Câu lạc bộ Dumas

Để mang ánh sáng tới từ bóng đêm.
“Ông nghĩ thế nào?” bà nam tước hỏi.
“Thật phiền phức, tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi chẳng hiểu gì. Còn bà?”
“Tôi nói rồi, cũng không bao nhiêu.” Bà ta lật lật mấy trang sách, vẻ bứt rứt. “Nó cung cấp một phương pháp, một cách thức. Nhưng có gì đó không đúng lắm. Và tôi phải biết đó là cái gì.”
Corso không nói gì mà đốt một điếu thuốc nữa. Gã đã có câu trả lời: chìa khóa trong tay ẩn sĩ, đồng hồ cát, lối thoát mê cung, bàn cờ, vầng hào quang... Và những thứ khác. Khi Frieda Ungern còn đang giải thích ý nghĩa các bức tranh, gã đã phát hiện những điểm sai biệt khác có thể khẳng định luận cứ của mình: mỗi cuốn sách đều khác hai cuốn kia. Trò chơi tìm lỗi tiếp tục, và gã có nhu cầu rất cấp thiết phải làm việc. Nhưng không phải với hơi thở của bà nam tước sau gáy.
“Tôi mong được coi kỹ toàn bộ những thứ này,” gã nói.
“Tất nhiên. Tôi có rất nhiều thời gian. Tôi muốn xem ông làm việc.”
Corso hắng giọng, bối rối. Đã đến đoạn gã vấn lo lắng: trở mặt với nhau.
“Tôi làm việc một mình hiệu quả hơn.”

Nghe có gì đấy không đúng. Frieda Ungern nhăn mặt.
“E là tôi không hiểu.” Bà ta nghi ngờ liếc nhìn cái túi vải bố của Corso. “Có phải ông định ám chỉ rằng ông muốn tôi để ông ở lại một mình?”
“Nếu bà không phiền.” Corso cố gắng nhìn thật lâu vào mắt bà. “Việc tôi làm không thể để cho người khác dòm ngó được.”
Bà ta chớp mắt. Vẻ khó chịu biến thành đe dọa, và Corso biết rằng mọi chuyện sẽ hỏng bét bất cứ lúc nào.
“Đương nhiên ông có quyền làm gì tùy ý.” Giọng Frieda Ungern trở nên lạnh lẽo đến mức tưởng chừng làm đông cứng toàn bộ cây cối trong phòng. “Nhưng đây là sách của tôi và nhà của tôi.”
Người khác ở trường hợp này thì đã xin lỗi và đánh bài chuồn, nhưng Corso thì không. Gã vẫn ngồi yên hút thuốc, nhìn chằm chằm bà nam tước. Sau cùng, gã thận trọng mỉm cười, giống như một con thỏ chơi bài xì dách sắp sửa xin thêm một con bài.
“E là tôi đã không tự giới thiệu đầy đủ.” Gã cười và lấy từ trong túi một vật gói bọc cẩn thận. “Tôi chỉ cần ở đây một lúc với cuốn sách và quyển sổ của tôi thôi.” Gã khẽ vỗ lên cái túi trong khi đưa cái gói ra bằng tay kia. “Bà có thể thấy rằng tôi đã mang theo mọi thứ cần thiết.”
Bà nam tước mở gói ra, im lặng nhìn bên trong. Đó là một cuốn quảng cáo dày tên là Iden xuất bản tại Berlin tháng Chín năm 1943, báo ra hằng tháng của Idus, một nhóm người tôn sùng ma thuật và chiêm tinh rất gần gũi với các lãnh tụ Đức quốc xã. Corso đã đánh dấu sẵn một trang có ảnh. Trong ảnh là một Frieda Ungern rất trẻ đẹp mỉm cười trước ống kính. Mỗi bên bà ta khoác tay một người đàn ông (khi đó bà còn cả hai tay). Một người mặc thường phục, với chú thích ông này là nhà chiêm tinh hàng đầu của quốc trưởng. Bà được giới thiệu là trợ thủ ưu tú của ông này, cô Frieda Wender. Người đứng bên tay trái mang kính gọng thép, nét mặt bẽn lẽn mặc đồng phục SS. Không cần phải đọc lời chú thích cũng nhận ra đó là thống chế Heinrich Himmler.
Khi Frieda Ungern, tên mẹ đẻ là Wender, ngẩng lên bắt gặp ánh mắt Corso, bà không còn là một mệnh phụ nhỏ bé lớn tuổi ngọt ngào nữa. Nhưng biểu hiện đó chỉ thoáng qua trong phút chốc. Bà chậm rãi gật đầu và cẩn thận gỡ lấy trang ảnh rồi xé thành từng mảnh nhỏ. Và Corso nghĩ rằng những mụ phù thủy, các bà nam tước và các bà mệnh phụ bé nhỏ làm việc giữa hàng đống sách và hàng hàng cây cảnh trong chậu cũng có giá của họ, giống như bất kỳ ai. Victa iacet Virtus. Và gã cũng không biết tại sao lại cứ phải là kiểu gì khác.

***
Khi còn lại một mình, gã lấy tập tài liệu ra bắt tay vào việc. Gã ngồi ở bàn bên cửa sổ, Chín cánh cửa để mở ở trang đầu. Trước khi bắt đầu, gã kéo màn che nhìn ra ngoài. Một chiếc BMW xám đỗ bên kia đường. Gã Rochefort gan lì vẫn ở nguyên vị. Corso không nhìn thấy cô gái ở quán bar góc đường.
Gã quay sang chú ý tới cuốn sách: loại giấy, độ nén ở các tranh in, những chỗ rạn hay chỗ in sai. Bây giờ gã đã biết rằng cả ba bản in chỉ giống nhau bề ngoài bìa da màu đen không chữ, năm dải băng nổi, một hình khắc trên bìa, số trang và vị trí các tranh minh họa như nhau... Với lòng kiên nhẫn vô hạn, từ trang nọ tới trang kia, gã hoàn thành bảng đối chiếu với cuốn số một. Ở trang tám mươi mốt, trên trang để trống ở mặt bên kia bức họa số V, gã tìm thấy một tấm các khác của bà nam tước. Đó là bản dịch lời văn của trang này.
Ngài sẽ chấp nhận khế ước do tôi đưa ra, ấy là hiến dâng bản thân tôi cho ngài. Ngài sẽ cam kết trao cho tôi tình yêu của những người đàn bà, tuổi thành xuân của các trinh nữ, danh tiết của các nữ tu, địa vị, khoái lạc và sự giàu sang của những người đầy quyền lực, ông hoàng và các tu sĩ. Tôi sẽ thông gian với các thiếu nữ ba ngày một lần và sự nhiễm độc sẽ mang lại niềm vui cho tôi. Mỗi năm một lần tôi sẽ ký hợp đồng này bằng máu tươi để khẳng định lòng tôn kính ngài. Tôi sẽ giẫm đạp lên sự ban phước của nhà thờ và gửi lời cầu nguyện tới ngài. Tôi sẽ không còn sợ dây thừng, dao kiếm hay thuốc độc nữa. Tôi sẽ bước qua những kẻ mắc bệnh dịch và người hủi mà không sợ da thịt nhiễm bẩn. Nhưng trên hết tôi sẽ sở hữu sự Hiểu biết mà vì nó tổ tiên tôi đã từ bỏ thiên đường. Ngài sẽ xóa tên tôi trong danh sách người sống mà đưa vào sách đen của người chết để bảo đảm hiệu lực cho khế ước này. Và bắt đầu từ bây giờ tôi sẽ sống hạnh phúc hai mươi năm trên thế gian này. Rồi tôi sẽ theo ngài tới vương quốc của ngài và nguyền rủa Chúa Trời.
Còn có một ghi chú ở đằng sau tấm các liên quan đến đoạn văn được giải mã trên một trang khác.
Tôi sẽ nhận ra những nô lệ của ngài, những người anh em của tôi, nhờ có dấu ấn đâu đó trên mình họ, một cái sẹo hay ký hiệu của ngài...
Corso thầm chửi thành tiếng, như đang lẩm bẩm cầu nguyện. Gã nhìn những gáy sách đen mòn trên các bức tường xung quanh, dường như gã nghe thấy tiếng thì thầm lạ lẫm, xa xăm từ chúng phát ra. Mỗi một cuốn sách đóng kín này là một cánh cửa, đằng sau cửa đó là bóng đêm xao động, những giọng nói, những thanh âm, từ một chỗ tối tăm sâu thẳm đang hướng về phía gã.
Gã chợt nổi da gà. Giống như bị một cái quạt xấu xí thổi vào người.

***
Khi gã rời khỏi nhà Frieda Ungern thì đêm đã khuya. Gã dừng lại một lát ở cửa nhìn quanh, song không có gì đáng ngại. Chiếc BMW xám đã biến mất. Một làn sương mù mỏng manh từ dưới sông dâng lên, trôi qua bức tường chắn bằng đá rồi trườn theo bờ kè ẩm ướt. Ánh đèn đường màu vàng rọi lên những dải đường bờ sông nối liền nhau, chiếu lên mặt đất, hắt sáng lên chiếc ghế băng trống mà cô gái đã ngồi.
Gã đến quán bar. Gã đưa mắt tìm khuôn mặt cô giữa đám người đứng bên quầy hay ngồi bên những cái bàn hẹp phía sau, nhưng không thấy. Gã có cảm giác rằng một mảnh trong bộ sắp chữ nằm không đúng chỗ, có gì đấy đang phát từng hồi tín hiệu báo động trong đầu gã kể từ lúc cô gọi điện báo rằng Rochefort lại xuất hiện. Corso, gần đây bản năng hắn trở nên sắc bén hơn rất nhiều, có thể ngửi thấy mùi nguy hiểm trên đường phố vắng tanh, trong làn hơi ẩm từ mặt sông bốc lên rồi lan tới quán bar nơi gã đang có mặt. Gã lúc lắc vai mong rũ bỏ cảm giác ấy. Mua một gói Gauloises rồi lần lượt nốc cạn hai chai gin. Lỗ mũi gã nở rộng ra và làm mọi thứ từ từ trở về vị trí, giống như hình ảnh tiến dần tới tiêu điểm. Tiếng còi báo động bé dần đi ở phía xa và tiếng vọng từ thế giới bên ngoài dịu đi thật dễ chịu. Cầm theo chai gin thứ ba, gã ngồi xuống một bàn trống bên cửa sổ hơi mờ sương. Gã nhìn đường phố, bờ kè, màn sương dâng lên trên bờ tường chắn rồi cuộn tròn lại khi bánh của một chiếc ô tô lướt qua. Gã ngồi đó suốt mười lăm phút tìm kiếm một dấu hiệu bất thường, cái túi nằm trên sàn bên chân gã. Trong đó là hầu hết những câu trả lời cho bí mật mà Varo Borja cần biết. Lão già sưu tầm sách không mất tiền oan.
Đầu tiên là, bây giờ Corso đã giải quyết xong vấn đề về những khác biệt giữa tám trong số chín bức họa. Cuốn số ba khác hai cuốn kia ở những bức họa số I, II và VI. Trong bức tranh số I, tòa thành mà kỵ sĩ đang phi ngựa tới chỉ có ba tòa tháp chứ không phải bốn. Ở bức số III, trong ống tên còn một mũi tên, trong khi trong cuốn sách ở Toledo và Sintra thì ống tên trống rỗng. Và ở bức số VI, người đàn ông bị treo bằng chân phải, còn trong cuốn số một và số hai là chân trái. Lúc này gã đã có thể lấp kín bảng đối chiếu gã bắt đầu từ khi còn ở Sintra.
Nói cách khác, mặc dù các bức họa có vẻ giống nhau, song luôn luôn có một trong ba bức có điểm sai khác, ngoại trừ bức thứ VIIII. Hơn nữa sự khác biệt được phân bố khắp cả ba cuốn sách. Nhưng sự phân bố có vẻ ngẫu nhiên lại có ý nghĩa khi kiểm tra những điểm khác biệt tương ứng giữa dấu của nhà in về chữ ký của người vẽ tranh gốc và chứ ký của người làm bản khắc, A. T. và L. F.
Khi đặt hai bảng này chồng lên nhau, gã phát hiện sự trùng hợp: ở bức họa nào có điểm khác biệt với hai bức kia thì tên viết tắt của người vẽ gốc cũng khác. Điều này có nghĩa là Aristide Torchia trong vai trò thợ làm bản khắc đã làm tất cả khuôn in gỗ cho các tranh trong cuốn sách. Nhưng ông ta chỉ được xem như người vẽ bản gốc cho mười chín trong số hai mươi bảy bức minh họa của cả ba cuốn. Tám bức còn lại trong ba cuốn sách - gồm hai bức trong cuốn một, ba trong cuốn hai và ba trong cuốn ba - là do một người khác sáng tác, người có tên viết tắt là L. F. Cái tên này khi phát âm rất giống tên Lucifer.
Những tòa tháp. Bàn tay. Mũi tên. Lối thoát khỏi mê cung. Cát. Chân người bị treo. Bàn cờ. Hào quang. Đó là những điểm sai sót. Tám chỗ khác nhau, tám tranh chắc chắn là được sao lại từ bản gốc, cuốn Delomelanicon ít người biết đến, mười chín bức tranh bị sửa đổi và không dùng được phân tán trong ba cuốn sách vốn chỉ giống nhau ở lời văn và bề ngoài. Do đó chẳng có cuốn nào là giả, nhưng cũng chẳng có cuốn nào hoàn toàn thật. Aristide Torchia đã thú nhận sự thật với đao phủ, nhưng không phải toàn bộ sự thật. Kỳ thực chỉ còn lại một cuốn sách. Để dễ giấu và tránh bị lửa thiêu cũng như để thoát khỏi cặp mắt của kẻ không xứng đáng. Các bức tranh chính là chìa khóa. Một cuốn sách ẩn giấu trong ba cuốn. Để cho môn đồ vượt quá thầy, hắn phải tái tạo cuốn sách nhờ những mật mã, những phép tắc của nghệ thuật.
Corso tợp một ngụm gin và nhìn ra khoảng trời đêm trên sông Seine, bên kia những ngọn đèn đường rọi sáng một phần bờ kè và hắt những mảng tối sẫm xuống dưới những gốc cây trơ trụi. Gã không hề có cảm giác sảng khoái của thắng lợi, thậm chí cũng chẳng hài lòng vì đã kết thúc một công việc khó khăn. Gã hiểu rõ tâm trạng này: đó là sự an nhàn tỉnh táo và lạnh lùng khi cuối cùng cũng có được cuốn sách săn đuổi từ lâu. Bằng cách thu xếp để hớt tay trên một đối thủ cạnh tranh, chộp lấy cuốn sách sau một hồi mặc cả tinh tế, hoặc moi từ đống rác rưởi giấy lộn ra một viên ngọc quý. Gã nhờ Nikon lúc nàng ngồi bên cái ti vi dán nhãn tên cho những cuộn băng video, khẽ đu đưa người theo tiếng nhạc - Audrey Hepburn mải mê trong mối tình với một tay nhà báo ở Rome - và đăm đăm nhìn gã bằng cặp mắt to đen luôn ngỡ ngàng trước sự kỳ diệu của cuộc đời. Hồi đó họ đã có những lời lẽ ám chỉ về sự thô lỗ và sự trách móc, điềm báo trước về nỗi cô đơn đang tới gần như một món nợ dai dẳng không sao dứt nổi. Người đi săn và con mồi, Nikon thầm thì, sửng sốt trước khám phá của mình, có lẽ vì đó là lần đầu tiên nàng thấy gã như vậy. Corso lấy lại hơi thở, giống như có một con sói thù địch cự tuyệt chiến lợi phẩm của mình sau chuyến đi săn dài ngày. Một con dã thú không cảm thấy đói khát hay phẫn nộ, không thấy khủng khiếp trước máu tươi và thịt sống. Không có mục tiêu gì khác ngoài chính cuộc săn. Anh cũng đã chết chẳng khác gì con mồi của anh, Lucas Corso. Giống như thứ giấy khô giòn đã trở thành ngọn cờ của anh. Những cái thây đầy bụi bặm mà anh cũng chẳng yêu, chúng không thuộc về anh và anh chẳng để tâm đến chúng một tí gì.
Trong một thoáng gã tự hỏi không biết bây giờ Nikon nghĩ gì về mình. Miệng gã khô ran và háng gã giần giật, khi ngồi bên cái bàn hẹp trong quán bar, ngắm nhìn đường phố và không thể rời đi bởi vì ở đây, trong không gian sáng sủa ấm áp, xung quanh là khói thuốc cùng những tiếng trò chuyện rì rầm, gã cảm thấy tạm thời an toàn trước linh cảm đen tối và mối nguy vô danh mà cũng vô hình vô dạng gã cảm thấy đang lại gần thông qua chất rượu gin sền sệt trong máu khiến gã tê dại, thông qua màn sương mỏng hung hiểm từ dưới sông bay lên. Giống như trên cánh đồng hoang nước Anh, màu đen và màu trắng. Nikon sẽ hiểu. Basil Rathbone, đầy cảnh giác, đang nghe con chó săn Baskerville tru lên ngoài xa.
***

Sau cùng gã quyết định. Gã uống nốt chỗ gin rồi đặt mấy đồng tiền lên bàn. Tiếp đó gã quàng cái túi qua vai rồi đi ra đường, cổ áo dựng cao. Khi qua đường gã liếc nhìn tứ phía và khi tới chỗ chiếc ghế đá cô gái từng ngồi, gã quay lại đi dọc theo bức tường chắn trên bờ sông bên trái. Khi gã đi qua một chiếc cầu, ánh sáng vàng vọt từ một chiếc sà lan rọi tới tạo thành một vầng hào quang mờ sương bao bọc thân mình gã.
Đường phố và bờ sông vắng ngắt, thật lâu mới có một chiếc xe. Qua con phố nhỏ Mazarin, gã vẫy một chiếc taxi nhưng nó không dừng lại. Gã đành đi bộ tới phố Guénégaud, tính qua cầu Pont Neuf để tới Louvre. Màn sương cùng những tòa nhà tối tăm tạo nên một cảnh sắc u buồn, ngoài thời gian. Khịt mũi như con sói đánh hơi thấy nguy hiểm, Corso cảm thấy lo âu khác thường. Gã chuyển cái túi qua vai kia để giải phóng tay phải và dừng lại nhìn quanh bối rối. Ở đúng chỗ này - chương mười một: tình tiết trở nên phức tạp, d’Artagnan nhìn thấy Constance Bonacieux đi ra từ phố Dauphine, cũng trên đường tới Louvre và qua cây cầu ấy. Đi cùng cô ta là một quý ông hóa ra là công tước Buckingham, chuyến phiêu lưu lúc đêm hôm suýt nữa khiến ông ta phải nếm mùi nhát kiếm của d’Artagnan đâm thấu qua người: Tôi yêu nàng, thưa quý ngài, và tôi ghen...
Có lẽ cảm giác nguy hiểm là sai lầm, là do tác động nghịch thường của bầu không khí kỳ lạ và việc đọc quá nhiều tiểu thuyết. Nhưng cú phôn của cô gái và chiếc BMW xám đỗ trước cửa không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng. Một tiếng chuông đồng hồ từ xa vọng đến, và Corso thở phào. Chuyện này thật ngớ ngẩn.
Đúng lúc ấy Rochefort chồm lên gã. Tựa như hắn từ dưới sông nhảy lên, từ bóng tối hóa thành thực thể. Sự thực hắn đã bám theo Corso dọc bờ sông bên dưới dãy tường chắn để rồi lúc đó lao lên những bậc đá đuổi theo gã. Corso chỉ thấy những bậc đá khi ngã lăn xuống dưới. Trước đấy chưa bao giờ gã ngã cầu thang, và gã tưởng nó sẽ diễn ra lâu hơn, mỗi lần một bậc, như trong phim. Nhưng nó kết thúc rất nhanh... Một cú đấm hết sức chuyên nghiệp đằng sau tai thế là bóng đêm trở thành hư ảo. Thế giới bên ngoài có vẻ xa vời, như thể gã đã nốc cạn cả chai gin. Nhờ vậy mà gã không cảm thấy quá đau khi lăn xuống các bậc thang, đụng qua đụng lại hai bên bờ đá. Gã lăn tới tận bậc cuối, toàn thân bầm dập nhưng vẫn tỉnh táo. Có chút ngạc nhiên là không hề nghe thấy tiếng nước bắn tóe lên - một từ tượng thanh theo kiểu Conrad, gã nghĩ hoàn toàn không đúng lúc - khi thân thể gã rơi vào trong nước. Đầu gã nằm trên tấm đá lát, chân gác lên bậc thang dưới cùng, từ dưới đất gã ngước lên bối rối và thấy hình thù đen sì của Rochefort nhảy ba bậc một xuống chồm lên người gã.
Rắc rối rồi, Corso. Đó là những gì gã kịp nghĩ. Rồi gã làm hai chuyện. Đầu tiên gã cố vung chân đạp khi Rochefort chồm lên mình. Nhưng cú đánh gượng gạo yếu ớt rơi vào không khí. Vì vậy gã chỉ còn mỗi cách phản ứng theo kiểu quen thuộc xưa nay, đó là cuộn tròn như quả bóng để mặc loạt đạn chìm trong bóng đêm nhập nhoạng. Với làn hơi ấm từ dưới sống và bóng tối của riêng mình - gã đã mất cặp kính trong khi ẩu đả - gã nhăn mặt. Người vệ binh chết và cũng ngã xuống cầu thang. Vì vậy gã cuộn mình lại để bảo vệ cái túi vẫn mắc vào, đúng hơn là vướng vào vai gã. Có lẽ cụ tổ Corso từ bên kia bờ sông Lethe[4] sẽ tán thưởng hành động này của gã. Còn Rochefort, khó mà biết hắn nghĩ gì về chuyện đó. Giống như Wellington, hắn đã đạt được hiệu quả rất cao theo kiểu Anh truyền thống: Corso nghe thấy một tiếng gào đau đớn từ xa lắc dường như phát ra từ chính miệng gã khi Rochefort giáng một cú đá gọn gàng và chính xác vào lưng gã.
[4] Lethe: một trong năm dòng sông chảy dưới địa ngục theo thần thoại Hy Lạp. Tương truyền người chết uống nước sông này sẽ quên hết. Tương tự như truyền thuyết ăn cháo lú, hay uống Mạnh Bà thang của phương Đông.
Chẳng có gì hay ho sắp xảy ra, vì vậy gã nhắm mắt chờ đợi, mặc cho kẻ khác lật trang. Gã có thể cảm thấy hơi thở của Rochefort ngay bên cạnh, cảm thấy hắn cúi trên người gã lục tìm trong cái túi. Rồi Rochefort giật mạnh cái đai da. Động tác này khiến Corso lại mở mắt, vừa đủ để nhận ra những bậc thang trong tầm mắt. Nhưng khi mặt gã áp xuống tảng đá lát, những bậc thang xoay ngang ra, xiên xẹo và mờ mịt. Vì vậy, lúc đầu gã không thể xác định là cô gái đang đi lên hay xuống. Gã chỉ thấy cô di chuyển cực nhanh từ phải qua trái, đôi chân dài nhảy từng bậc một. Cái áo len thô cô vừa cởi ra tung bay trong khoảng không, đúng hơn là phi về một góc màn ảnh bao quanh là những cuộn sương mù, giống như cái áo choàng của Bóng ma trong nhà hát[5].
[5] Bóng ma trong nhà hát: tiểu thuyết của nhà văn Pháp Gaston Leroux; đã được dựng thành phim cùng tên.
Gã phấn khởi chớp chớp mắt muốn nhìn rõ hơn nên dịch đầu một chút để giữ toàn cảnh trong khuôn hình. Qua khóe mắt gã thấy hình ảnh lộn ngược của Rochefort, hắn giật mình khi cô gái nhảy xuống bậc thang dưới cùng. Cô quát lên một tiếng còn sắc lẻm chói tai hơn cả tiếng thủy tinh vỡ rồi chồm lên người hắn. Gã nghe thấy một âm thanh trầm đục - một cú đấm - và Rochefort đột ngột biến mất khỏi tầm nhìn của Corso như bị một cái lò xo hất văng đi. Bây giờ Corso chỉ còn trông thấy những bậc đá trơ trụi. Gã khổ sở quay đầu về phía dòng sông rồi kề má bên kia lên tảng đá lát. Hình ảnh vẫn xiên xẹo: mặt đất một bên, bầu trời tối đen một bên, cây cầu ở dưới và dòng sông ở trên. Nhưng lúc này ít nhất nó cũng chứa Rochefort và cô gái. Trong chớp mắt Corso thấy bóng cô trong ánh sáng lờ mờ từ những ngọn đèn trên cầu chiếu xuống. Cô đứng choãi chân, hai tay chìa ra trước ngực, như đang cầu xin một khoảnh khắc yên tĩnh để nghe giai điệu nào đó từ xa. Rochefort ở trước mặt cô, quỳ một gối và chống một tay xuống đất, giống như một võ sĩ quyền Anh không đứng dậy nổi khi trọng tài đếm đến mười. Cái sẹo trên mặt hắn hiện rõ dưới ánh sáng từ trên cầu rọi tới. Corso chỉ kịp trông rõ vẻ kinh hoàng của hắn trước khi cô gái lại quát lên một tiếng chói tai. Với một chân làm trụ, cô nhẹ nhàng xoay nửa vòng đã đúng giữa mặt Rochefort.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận