Bức họa chết người


- Nhưng chuyện gì xảy ra sau đó? Tuppence hỏi, cảm thấy đi lùi lại quá xa vào triều đại Nữ Hoàng Victoria hình như hơi quá sâu vào thời quá khứ so với những gì cô đang tìm kiếm.
- Tôi không biết nhiều chuyện ở đó. Một nông dân tên Blodgid tiếp nhận chỗ đó khi nó được đề cập đến chuyện bán, tôi tin thế. Ông ta cũng không ở lâu. Họ gọi đó là nông dân qúy tộc. Điều đó giải thích tại sao ông ta thích căn nhà, tôi cho là thế, nhưng đất nông trại không quen lắm với ông, và ông ta không biết giải quyết thế nào. Và thế lại bán lần nữa. Ngôi nhà bị đổi chủ quá nhiều lần - những người xây dựng luôn đến theo và sứa sang lại - những phòng tắm mới - điều mơ hồ không giải thích được - có một lần, một cặp vợ chồng đã biến thành trại nuôi gà. Nhưng cô biết không, nó có một cái tên, vì sự không may. Nhưng trước thời đại của tôi tất cả không đáng kể. Tôi tin ông Boscowan có một lần đã có ý định mua căn nhà đó. Đó là lúc ông ta vẽ ngôi nhà.
- Khi xuống đây ông Boscowan bao nhiêu tuổi?
- Bốn mươi, hay có thể lớn hơn một chút. Trong một chừng mức nào đấy đẹp trai. Tới mức hơi béo. Ông ta là một người vĩ đại đối với các cô gái.
- A, ông Copleigh nói. Lần này là một tiếng lầm bầm báo hiệu.
- Tất cả chúng tôi đều biết các nghệ sĩ giống nhau thế nào. Bà Copleigh nói, bao gồm Tuppence trong sự hiểu biết này. Qua Pháp nhiều lần, học cách của người Pháp, họ là thế đấy.
- Ông ta không cưới vợ ư?
- Khi đó ông ta chưa. Khi ông ta xuống đây cơ ông ta vẫn chưa có vợ. Ông ta say mê con gái bà Charrington, nhưng không có gì cả. Mặc dầu cô ta là một cô gái tuyệt đẹp, nhưng quá trẻ đối với ông. Cô ấy chưa tới haimươi lăm tuổi.
- Bà Charrington là ai? Lời giới thiệu những nhân vật mới này làm Tuppence cảm thấy lúng túng.
- Mình làm cái qủy gì ở đây thế? Bất tình lình cô nghĩ khi những làn sóng mệt mỏi chụp lên mặt cô - ta chỉ đang lắng nghe nhiều chuyện tầm phào về mọi người, và tưởng tượng những sự việc như chuyện sát nhân không có gì thật cả. Bây Giờ ta Mới hiểu - chuyện khởi sự khi một con mèo gì xinh đẹp nhưng hết minh mẫn nhét một mớ hỗn độn trong đầu hồi tưởng lại những câu chuyện về ông Boscowan này, hay một kẻ nào khác giống ông ta tặng cho bà bức tranh, kể về ngôi nhà và những truyền thuyết xung quanh nó, về một người nào đó bị chôn sống trong một cái lò sưởi và vì một lí do nào đó bà nghĩ rằng đó là một đứa trẻ. Và đến đây ta bắt đầu điều tra quanh một khám phá kì thú nhưng vô giá trị. Tommy bảo mình là một đứa ngu, và anh ta hoàn toàn có lí - ta Là một kẻ ngu.
Tuppence chờ đợi bà Copleigh cắt ngang dòng thác đối thoại, để cô có thể đứng dậy, nói lời chúc ngủ ngon lịch sự và lên lầu ngủ.
Bà Copleigh vẫn còn say sưa hạnh phúc.
- Bà Charrington? Bà sống một ít tại Watermead, bà và con gái bà. Bà Charrington là một phụ nữ qúy tộc xinh đẹp. Quả phụ một sĩ quan quân đội. Tôi tưởng thế. Túng tiền, mà căn nhà thì đang cho thuê giá rẻ. Làm vườn nhiều. Bà rất thích việc làm vườn. Không thạo việc giữ nhà cửa cho sạch sẽ, bà ấy không làm được. Một hai lần tôi đến làm ơn cho bà, nhưng không thể duy trì mãi được. Tôi phải đi xe đạp, mà đường trên hai dặm. Dọc con đường đó không có xe búyt.
- Nhưng bà ở đó có lâu không?
- Không hơn hai ba năm, tôi nghĩ thế. Tôi cho rằng, bị khiếp sợ sau khi những rắc rối xảy đến. Bà cũng có những mối lo riêng về cô con gái nữa, Lillian, tôi nghĩ đó là tên cô.
Tuppence uống một hơi tách trà đậm nhờ nó bữa ăn được tăng cường, tìm cách chấm dứt chuyện bà Charrington trước khi đi tìm sự nghỉ ngơi.
- Bà ấy có mối lo gì về con gái? Ông Boscowan chăng?
- Không, không phải ông Boscowan là người gây ra nỗi lo phiền. Tôi không bao giờ tin điều đó. Đó là một người khác.
- Người kháclà ai? Tuppence hỏi. Một người khác họ sống ở đây à?
- Tôi không nghĩ ông ta sống trong những miền này. Một người cô ta gặp ở London. Không biết có phải cô ta đến đó để học vũ ba lê không? Hay nghệ thuật? Ông Boscowan sắp xếp cho cô học một trường nào đó ở đó. Tôi nghĩ tên là Slate.
- Slate? Tuppence gợi ý.
- Có thể. Loại tên đó mà. Dù sao, cô ấy thường đến đó và đó là cách cô biết ông bạn, ông ấy là ai. Bà mẹ không thích chuyện ấy. Bà cấm cô gặp ông. Đúng như mong đợi điều ấy không ích lợi chút nào. Trong một chừng mức naò đó bà là một phụ nữ điên. Giống như nhiều vợ của các sĩ quan quân đội thời đó. Bà ấy cho rằng các cô gái sẽ làm những gì họ được bảo làm. Trễ hơn thời gian quy định, cô ấy vâng lời. Sống tại Ấn độ và những miền đất này, nhưng khi đó là vấn đề của một chàng trẻ tuổi đẹp trai và bạn rời mắt khỏi cô con gái, bạn sẽ thấy con gái không làm những gì mình bảo nó. Không phải cô ta. Ông ta thỉnh thoảng thường xuống đây và họ lại gặp nhau bên ngoài.
- Và rồi cô vướng vào chuyện rắc rối, phải không? Tuppence nói, dùng lời nói khéo nổi danh, hi vọng dưới hình thức đó sẽ không làm tổn thương ý thức đạo đức của bà Copleigh.
- Chắc phải là ông ta, tôi nghĩ vậy. Dẫu sao, điều ấy hiển nhiên. Tôi thấy chuyện đó kéo dài thế nào trước khi mẹ cô biết. Cô ta là con người đẹp. Cao tròn lẳng và đẹp gái. Nhưng tôi không nghĩ cô ấy là hạng người có thể chịu đựng mọi sự. Cô ấy suy sụp, cô biết không. Cô thường đi lang thang bên ngoài như một kẻ dại, lẩm bẩm một mình. Nếu cô hỏi ông ta xử tệ với cô ấy, thì đúng thế. Đí xa và bỏ mặc cô ấy khi ông ta khám phá ra những gì đang xảy ra. Tất nhiên, một người mẹ như một người mẹ sẽ đi tìm hắn ta nói chuyện với hắn và khiến cho hắn hiểu phận sự của hắn nằm ở đâu, nhưng bà Charrington không có đủ tinh thần làm điều đó. Dù sao, bà mẹ đã khôn ngoan, bà đem con gái đi xa. Khóa cửa nhà lại, sau đó bà dựng bảng bán nhà. Họ trở về đóng gói đồ đạc, tôi tin thế, nhưng họ không bao giờ về làng hay nói chuyện với ai. Có một số câu chuyện đồn đãi quanh đây. Tôi không bao giờ biết có phần nào sự thật không.
- Một số cư dân dựng lên chuyện gì đó. Ông Copleigh bất ngờ nói.
- Tốt, anh có lí đó, George. Có lẽ chúng còn là sự thật. Những chuyện như thế vẫn xảy ra. Và như anh nói, cô gái ấy đối với tôi có cái đầu không thật ổn định lắm.
- Chuyện gì nữa thế. Tuppence hỏi.
- Thật ư, tôi không thích nói ra đâu. Từ đó là cả một thời gian dài và tôi không thích nói cái gì minh không chắc. Đó là cô Louise của Bà Badcok kẻ gây bối rối. Cô gái ấy là kẻ nói dối cực kì. Những chuyện cô ta nói. Bất cứ cái gì dựng nên một câu chuyện hay.
- Mà chuyện gì cơ chứ?
- Nói rằng cô con bà Charrington đã giết đứa trẻ rồi sau đó tự sát. Bảo rằng mẹ cô gần như hoá điên với nỗi buồn và bà con cô ấy nhốt cô ấy trong một nhà bảo dưỡng.
Một lần nữa Tuppence cảm thấy sự bối rối vọt lên trong đầu. Cô cảm thấy hầu như mình đang lắc lư trong ghế tựa. Phải chăng bà Charrington là bà Lancaster? Đổi tên, hơi điên rồ rồi, ám ảnh bới vận mạng của con gái. Giọng nói của bà Copleigh tiếp tục không ngăn lại được.
- Tôi chưa bao giờ tin một lời nào. Cô gái Badcok nói cái gì đó. Chúng tôi chưa bao giờ lắng nghe lời đồn đãi và những câu chuyện như vậy - chúng tôi có những việc khác để lo. Chúng tôi hãy còn sợ chết khiếp, trên khắp vùng quê bởi vì những việc đã xảy ra - những sự việc có thật -
- Tại sao? Những gì đang xảy ra? Tuppence hỏi, kinh ngạc trước những sự kiện hình như sắp xảy ra, đặt trọng tâm quanh ngôi làng nom thanh bình của Sutton Chancellor.
- Tôi dám nói cô đã đọc tất cả về câu chuyện trong các báo vào thời đó. Xem nào, có thể gần hai mươi năm qua rồi. Chắc chắn cô có đọc về câu chuyện ấy. Tội giết trẻ em. Đầu tiên những em gái nhỏ cỡ chín tuổi. Một ngày sau buổi học không về nhà. Toàn thể vùng phụ cận đổ ra ngoài tìm kiếm. Cô bé được tìm thấy tại Dingley Copse. Cô bé bị treo cổ. Việc đó làm tôi rùng mình mỗi lần nghĩ đến. Đó là tội ác đầu tiên, rồi ba tuần sau lại một tội ác nữa. Phía bên kia chợ Basing. Nhưng trong vùng phụ cận, như cô có thể nói. Một người đàn ông với một chiếc xe có thể làm điều đó dễ dàng.
- Và rồi những tội ác khác. Đôi khi không tới một tháng hay hai. Tiếp lại một tội ác nữa. Từ đây không quá hai dặm. Dầu thế, hầu như ngay trong làng mình.
- Không có cảnh sát - không có người nào biết kẻ nào đã gây ra sao?
- Họ đã cố gắng khá vất vả rồi. Bà Copleigh đáp. Họ bắt giam giữ một người đàn ông ngay sau đó. Một người từ phía bên kia chợ Basing. Bảo ông ta đang giúp cảnh sát điều tra. Cô biết điều đó có nghĩ gì rồi. Họ nghĩ họ bắt được hắn ta. Đầu tiên họ lừa được một người rồi người khác nhưng luôn luôn sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ hay họ phải thả hắn ta ra. Khám phá ra anh ta không thể làm điều đó hay không có trong những miền này hay một ai đó cho anh ta một chứng cớ ngoại phạm.
- Bà không biết, Liz, ông Copleigh nói. Có thể họ đã biết rất rõ kẻ nào làm việc đó. Tôi dám cá họ Biết. Đó thường là cái hướng, hay tôi đã nghe thế. Cảnh sát biết người đó là ai nhưng họ không có bằng chứng.
- Đó là những người vợ, người mẹ hay thậm chí những người cha. Ngay cả cảnh sát cũng không coi là hệ trọng cái điều họ có thể nghĩ ra. Một người mẹ nói’ tối qua thằng con tôi ăn tối ở đây” hay cô vợ trẻ nói đêm hôm đó cô đi coi phim với ông ta, và suốt thời gian đó ông ở với cô, hay một người cha nói ông và con trai ông ở ngoài trời trong cánh đồng xa làm một việc gì đó - bạn không thể làm chi để chống lại điều đó cả. Họ có thể nghĩ ông bố hay người mẹ hay tình nhân của ông ta nói dối, nhưng trừ phi một kẻ nào đó đến và khai anh ta thấy gã trai hay người đàn ông hay bất kể thứ gì trong một chỗ nào đó, họ không thể làm gì được. Đó là một giai đoạn kinh khủng. Tất cả chúng tôi quanh đây đều bồn chồn ngồi đứng không yên.
- A, đúng vậy. Ông Copleigh nói.
- Khi cùng nhau tụ tập họ đi ra ngoài kiếm tìm. Thỉnh thoảng họ tìm thấy ngay cô bé và đôi khi họ tìm kiếm hàng tuần. Đôi khi cô ta ở khá gần nhà trong một chỗ cô sẽ nghĩ chúng tôi chắc đã xem xét rồi. Tôi cho rằng chắc phải có ma thuật. Thật khủng khiếp. Bà Copleigh nói giọng đạo đức, ‘thật kinh khủng, có những bọn đàn ông như thế. Chúng đáng bị xử bắn. Chúng phải bị treo cổ. Và nếu người ta để tôi làm, tôi sẽ treo cổ chúng. Bất cứ bọn đàn ông nào giết và tấn công trẻ em. Cách tốt nhất là đem nhốt chúng vào một nhà thương điên và đối xử chúng với sự dịu dàng cùng mọi tiện nghi gia đình. Rồi sớm hay muộn họ lại cho chúng ra ngoài, bảo rằng chúng đã được chữa trị và đưa chúng về nhà. Điều này xảy ra nơi nào đó tại Norfold. Chị tôi sống ở đó và chị kể cho tôi nghe chuyện này. Hắn trở về nhà và hai ngày sau hắn gây vụ khác. Những ông bác sĩ này, họ điên cả rồi, một vài người trong bọn họ, bảo hắn ta được chữa lành rồi trong khi chúng chưa lành.
- Và bà chưa có ý tưởng về ai đã xuống đây? Tuppence nói. Bà có nghĩ thật sự đó là một người ngoại quốc không?
- Với chúng tôi có lẽ là một người nước ngoài. Nhưng chắc chắn phải là một kẻ sống trong vùng - Ồ! Tôi nói tầm xe đi được hai dặm xung quanh. Trong ngôi làng này nó không thể ở đây được.
- Bà luôn nghĩ như vậy, Liz.
- Ông bồn chồn ngồi đứng không yên, bà Copleigh nói. Ông nghĩ chắc hắn ở đây trong miền phụ cận của ông bởi vì ông sợ hãi, tôi tưởng thế. Tôi thường xem xét mọi người. Ông cũng vậy, George. Ông sẽ tự bảo mình rằng tôi ngạc nhiên nếu có thể người bạn Kia ở đây, sau cùng hình như hắn khá kì dị. Không bình thường.
- Tôi không giả thiết hắn ta thật sự có vẻ kì quái gì hết. Tuppence nói. Có thể hắn trông giống hệt mọi người khác.
- Đúng vậy, có khả năng cô kiếm được một cái gì đó ở đây. Tôi đã nghe họ nói cái điều cô không biết đâu, và bất kể người nào hình như chưa bao giờ mắc chứng điên khùng gì cả, còn những người khác nói trong mắt bọn chúng luôn luôn có những cái nhìn trừng trừng giận dữ khủng khiếp.
- Jeffreys, ông là Trung uý cảnh sát ở đây, ông Copleigh nói, ông luôn thường nói rằng ông ta có một ý kiến hay nhưng không có gì để làm cả.
- Họ không bao giờ bắt gã sao?
- Không. Trên sáu tháng, gần một năm. Toàn thể sự việc ngưng lại. Từ đó không có gì xảy ra quanh đây nữa. Không, tôi nghĩ hắn chắc trốn đi rồi. Cùng đi xa với nhau. Đó là cái điều làm mọi người nghĩ có thể họ biết hắn là ai.
- Bà muốn nói vì dân chúng mà hắn Thật sự rời khỏi khu vực à?
- Tất nhiên cái ấy khiến người ta nói vậy, khỏi phải nói. Họ nói có thể là một người nào đó.
Tupence lưỡng lự định hỏi câu kế tiếp, nhưng cô cảm thấy với đam mê trò chuyện của bà Copleigh điều này không cần thiết.
- Bà nghĩ đó là ai? Cô hỏi.
- Cách đây khá lâu tôi khó mà muốn nói ra. Nhưng có những cái tên được nhắc đến. Cô biết không, nói đến và xem xét. Một số tên như có lẽ là ông Boscowan.
- Thật sao?
- Phải, là một nghệ sĩ, và tất cả nghệ sĩ đều kì quặc. Họ nói thế. Nhưng tôi không nghĩ đó là ông.
- Nhiều người nói là Amos Perry, ông Copleigh lại xen vào.
- Chồng bà Perry ư?
- Phải. Lão ấy hơi kì dị, đầu óc ngớ ngẩn. Ông ta là loại người có thể làm điều đó.
- Gia đình Perry sống ở đây à?
- Không. Không phải tại Watermead. Họ có một túp lều cách đây chừng bốn năm dặm. Cảnh sát trông chừng họ, tôi bảo đảm.
- Không thế kiếm được gì từ lão ấy đâu. Bà Copleigh nói. Vợ ông luôn luôn nói về ông. Buổi tối ở nhà với bà. Bà ấy nói thế, luôn luôn. Chỉ thỉnh thoảng đến quán rượu vào tối thứ bảy, vì vậy trong chuyện này không có gì. vả lại, Alice Perry là loại người bạn tin cậy khi bà ấy cho chứng cứ. Bà ấy không bao giờ giảm bớt cường độ hay chùn lại. Bạn không thể sợ hãi bà ấy là một người trong bọn chúng. Dù sao, Lão ấy không phải là tội phạm. Tôi không bao giờ nghĩ vậy. Tôi biết tôi không có gì để tiếp tục nhưng tôi có cảm tưởng rằng nếu tôi phải điểm mặt chỉ tên một người nào đó ra thì tôi phải đánh cá vào Sir Phillip.
- Sir Phillip? Đầu Tuppence một lần nữa choáng váng. Một nhân vật khác nữa chưa được giới thiệu. Sir Phillip. Phillip là ai? Cô hỏi.
- Phillip Starke - tận hưởng cuộc sống trong nhà Warrender. Thường được gọi là Cổ tu viện khi gia đình Warrender ở đó - trước khi nó cháy rụi. Cô có thể thấy những ngôi mộ nhà Warrender trong sân nhà thờ và những tấm bảng đề tên trong nhà thờ nữa. Thực tế gia đình Warrender luôn ở đây từ thời vua James.
- Sir Phillip Starke bà con với gia đình Warrender à?
- Không. Kiếm tiền bằng những phương tiện lớn, tôi tin vậy, hay cha ông ta làm vậy. Nhà máy thép hay cái gì như thế. Phillip là loại đàn ông kì dị. Công việc thì đâu đó về hướng bắc, còn ông ta ở đây. Ông ta không giao thiệp. Cái mà người ta gọi là một sự phục hồi lại - phục hồi lại - cáí gì.
- Người sống ẩn dật. Tuppence gợi ý.
- Đó là từ tôi đang tìm kiếm. Ông ta xanh xao, cô biết không, người gầy ốm đầy xương và rất thích hoa. Ông là nhà thực vật học. Thường sưu tầm các loại hoa dại nhỏ như trẻ con, loại hoa cô không nhìn đến hai lần. Ông ta thậm chí có viết một cuốn sách về chúng, tôi tin thế. Vâng, ông ta thông minh, rất thông minh. Vợ ông là một công nương dễ thương, và rất đẹp, nhưng trông buồn lắm. Tôi luôn luôn nghĩ thế.
Ông Copleigh thốt một tiếng hự. ‘Bà ngốc, ông nói. Lại nghĩ chuyện đó có thể là sir Philllip. Sir Phillip là người yêu trẻ con. Cho chúng trứng gà - tất cả dâu tây và bữa ăn gồm trà, bánh nướng, mứt trái cây, kem đặc. Ông không có con, cô hiểu chứ. Thường ông ta chận chúng lại trong một đường hẹp và cho chúng kẹo và một đồng sáu xu để mua kẹo. Nhưng tôi không hiểu. Tôi nghĩ ông ta lạm dung điều đó. Ông ta là một người đàn ông kì dị. Tôi nghĩ có một cái gì đó sai lầm khi vợ ông bất ngờ nhanh chóng bỏ ông mà đi.
- Vợ ông ta bỏ đi khi nào?
- Sau tất cả chuyện rắc rối này chừng sáu tháng. Kế đó ba đứa trẻ bị giết. Phu nhân Starke thình lình đi xa về mìền bắc nước Pháp không bao giờ trở về. Bà ấy không phải là hạng người làm việc đó, cô sẽ nói thế. Bà ấy là một công nương trầm tĩnh, đáng kính. Không có vẻ như là bà từ bỏ ông vì một người đàn ông khác. Không, bà không phải là hạng người làm được việc ấy. Thế Tại Sao bà nhanh chóng từ bỏ ông? Tôi luôn luôn nói bởi vì bà ấy biết một cái gì đó - khám phá ra một điều gì đó -
- Ông ta còn ở đây không?
- Không thường xuyên. Một năm ông ta xuống đây một hai lần nhưng ngôi nhà lúc nào cũng đóng cửa với một quản gia. Cô Bligh trong làng - cô ấy vẫn là thư kí của ông - cô trông coi mọi việc cho ông.
- Và vợ ông?
Bà ấy chết rồi, công nương tội nghiệp. Chết ngay sau khi đi ngoại quốc. Trong nhà thờ có một tấm bảng dựng cho cô. Nó sẽ là điều khủng khiếp cho cô. Có lẽ lần đầu cô không chắc, rồi có lẽ cô bắt đầu nghi ngờ chồng, rồi có lẽ cô đi tới chỗ hoàn toàn chắc chắn. Cô không thể chịu nổi điều đó và cô đi xa.
- Những chuyện bọn đàn bà tưởng tượng ra. Ông Copleigh nói.
- Tất cả điều tôi có thể nói là Có một Cái gì Đó không đúng về sir Phillip. Ông ta quá yêu trẻ, tôi nghĩ thế, và đó không phải là một thiên hướng bình thường.
- Tưởng tượng của bọn đàn bà. Ông Copleigh nói.
Bà Copleigh đứng dậy và bắt đầu mang đồ đạc khỏi bàn.
- Về giờ giấc, chồng bà nói, bà sẽ cho qúy bà này những ác mộng nếu bà cứ tiếp tục những câu chuyện cách đây nhiều năm.
- Nghe rất thích thú, Tuppence nói. Nhưng tôi buồn ngủ quá rồi, tôi nghĩ tốt hơn mình nên đi ngủ bây giờ.
- Tốt, chúng tôi thường đi ngủ sớm. Bà Copleigh nói. Và cô sẽ mệt sau ngày dài trải qua đấy.
- Tôi mệt. Tôi buồn ngủ kinh khủng. Tuppence ngáp dài. Chúc ngủ ngon và cám ơn bà rất nhiều.
- Cô có cần tôi gọi dậy với một tách trà buổi sáng không? 8 giờ đúng có quá sớm cho cô không?
- Không, tốt thôi. Tuppence đáp. Nhưng xin đừng lo nếu việc ấy gây phiền cho bà.
- Không phiền gì cả. Bà Copleigh nói.
Tuppence mệt nhọc lê mình đến giường. Cô mở va li, lấy ra vài thứ cần dùng, cởi bỏ áo quần, tắm rửa rồi thả rơi mình xuống giường. Những gì cô nói với bà Copleigh là sự thật. Cô mệt lử. Những sự kiện cô được nghe đi qua trí óc như những hình người di động trong cái kính vạn hoa và tất cả những tưởng tượng khủng khiếp. Những đứa trẻ chết - quá nhiều trẻ chết. Tuppence chỉ cần một đứa trẻ chết sau lò sưởi. Có lẽ cái lò sưởi phải liên can đến Waterside. Con búp bê của đứa bé. Một đứa trẻ bị giết bởi một cô gái trẻ giận điên lên bởi người yêu bỏ rơi đã lái khỏi cô bộ óc khá là yếu đuối của mình. Ô tôi thân mến, tôi đang dùng thứ ngôn ngữ thật là bi kịch kia. Tất cả là một đống hỗn độn - bảng liệt kê theo thứ tự thời gian đảo lộn - rồi sau đó người ta không thể chắc cái gì xảy tới.
Cô đi ngủ và nằm mơ. Có một công nương Shalott nào đó nhìn ra ngoài cửa sổ toà nhà. Có tiếng cào rạch đang đến từ ống khói. Từ sau tấm chắn bằng sắt bị đóng đinh vào lò sưởi vọng lại những cú đánh. Âm vang của một chiếc rìu kêu vang rền. Clang, clang, clang. Tuppence thức giấc. Bà Copleigh đang gõ trên cánh cửa. Bà nhanh nhẹn bước vào, đặt khay trà xuống cạnh giường Tuppence, kéo màn cửa, hi vọng Tuppence ngủ ngon. Không ai trông vui vẻ hơn bà Copleigh, Tuppence nghĩ, bà ta không có những cơn ác mộng!


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui