: "Mảnh đất này của ai? Ngươi lập tức đi mua nó cho ta, cả mảnh đất này, mua tất cho ta".
"Thưa vâng, tiểu nhân xin được đưa ngài về nghỉ ngơi, sau đó sẽ...".
"Không, ngươi lập tức làm việc đó ngay, bất kể phải tiêu bao nhiêu tiền của cũng phải mua bằng được mảnh đất".
Tháp Lợi Bặc nói xong, quay đầu lại, hét lên bằng tiếng Đại Thực: "Tạp Y Mỗ, Tạp Y Mỗ".
"Lão gia, thiếp gia, tiểu nhân đây ạ, ngài có điều gì cần đặn đò". Một người béo ục ịch, mặt phiết hai chòm ria mép, đầu đội mũ khăn quấn nhanh như chớp chạy đến, cúi đầu đáp.
Tháp Lợi Bặc nhấc chân đạp kẻ hầu một cái, quát lớn: "Mau đi, chuẩn bị cho ta thông tê, long não, nhũ hương, long tiên hương, sắc vị thủy, thiên niên tảo, việt nặc bố, hoa nhị bố, đâu la cẩm, thảm, cẩm tự, phiềm hoa diệm, san hô, mỗi loại một lễ phẩm lớn, ta muốn lập tức diện kiến quốc vương Tây Hạ. Chuẩn bị cho cẩn thận, ngươi cái tên ngu xuẩn này".
"Vâng, tuân lệnh thưa lão gia". Tạp Y nhỏm người đứng dậy, nhanh chóng lui về hướng xe thồ phía sau.
"Ta muốn xây đối diện bọn chúng, xây một ngôi chùa bái rộng lớn, có tường bao dát vàng lộng lẫy!". Tháp Lợi Bặc nhìn chằm chằm khu kiến trúc đối diện, hiển hiện cây thập tự giá giản đơn, hắn nghiến răng nói: "Ta không thể thua những kẻ La Mã ngu ngốc các ngươi được!". mới nhất ở truyen/y/y/com
*
* *
Vùng Thác Ôn Ba, người Hán thường gọi là hồ Thanh Hải, trước đây còn được gọi là Tây Hải hoặc Tiên Hải, có đến hơn hai mươi con sông hòa chảy về đây, nhưng hồ lại không có chỗ thoát nước, xa xa bốn mặt hồ được bao trùm bởi các dãy núi cao xanh mơn mởn, nước hồ xanh màu ngọc bích trong veo không chút gợn sóng, xung quanh ven hồ có những đàn cừu lông trắng đang nhởn nhơ ăn cỏ giống như những đám mây trên nền trời. Thoáng nhìn ra phía hồ, mặt nước xa tít chân trời, bích thủy hòa màu với bầu trời, tuyết sơn đổ ngược bóng xuống, mặt nước phản ánh bỗng lay động bởi từng đàn cá bơi lội, chim trời lượn bay rộn ràng.
Lúc này cũng là dịp cả vùng thảo nguyên xanh tươi tràn đầy sức sống, cỏ non phủ đầy mặt đất như tấm thảm xanh trải dài, hoa cúc vàng cứ thế theo gió thoảng hương thơm mát, đâu đó có vài lều vải của những mục dân, từng đàn cừu dê nối tiếp chuyển động như đám mây, tất cả đều chứa đựng trong lòng dãy núi cao, phía Bắc Đại Thông Sơn hùng vĩ, phía Đông Nhật Nguyệt Sơn sừng sững, phía Nam cũng là Thanh Hải Nam Sơn và phía Tây trùng điệp Tượng Bì Sơn, giống như những tẩm bình phong tự nhiên bao bọc cả vùng hồ.
Từ phía núi cao cho xuống mặt hồ là khung cảnh thảo nguyên thiên lý rộng lớn xanh non đầy sức sống. Cảnh núi cao, nước xanh, thảo nguyên mênh mông hòa vào một giống như một bức tranh phong cảnh xinh đẹp bất thực.
Nơi thảo nguyên màu mỡ là nơi thích hợp để chăn thả.
Xa xa truyền tới tiếng hát nhịp nhàng của người du mục, họ cưỡi trên ngựa tay cầm mã can chăn đuổi từng đàn cừu, con người nơi đây chăm chỉ cần cù.
Những lương phẩm họ làm được không chỉ là cừu dê, bởi hồ Thanh Hải có nhiều cá trên mức tưởng tượng, ngư nghiệp nơi đây cực phát thịnh. Đông tới, thảo nguyên đầy tuyết, mặt hồ đóng băng trắng xóa, họ chỉ cần đục một lỗ băng nhỏ, thắp đèn sáng là dẫn được cá đến. Cảnh bắt cá càng nhộn nhịp hơn đến tháng tư đầu năm.
Nơi đây màu mỡ, nguồn cá dồi dào là lương phẩm chính nuôi dưỡng hàng chục bộ lạc thảo nguyên. Tuy những bộ lạc này cũng xảy ra giao tranh nhưng không đáng kể, chỉ là tranh đoạt các thảo địa tươi tốt nhất hoặc do mối ân oán giữa các dũng sĩ của bộ lạc.
Bây giờ, sau khi quốc triều người Hồi Hột diệt vong, những người Hồi Hột lưu vong tản di đến đây tự thành lập các bộ lạc nhỏ cũng có chủ ý của chính mình. Dạ Lạc Hột đại nhân mang dòng máu Cửu vương Hồi Hột đã đến đây, Dạ Lạc Hột là huyết thống Khả Hãn, dù số dũng sĩ hắn đem đến không nhiều, lực lượng yếu hơn so với các bộ lạc địa phương, nhưng các bộ lạc lưu vong lâu ngày tại đây vừa nhìn thấy Dạ Lạc Hột liền hoan hỉ, giống như tìm thấy căn gốc của mình. Có hắn, họ không còn là những kẻ lưu lạc mất gốc tích, không phải là cát hoang bay trên đồng.
Rất nhanh sau đó, hắn đã lợi dụng huyết thống cao quý của mình, liên kết các bộ lạc lại thành một, cuộc sống nơi đây tập trung, trẻ nô nghịch, người chăn nuôi, cả một bộ tộc dựng lều trên thảo nguyên ven hồ.
Từng túp lều dựng lên sát nhau, ở giữa là một lều trướng lớn nhất, trước cổng trướng dựng một cột gỗ cao, trên đỉnh tung bay dây cờ cửu lũ lang vĩ, đây chính là ngự sở Hãn trướng.
Người Hồi Hột ở hồ Thanh Hải trước giờ mỗi bộ lạc đều có một thủ lĩnh riêng, không có kẻ nào có tư cách để thống soái cả bộ tộc. Dạ Lạc Hột người xuất thân cao quý này vừa đến, hắn vừa hô hào lập tức được đáp lại, các bộ lạc khắp nơi kéo đến gia nhập, họ nghĩ rằng đây chính là cội nguồn, là chỗ nương tựa tốt nhất, họ tin tưởng chỉ cần có sự thống lĩnh của Đại Hãn, cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn.
Dạ Lạc Hột ngồi khoanh chân chính giữa, trước mặt bàn bày đủ mọi thứ thơm ngon nhất của vùng thảo nguyên như trà sữa, tô du, sao diện và thanh khỏa mỹ tửu. Hắn đang chăm chú nghe thuộc hạ bẩm tấu: "Việc giao tranh đoạt quyền của Lý Kế Quân với ta nay đã phát động đến Tiêu Quan, kết quả là xảy ra chinh chiến không ngừng giữa Ba Thiên và quân Tây Hạ tại Ất Húc Môn".
Dạ Lạc Hột cười ầm lên: "Hay lắm, Dương Hạo rốt cuộc cũng giúp chúng ta một việc lớn, bọn chúng càng tranh đấu quyết liệt thì Thượng Ba Thiên càng không thể đề phòng được chúng ta, ta thừa cơ mài binh luyện võ, ung dung mà triển khai đại sự".
Hắn suy tính một hồi rồi nói: "Thượng Ba Thiên muốn mượn binh vay lương của chúng ta? Ha ha, hắn đã tự coi mình là bá vương Lũng Hữu ư? Thật nực cười! Ta đã tới đây rồi, các bộ tộc Hồi Hột không còn thuộc tay hắn thống lĩnh nữa. Hãy cự tuyệt hắn, một binh một tốt cả một đầu dê ta cũng không cho!".
"Thưa vâng, nhưng... Nói như thế liệu có gây đối địch với hắn không, binh lực hắn giờ vẫn cường mạnh hơn ta, chúng ta cũng chưa hoàn toàn chinh phục hết các bộ tộc Hồi Hột. Một khi Thượng Ba Thiên gây khó dễ với Khả Hãn...".
Dạ Lạc Hột chắc chắn nói: "Không cần lo nghĩ, La Đan và hắn đánh nhau đến mức không dứt ra được, hắn lại đang giao binh với Tây Hạ, như vậy có thể chống đỡ thêm một cường địch nữa được không? Đây chính là cơ hội tốt nhất cho ta".
Hắn cười một cách bí hiểm: "Hơn nữa triều đình Đại Tống đã đồng ý phụ trợ binh giáp khí giáo cho ta, chúng hà cớ gì giúp đỡ Khả Hãn ta? Chúng lo sợ rằng Thượng Ba Thiên sẽ biến thành tên Dương Hạo thứ hai, như vậy Khả Hãn ta chẳng phải lo ky điều gì nữa. Ngươi cứ việc hồi đáp hắn, nói rằng tộc ta thiếu thốn binh tráng không đủ để cho hắn mượn. Còn lương thảo, cứ nói cuộc sống ta khó khăn, nan dĩ vi tục, nếu Thượng Bá Thiên đại nhân thực quá cần thiết có thể dùng gạo, trà, muối, vải và binh khí đổi lấy cừu dê của chúng ta".
Tên thuộc hạ vội cúi mình: "Tuân lệnh, vậy tiểu nhân sẽ hồi đáp lại chúng theo lời dặn dò của Đại Hãn!".
"Ừm!". Dạ Lạc Hột gật đầu, khi thủ hạ đã lui ra, hắn chống tay xuống bàn đứng dậy đi ra phía ngoài trướng.
Mọi người dân đi qua trông thấy hắn đều dừng lại cúi rạp mình trịnh trọng bái lễ, Dạ Lạc Hột chống hai tay lên nhìn ra phía xa, bỗng cảm thấy những lời A Cổ Lệ nói đều đúng, nếu lúc đầu quyết đoán chiếm lấy Cam Châu, đem binh chiếm lĩnh Kỳ Liên Sơn, hắn đã có thể lợi dụng uy vọng của mình thống lĩnh toàn tộc Hồi Hột của Lũng Hữu.
Như vậy, hắn sẽ không mất đi nhiều binh lính, không phải chạy quanh liên tiếp như một khuyển cẩu mất nhà. Lại có thể có được sự giúp đỡ của triều Tống, không cần phải lo mình thành con cờ trong tay Thượng Ba Thiên. Đó mới là điều đáng để hắn đến hồ Thanh Hải. Nghĩ đến đây, lòng hắn có chút hối hận, nhưng hắn không thể tự nhận mình sai, là một Đại Hãn, hắn luôn đúng, bất kể làm việc sai hay đúng.
Dạ Lạc Hột hội tộc ở đây để tập hợp lực lượng, hắn sẽ dùng sự chiến thắng cuối cùng để chứng minh điều mình làm là đúng. A Cổ Lệ từ lúc bị hắn bỏ rơi, đã không còn liên quan gì với hắn. Cả tên của nàng và những việc liên quan đến người con gái này đều là điều cấm ky, tuyệt đối không một binh lính hoặc người trong bộ tộc được nhắc đến. Hắn cũng sẽ cố gắng để quên người con gái đó, trong lòng hắn giờ đây chỉ suy nghĩ đến một việc duy nhất: làm chủ Lũng Hữu. Đợi đến khi thống nhất được cả tộc người Hồi Hột, toàn tộc quỳ xuống tung hô bệ hạ, hắn sẽ huy động binh lực hướng về Đông tới Lũng Hữu,tranh đoạt ngôi vị bá chủ. Làm được bá chủ, hắn sẽ quay về đánh phá Hà Tây, lấy đầu Dương Hạo để rửa sạch nỗi ô nhục của hắn.
Chỉ cần hắn có thể thành công, là kẻ chiến thắng, nỗi nhục nhã và bất an trong lòng hắn mới có thể được giải trừ, không kẻ nào có đủ tư cách để chỉ trích người chiến thắng. Hắn chỉ có thể dùng một thắng lợi tuyệt đối để bảo vệ danh dự của một Đại Khả hãn, lại còn cả... Nỗi đau phải nếm trải khi hai con trai của hắn chết thảm nơi chiến trận...
Bấy giờ trên đầu hắn lướt qua một cánh chim, con thanh điểu đang sải cánh bay vút về phía hồ Thanh Hải rộng lớn...
*
* *
"Tiểu Ba, Ba Thục này giao lại cho đệ, binh lực ta để lại có hạn, ngươi hãy giữ trọng trách xây dựng và bảo vệ mười hai đại doanh trại sâu trong núi, tránh tiếp chiến trực diện với quan binh. Lập doanh tại sơn, là nơi được bao quanh bởi núi non hiểm trở trùng điệp, số tùy binh tuy ít nhưng lại có thể thì triển".
Vương Tiểu Ba được Đồng Vũ giao phó trọng trách, đơn độc thống lĩnh bảo hộ người ngựa cả Ba Thục, trong lòng không khỏi vừa căng thăng vừa vui mừng, hắn gật đầu đáp: "Đại ca yên tâm, tiểu đệ nhất định sẽ không phụ lòng đại ca, quyết giữ vững đến lúc đại ca trở về!".
Đồng Vũ gật đầu, vỗ vai Vương Tiểu Ba khích lệ, hắn quay người nhảy lên ngựa, cùng Thiết Đầu bên cạnh hùng dũng tiến xuống núi, binh đoàn của hắn chỉnh tề hàng ngũ, chỉ chờ có lệnh xuất phát.
"Tiểu Lục, chúng ta sẽ có thể trở về thật chứ?".
Ngay lúc đó, Thiết Đầu quay sang hỏi Đao Tiểu Lục, Tiểu Lục đáp: "Việc này, phải xem xét thể vây hãm của binh mã triều đình ở Ba Thục, chúng ta đông người ngựa thế này, cũng dễ bị chúng giết hết. Chỉ cần ra ngoài chiến đấu, có Tề Vương Triệu Quang Mỹ nội ứng thì dù ở bình nguyên Quan Trung, quan quân triều đình cũng không thể làm gì được ta, huống hồ triều đình lại điều binh khiển tướng vây hãm quanh Quan Trung bộ, việc đó không phải năm ba tháng là làm xong".
Hắn dừng lại, giật dây cương, quay đầu nhìn Vương Tiểu Ba vẫn đứng tiễn trên đỉnh núi, lại nói với Thiết Đầu: "Lần này, triều đình cũng phái La Khắc Địch tới. Hắn đến thì chúng ta sẽ tháo chạy, coi như tặng hắn lễ vật là quà. Huynh đệ trên một chiến trường, dành cho hắn một chiến công thì có sao? Đại ca để chúng ta đến Quan Trung, ngoài việc tránh địch phòng mạng còn có một nguyên nhân khác, nếu Triệu Quang Mỹ cả gan có ý làm phản, tuyệt đối sẽ không chỉ dựa vào binh mã vùng thảo nguyên của ta, chúng đâu nắm chắc đến vậy. Nhất định, có thể khống chế chúng ta? Chúng chắc chắn là còn ẩn dấu thực lực. Vậy nên chúng ta đi lần này, tránh địch phòng mạng còn tái cầu phát triển, cũng là tìm cách để chiếm lòng tin của bọn chúng, lật tẩy thực lực thật của chúng, lúc cần chúng ta có thể đến Lũng Hữu".
Tiểu Lục mỉm cười, trầm tĩnh đáp: "Quân binh của chúng ta giỏi tác chiến vùng sơn địa hiểm trở, đến Quan Trung rồi ta sẽ lợi dụng sự giúp đỡ của Tề vương, tranh thủ thao luyện tại bình nguyên để quân ta càng thêm tinh nhuệ. Nếu hữu triều có lúc cần dùng tới chúng ta tiến quân, như vậy mới có thể phát huy toàn lực kỳ binh. Đi thôi, không cần phải nghĩ nhiều thế, việc đau đầu nhức óc này cứ để đành cho đại ca, chúng ta chỉ cần đánh thắng là được".
Bốn đoàn quân Kiêu Hùng, Kiêu Dũng, Kiêu Chiến và Kiêu Thắng vừa thấy đại soái chạy tới vội dương cao cờ hiệu, dựng thẳng giáo mác hùng dũng chuyển hướng sang phía Bắc tiến về Kiếm Các.
Tần có Hoàng Quan, Thục có Kiếm Các, đây đều là cửa khẩu biên hộ của hai nước, tuy Quan Trung có Tề Vương nội ứng, nhưng để vượt qua Quan Trung phải giao tranh là điều không thể tránh khỏi.