Truyền thống Tri giáo cấm phụ nữ làm các công việc giao tiếp công cộng. Họ phải ở trong nhà phần lớn thời gian, chỉ được ra đường nếu đi cùng người giám hộ. Trường hợp đặc biệt cho phép rất nhiều phụ nữ di chuyển đơn lẻ, thì đó là người hầu ở cung điện Eimajim.
Công việc của người hầu là rót nước hoa quả. Tri giáo cấm rượu tuyệt đối. Trong bữa tiệc, quý tộc ngồi đúng vị trí được quy định. Đại sảnh lớn của Eimajim xa hoa và tinh tế, đủ rộng để chứa những đồ trang trí uy nghiêm nhất. Nó có hàng trăm cột trụ gỗ trầm và lính canh. Các dãy bàn xếp đối xứng qua một tấm thảm dài màu đỏ họa tiết cầu kỳ. Những người Otman địa vị cao nhất mặc Kimot đỏ, lớn tuổi và nghiêm nghị, ngồi hàng đầu. Hàng tiếp của chức sắc mặc áo xanh sậm và cuối cùng là chức sắc áo xám. Người Otman tự hào huyết thống chiến binh dũng cảm và lòng học hỏi tri thức. Họ tự hào đẳng cấp, nhưng tôn trọng thương nhân khắp chốn. Vì vậy trong cả lệnh Hạn đạo, có khoảng chục người ngoại Otman đại diện cho những mối buôn lớn nhất thành Gumaunten ngồi ở hàng chót cùng.
Cố vấn hoàng gia tối cao Harsam Ab Hahrat ngồi trên ghế của ngài trước thềm lớn, khiêm tốn phụng sự thiên hoàng Musuiayatb đệ XVII. Mười hai lời ngợi ca hay nhất về chiến công của thiên hoàng Musuiayatb đệ II được tuyển chọn để đọc mở đầu. Chúng là những bài thơ tuân thủ niêm luật nghiêm khắc và trang trọng. Thiên hoàng tại vị nhận những món quà tế lễ, thứ sẽ được chuyển cho các pháp sư và được đặt ở vạc lễ đền lớn vào nửa đêm chủ nhật. Bất cứ ai tránh đánh động trực tiếp một quyền năng đã treo lơ lửng trong vài năm, đã trở lại và gặm nhấm như một thứ cay đắng. Những người Otman thuần huyết sùng đạo tin tưởng phán quyết của Đấng Hiền triết. Họ nghiêm trang chờ đợi.
Khoảng giữa bữa tiệc lớn là thời điểm thiết lập mối quan hệ. Không ai còn dùng bữa ở bàn đơn lẻ, người không kể chức vị đều có thể gặp mặt và nói chuyện. Lái buôn và chức sắc đều tận dụng cơ hội. Những người đàn ông da sạm phủi phẳng áo Shamez, đỡ chén Ose(1) chủ động mở lời. Câu chuyện vòng vo dẫn đến các thương lộ và điều chỉnh giá mua bán. Quý tộc đẳng cấp thấp trao đổi với nhau hoặc tự giới hạn tối đa 2 thứ bậc. Họ bàn về thiên văn, nghệ thuật và bắt mối huyết thống. Những vị lớn tuổi áo đỏ chỉ khiêm tốn về hậu duệ. Thảm đỏ dành cho các đoàn mãi nghệ nổi tiếng nhất biểu diễn, trong một năm từ khi đấng Saidanja phán xét, chúng được thay bằng vũ công hoàng gia. Nhưng đặc biệt trong lễ kỷ niệm Thiên hoàng Musuiayatb đệ II năm nay, một vũ công bản địa được chỉ định giúp vui. Tên anh ta là Amahr Awaalsasf. Dân A-raba đồn lữ đoàn của gã được thần mưa Umtir ưu ái. Người Otman biết hàng ngàn mẹo dự đoán gần như chính xác một cơn mưa. Nhưng tay vũ công ngoan đạo và được thiên hoàng tại vị tùy chọn.
Một người bản địa cao ấn tượng. Ở gã có sự nghiêm trang của binh sĩ. Từ cửa lớn, đoàn vũ công nhào lộn vào tận trung tâm sảnh. Họ mặc trang phục vải lanh sặc sỡ, được thiết kế đường cắt và đan chéo kì lạ. Đúng quy tắc trang phục Tri giáo và đủ để như một đoàn biểu diễn. Báo hiệu bằng âm thanh rung lắc của chuông đeo cổ tay và chân. Amahr di chuyển độc lập giữa đoàn, xung quanh là mười hai người múa đuốc dứt khoát. Lửa và giông tố. Vũ công chính nắm hai dải vải dài màu vàng và đỏ. Nó phải là truyền thuyết trảm rồng Hi'mottauhitomonn(2), thứ sẽ được đẩy nhanh để ca ngợi quyền uy của thiên hoàng đầu tiên. Khúc chính ngọn Oomgat (3)nơi Musuiayatb đệ II phán quyết những kẻ khước từ vòng tay của Đấng minh triết. Đó là một bài biểu diễn rất khó và dài.
Những tảng đá già cỗi của Maula Loa tan chảy
Những linh hồn than khóc trong ngôi nhà lớn
Những lời ca cháy rụi trong trái tim vỡ
Khí Usg ngồi lặng lẽ trên ngai vàng (1)
Vương quốc bầu trời lấm lem bụi tro (1)
Tầng mây rách nát gượng đau cuộn mình (1)
Ngọn gió siết đuôi đan thành ngục tù. (1)
Nước Uzm mở mắt từ lòng đại dương (2)
Vương quốc của loài cá ùng ục sôi (2)
Rặng sóng giương những mũi đao bạc trắng (2)
Nước hấp hối trong vòng tay lục địa. (2)
Đất Oc khoác bộ giáp cũ rạn vỡ (3)
Vương quốc của muôn loài rừng rực cháy (3)
Loài cây chỉ còn hình hài đau khổ (3)
Loài thú vùi thịt xương trong sình lầy. (3)
Lửa Ka bị buộc xé đôi quyền năng (4)
Vương quốc lửa đôi trơ trọi một nửa (4)
Lửa nuốt sự sáng tạo vào trong bụng (4)
Lửa thiêu sống những đứa con của Cha. (4)
Không khí không nâng đỡ đôi cánh lớn (1)
Nước ngọt bị nghiền nát thành bóng tối (2)
Đá sỏi bị nghiền chảy trong móng vuốt (3)
Con rồng Hi'mottauhitomonn trở lại từ ngục Kartatos. (4)
Usg giấu kẻ chạy nạn vào lòng núi. (1)
Hơi thở muôn loài tắc nghẹn tro bụi (11)
Tro bụi mịt mùng che phủ bầu trời (12)
Bầu trời rực màu đỏ ối thở than. (13)
Uzm dâng sóng lớn nâng thuyền ra khơi (2)
Biển cả khắc khổ như những khuôn mặt (21)
Khuôn mặt muôn loài nhớ lục địa cháy (22)
Cháy rụi rồi ngôi làng ven biển. (23)
Oc tiết lộ những hang động khổng lồ. (3)
Hang động rùng mình vì những nhát búa (31)
Búa giáng những đòn vang dội như sấm (32)
Sấm nổi trong trái tim Con người Usot. (33)
Bầu trời chảy máu trong hơi thở lửa. (1)
Đại dương bị nấu sôi trong vạc lửa. (2)
Mặt đất loang lổ những dòng sông sôi. (3)
Lửa quấn chặt lửa trong vương quốc lửa. (4)
Gió nâng gót chân người anh hùng Usot (1)
Niềm hi vọng lấp lánh lưỡi gươm sáng. (2)
Lời chúc phúc nung ra tấm khiên thần. (3)
Đôi mắt xám cháy rực một ngọn lửa. (4)
Những đám mây chỉ còn phần còn lại (2)
Phần còn lại của mây che mắt rồng. (2)
Gió quất đuôi siết chặt đôi cánh lửa. (1)
Đôi cánh lửa khổng lồ bị giam cầm. (1)
Mặt đất lấm lem tro bụi hân hoan (3)
Hạt cây nảy mầm từ trong tro bụi (3)
Ngọn lửa bị xé đôi vẫn là lửa. (4)
Hai linh hồn lửa phải hòa làm một. (4)
Thánh kinh ghi chép chiến công khiêm tốn
Những gương mặt rạng rỡ dưới ánh nắng (1)
Những con tàu giong buồm trở về bờ. (2)
Cỏ hôn những bàn chân sống nhẹ nhàng. (3)
Lửa tí tách đun nồi cháo bột mạch. (4)
Muôn loài ngân nga bài hát Con người.
Usot bay cùng những thiên thần của Cha.
Cơn gió thầm thì lời kinh chúc phúc (1)
Muôn dòng sông ban phước người anh hùng (2)
Những cây Durum (4*) vươn tay từ cánh đồng (3)
Tí tách đống lửa của người lái buôn. (4)
Vương quốc thiêng lặng lẽ dưới những vì sao.
Giữa đại sảnh, màu sắc và ánh sáng chuyển động liên tục. Chúng kết hợp tranh khảm đá quý và mùi trầm hương. Rừng rực dũng mãnh như hào khí Samum. Tiếng gió rít và mây chuyển. Tiếng vó ngựa băng qua đại mạc tối đen. Ánh chớp của thanh gươm Kata-sa huyền thoại sáng như mặt trăng duy nhất. Vũ công bản địa đã chứng tỏ danh tiếng được đồn. Đôi mắt nâu sẫm khiêm tốn và nghiêm túc. Đôi chân giậm xoay gót hoàn hảo.
Hơi thở của người phương Bắc hiền hòa (1)
Muôn người anh em thở chung bầu khí (1)
Hoài nghi đầu độc linh hồn lạc lối. (2)
Gươm sáng như sét, bầu trời than khóc. (2)
Ôi dòng máu đỏ ngấm vào lòng đất. (3)
Vó ngựa dày xéo mặt đất buồn thảm.(3)
Máu lấp lánh sự thật bị khước từ. (4)
Những chiếc áo choàng tối màu phóng khoáng (1)
Như cơn gió lành cười dưới ánh nắng. (1)
Lời khẩn khoản ầm ì như tiếng sóng (2)
Nhuốm vị của sự thật xưa cay đắng. (2)
Những bàn chân và những cỗ xe thồ (3)
Và những lâu đài đều bám trên đất. (3)
Lòng khoan dung bị trói cùng đáy mắt. (4)
Định mệnh nhuốm màu khói tăm tối. (4)
Lòng núi có hơi thở của con người. (1)
Dòng sông nhớ gương mặt của con người. (2)
Lòng đất có dấu chân của con người. (3)
Đống lửa thuộc câu chuyện của con người. (4)
Oajal Ab Aunalram nhân từ, gió căng những cánh buồm xám. (1)
Asnah Ab Utmunsah khôn ngoan, hắc mạch kết những bàn tay. (2)
Otabat Ab Tansill uy nghi, bát cơm nồng cay vị đất. (3)
Utt Ab Alsiham dũng mãnh, lò sưởi nấu tuyết đêm đông. (4)
Cậu bé chăn cừu ngủ dưới gốc cọ. (1)
Lái buôn bày hàng chật kín trong chợ. (2)
Đôi mắt du mục hướng về đất thánh. (3)
Đèn dầu ủ ấm đôi tay hành khất. (4)
Thánh kinh dạy con người biết khiêm tốn. (1)
Biết chia sẻ và ghi chép tri thức. (2)
Bút và giấy đáng giá hơn túi vàng. (3)
Nến vẫn lập lòe bên bàn sách. (4)
Sáng suốt trong đôi mắt người lái buôn. (1)
Cánh buồm xám vẫn căng gió ngoài biển (2)
Cây cuốc vẫn xới bẫm đất trong vườn (3)
Đống lửa vẫn đỏ dưới vòm trời sao. (4)
Kính cẩn tin theo bước chân người chỉ đường.
Người anh sáng suốt và khiêm nhường hơn cả.
Chúng con chỉ là cát bụi dưới chân Người.
Chúng con chỉ là mực trên ngọn bút Cha.
Mực vàng chép nên những trang Sách sáng.
Chỉ có sự tĩnh lặng khi chiếc mũ của vũ công chính hạ xuống, màn biểu diễn kết thúc. Dải vải biểu tượng máu đổ cắt một đường kì công và giấu gọn sau lưng. Mười hai ngọn đuốc vẫn cháy rừng rực. Dư âm của chuông. Toàn bộ người Tri giáo cúi thấp đầu làm dấu tạ ơn ngày mặt trời mới mở đầu kỷ nguyên Tahaldanja huy hoàng.
Những chức sắc Otman vỗ tay chỉ một lần tán thưởng màn ca múa cuối cùng. Đoàn vũ công cúi thấp đầu trước thiên hoàng hành lễ. Họ thu lại đội hình nhịp nhàng, khum tay tạ ơn theo quy tắc Tri giáo và đi lùi ra cửa. Những câu chuyện quan trọng luôn ở nửa sau bữa tiệc. Lễ kỉ niệm hoàng gia không phải một buổi thuyết sách, chi tiết quan trọng được đào sâu ẩn ý. Họ nói về nhiều hơn chỉ các mối liên kết đẳng cấp. Người hầu di chuyển liên tục tiếp nước hoa quả. Ngài Bashuu Ab Sohuip là một tăng binh quyền lực nắm nhiều mối buôn lớn. Nói nhỏ rằng bất cứ ai khôn ngoan nên thu mua đồn điền nông sản và gia súc hơn là trữ vàng. Ở Gumaunten, mọi đầu buôn lớn nhất đang bắt đầu ngân phiếu hóa tài sản thành tiền giấy Hajr(5). Thứ được cho phép quy đổi trong chiến tranh ở Othania. Luôn đối mặt với sự thật. Về người Najzakhs đã dựng một ranh giới cắt ngang đại mạc, điều có nghĩa là âm mưu và xung đột. Ngài tham chính đang viết lệnh tổng động viên cống hiến kim loại. Chúng dùng để rèn vũ khí và giáp sắt. Những kẻ đóng góp nhiều nhất sẽ có cơ hội danh vọng. Và nếu các chức sắc đã có danh vọng, họ có thể thu vàng bằng việc bán lại lương thực cho người dân.
Hạn chế thu mua nô lệ và mở rộng quan hệ buôn bán ngoại quốc. Hai bên đều có lợi.
Cô gái nhỏ dưới bộ đồ Bujut tiếp nước cho rằng đó là một ý. Vận chuyển tiền giấy gọn và an toàn hơn khuân vàng. Chúng sẽ được đảm bảo nếu cập cảng Osamgut(6) và quy đổi được ở nội địa Othania. La'ahad nghe những đoạn chuyện ngắn và tiếp nước khéo léo. Ngài Albar đã gợi ý các mối liên kết hôn nhân cho cô con gái ương bướng. Quyền của Iruk Albar được đảm bảo khi cô còn ở học viện. Ngài khẳng định không nên trao cho phụ nữ nhiều quyền lực, họ sẽ tìm cách phản bội.
La'ahad nhận ra người quen. Rikamathraa và Iruk đều đang ở trong sảnh bằng danh phận người hầu. Hiển nhiên khi người hầu bị bắt buộc không lộ mặt, luôn là cách tốt để trà trộn. Bữa tiệc sẽ kết thúc trong buổi sáng. Thuật sĩ đang theo dõi chiến binh Ai Cập, làm điều đó trong khi rót nước ép. Cô ấy có hai cơ hội rút lui khi ra ngoài thay những cái bình. Hi vọng sẽ không có chuyện phức tạp.
----
Chú giải:
Shamez: Trang phục truyền thống của Arabiapan.
Thần mưa Umtir: Thần mưa theo tín ngưỡng của người Arabiapan.
1, Chén Ose (Hư cấu, Choko và Kaihō-sei nghĩa là sự cởi mở):Một loại chén uống rượu bằng gỗ có dạng hình trụ nhỏ.
2, Truyền thuyết trảm rồng Hi'mottauhitomonn(2): Liên hệ phần 1 chương 2.
3, Oomgat (Hư cấu từ Hoshi no gogatsu ngôi sao tháng 5): Ngọn núi nơi Musuiayatb đệ II ch*m đầu thủ lĩnh của các bộ tộc bản địa.
4*, Cây Durum (Lúa mì cứng- Triticum durum): Loại lúa mì mọc nhiều ở lục địa phương Bắc và sau được người Otman đem đến Arabiapan. Durum loại lúa phổ biến thứ 2 thế giới.
5, Tiền giấy Hajr (Hư cấu, từ Hajj và Gourudo nghĩa là vàng): Một loại vật ngang giá tương đương vàng từng được Othania sử dụng trong chiến tranh giành thuộc địa.
6, Cảng Osamgut (Hư cấu, Tochi wa saisho ni megumareta- Vùng đất lành đầu tiên): Bến cảng lớn nhất phía Nam đế quốc Othania. Địa điểm có mặt trong Sách sáng, nơi đấng Hiền triết đặt bước chân đầu tiên đến lục địa.
Các thiên hoàng Otman:
-Oajal Ab Aunalram (Hư cấu, từ Rogu/Sajal- khúc gỗ và haiiro no fune/alsafinat alramadia- Con tàu màu xám): Musuiayatb đệ V, người nổi tiếng với tài hùng biện và tài ngoại giao, có công lớn trong việc mở đường buôn bán giữa Tahaldanja và các quốc gia Tây Á.
-Asnah Ab Utmunsah (Hư cấu, từ Dō kappu/'akwaab alnahas- Cái cốc đồng và Burokku/kutal min alhadid almunasahir- Khối sắt nóng chảy): Musuiayatb đệ VII, người lập hòa ước Otman-Arabiapan cùng thống trị các ốc đảo Bashibaq, bằng cách chia sẻ cách gieo trồng lúa mì đen cho người bản địa.
-Otabat Ab Tansill (Hư cấu, từ Ōkina fukuro/haqibat kabirat- Chiếc túi lớn và taki/alshilal- Thác nước): Musuiayatb đệ X, thiên hoàng đầu tiên trực tiếp chỉ huy các đội quân bình định cuộc nổi dậy lớn nhất trong 200 năm của nô lệ.
-Utt Ab Alsiham (Hư cấu, từ Juku shita kajitsu/alfakihat alnaadijat- Quả chín và Hitosashiyubi/al'iisbie alkhamis Alsiham- Ngón tay thứ năm): Musuiayatb đệ XII. Dưới triều Musuiayatb đệ XII đế quốc Othania tiến hành lệnh trừng phạt ngoại thương với Tahaldanja. Trong 3 năm, thiên hoàng Otman đã ăn uống theo chế độ của binh lính Otman thấp nhất, đến khi khủng hoảng lương thực được giải quyết.
*Niêm luật thơ tế lễ Otman được quy định rất chặt chẽ. Quy định có nguồn gốc từ thần thoại những vị thần khởi nguyên. Vị thần đầu tiên là thần Sáng tạo có bốn người con lần lượt là Khí Usg, Nước Uzm, Đất Oc và Lửa Ka. Luật thơ tế lễ quy định tối đa 8 chữ với câu thường, câu thơ có yếu tố thần thánh bắt buộc 9 chữ và câu thơ có Cha (Thần sáng tạo/ Đấng vĩ đại) bắt buộc 10 chữ. Các câu thơ, cụm thơ phải lần lượt có yếu tố luân phiên Khí- Nước- Đất- Lửa, trừ các câu thơ 9-10 chữ.
(Liên hệ Phần Chú giải: Thần thoại thần khởi nguyên Otman và truyền thuyết về con rồng Hi'mottauhitomonn)