XIII. NGÀY CÀNG RỐI RẮM
Giờ này anh đang rung động vì quang cảnh và khí thế của của cuộc săn. Có chỗ nào cho sự rung động nếu tôi chính xác như cái bảng giờ tàu?
A. Conan Doyle, THUNG LŨNG KINH HOÀNG.
Đầu tiên gã nghe thấy tiếng nói từ rất xa, một lời thì thầm không sao hiểu được. Gã cảm thấy ai đó đang nói với mình nên cố tỉnh lại. Điều gì đó liên quan đến diện mạo của gã. Corso chẳng nghĩ gì về chuyện gã trông thế nào vào thời điểm ấy và cũng không màng quan tâm việc đó. Dù đang ở đâu, gã cũng cảm thấy nằm ngửa như vậy thật dễ chịu. Gã không muốn mở mắt khiến đầu đầu gã đau hơn.
Ai đó vỗ nhẹ lên mặt, gã miễn cưỡng mở mắt ra. La Ponte đang cúi xuống người gã, vẻ mặt lo lắng. Vẫn mặc quần áo ngủ.
“Bỏ tay ra,” Corso nói cộc lốc.
La Ponte thở phào nhẹ nhõm. “Tôi tưởng anh chết rồi.”
Corso mở nốt mắt bên kia và cố ngồi dậy. Ngay lập tức gã cảm thấy bộ não mình lúc lắc trong hộp sọ như món thịt đông trên một cái đĩa.
“Quả thực họ cho anh nếm mùi đấy,” La Ponte thông báo cho gã một cách không cần thiết khi đỡ gã ngồi dậy. Corso nhìn quanh phòng và vai hắn. Liana Taillefer và Rochefort đã biến mất.
“Cậu thấy ai đánh tôi chứ?”
“Tất nhiên. Một gã cao, đen, mặt sẹo.”
“Trước đây có bao giờ cậu gặp hắn chưa?”
“Chưa.” La Ponte tức tối nhăn mặt. “Có vẻ cô ấy quen hắn khá thân, mặc dù... Hẳn cô ấy cho hắn vào khi ta cãi nhau trong buồng tắm. Hắn có một vết rách trên môi, nó sưng phồng lên. Người ta đã khâu vài mũi ở đó.” Hắn sờ má mình. Chỗ sưng đang xẹp đi. Hắn khẽ cười hằn học. “Hình như mọi người quanh đây đều nhận được cái xứng với mình.”
Corso tìm mãi không ra cặp kính, bực bội nhìn hắn. “Tôi không hiểu sao người ta không tẩn cho cậu một trận,” gã nói.
“Họ cũng muốn thế. Nhưng tôi bảo họ là không cần thiết. Họ cứ việc lo chuyện của họ. Tôi chỉ là một khách viếng thăm tình cờ.”
“Có thể cậu đã làm gì đấy.”
“Tôi ư? Anh đùa a? Quả đấm của anh là quá đủ rồi. Tôi giơ tay lên thế này... Dấu hiệu hòa bình. Tôi chỉ ngồi trên toa lét, bình thản và ung dung cho đến khi họ bỏ đi.”
“Anh hùng quá.”
“Còn hơn phải hối tiếc. Nhìn đây này.” Hắn đưa cho Corso một tờ giấy gấp lại. “Họ để lại cái này dưới cái gạt tàn, với đầu mẩu xì gà Montecristo trong đó.”
Corso khổ sở nheo mắt nhìn bản viết tay. Mẩu giấy viết bằng mực, kiểu chữ viết tay duyên dáng cầu kỳ như chữ viết khắc đồng với những nét chữ hoa trang trí rườm rà.
Do mệnh lệnh của ta và lợi ích quốc gia, người cầm giấy này đã làm cái hắn đã làm.
Ngày mùng ba tháng Mười hai năm 1627.
Richelieu.
Dù đang trong tình trạng như vậy, gã cũng phải suýt phá lên cười. Đó là một tờ mật hàm trong chiến dịch bao vây La Rochelle khi Milady đòi giết chết d’Artagnan, sau đó bị Athos dùng vũ lực chiếm đoạt (Cắn được thì cứ cắn, đồ rắn độc) và dùng để giải thích với Richelieu về việc hành hình người đàn bà này ở cuối cuốn tiểu thuyết... Nói tóm lại, vậy là quá nhiều cho một chương. Corso loạng choạng vào phòng tắm, mở vòi và chìa đầu vào dòng nước lạnh. Rồi gã nhìn lại mình: mắt sưng húp, râu không cạo và ướt sũng. Không dễ coi lắm. Và đầu gã kêu ù ù như tổ ong. Thật không biết nói gì với một ngày khởi đầu như vậy.
La Ponte xuất hiện trong gương bên cạnh, đưa cho gã một cái khăn bông và cặp kính.
“Nhân tiện xin thông báo,” hắn nói. “Chúng lấy cái túi của anh rồi.”
“Chó đẻ.”
“Này, tôi không hiểu tại sao anh lại trút giận lên đầu tôi. Tôi chỉ ăn nằm với cô ta thôi.”
***
Corso buồn bực đi qua hành lang khách sạn, gã cố nghĩ thật nhanh. Nhưng mỗi phút trôi đi, khả năng gã tóm được những kẻ chạy trốn càng trở nên xa vời. Mọi thứ mất sạch trừ một mắt xích đơn độc, cuốn sách số ba. Bọn họ còn phải chiếm đoạt nó, và điều này ít nhất còn cho gã khả năng tìm được họ, với điều kiện gã phải nhanh. Khi La Ponte đi trả tiền phòng, Corso tới bàn điện thoại quay số Frieda Ungern. Đường dây bận. Gã lại gọi Louvre Concorde và xin nối tới buồng Irene Adler. Gã không biết làm sao sự việc lại phát triển theo hướng đó, nhưng gã an tâm khi nghe thấy giọng cô. Gã nói sơ qua cho cô biết tình hình và đề nghị gặp nhau ở quỹ Ungern. Rồi gã gác máy nhìn La Ponte đi tới, hắn nhét cái thẻ tín dụng vào ví với vẻ rất đau khổ.
“Đồ chó cái. Ả chuồn đi không thèm trả tiền.”
“Đáng đời cậu.”
“Tôi sẽ tự tay giết ả, thề đấy.”
Khách sạn đắt kinh khùng và La Ponte giận điên vì bị phản bội. Bây giờ hắn đã rõ chuyện gì xảy ra và buồn rầu như Ahab khát khao báo thù. Họ lên taxi, Corso cho lái xe địa chỉ nhà Ungern. Trên đường đi gã thuật lại cho La Ponte phần còn lại của câu chuyện - chuyến tàu, cô gái, Sintra, Paris, ba cuốn Chín cánh cửa, cái chết của Fargas, vụ xô xát bên bờ sông... La Ponte nghe và gật đầu, lúc đầu hoài nghi, sau rồi lại sửng sốt.
“Tôi đã ở với một con rắn độc,” hắn sợ hãi rên rỉ.
Tâm trạng Corso rất tệ. Gã bình luận rằng rắn độc rất ít khi cắn người ngốc. La Ponte nghĩ ngợi về điều đó. Hắn không có vẻ bực mình.
“Ả là một người đàn bà kiên quyết,” hắn nói. “Và thân hình thì thôi rồi!”
Bất chấp nỗi oán hận về thiệt hại tài chính vừa rồi, cặp mắt hắn vẫn ánh lên dâm đãng khi đưa tay vân vê bộ ria mép.
“Thân hình thôi rồi,” hắn nhắc lại và mỉm cười ngớ ngẩn.
Corso nhìn chằm chằm qua cửa sổ. “Chính xác đấy là câu quận công Buckingham đã nói.”
“Buckingham nào?”
“Trong Ba người lính ngự lâm. Sau vụ chuỗi hạt kim cương, Richelieu giao cho Milady nhiệm vụ ám sát quận công. Nhưng quận công bỏ tù ả khi ả quay lại London. Tại đó ả quyến rũ viên cai ngục Felton, một thằng ngốc như cậu nhưng có vẻ ngoài cuồng tín và đạo mạo hơn. Ả thuyết phục y giúp mình vượt ngục và ám sát quận công.”
“Tôi không nhớ đoạn đó. Rồi chuyện gì xảy ra với Felton?”
“Y dùng dao găm đâm quận công. Sau đó bị xử tử. Không biết là vì vụ ám sát hay chỉ vì ngu ngốc.”
“Ít nhất y cũng không phải trả tiền khách sạn.”
Chiếc xe đi dọc theo bờ kè Conti, gần nơi Corso đụng với Rochefort lần trước. Đúng lúc ấy La Ponte nhớ lại điều gì đó.
“Milady có một cái dấu trên vai phải không?”
Corso gật đầu. Họ đang vượt qua những bậc đá gã ngã xuống đêm hôm trước. “Phải,” gã trả lời. “Bị đao phủ đánh dấu bằng sắt nung đỏ. Dấu vết của kẻ phạm tội. Ả có nó từ trước khi kết hôn với Athos. D’Artagnan phát hiện ra điều đó khi ngủ với ả và suýt chết vì chuyện đó.”
“Thật kỳ quái. Anh biết đấy, Liana cũng có cái dấu.”
“Trên vai?”
“Không, ở hông. Một hình xăm nhỏ tí. Rất đẹp. Biểu tượng hoa huệ.”
“Tôi không tin.”
“Tôi thề.”
Corso không nhớ mình có nhìn thấy vết xăm hay không. Nhưng gã có rất ít thời gian để ý cái đó trong lần gặp ngắn ngủi với Liana Taillefer trong căn hộ của mình. Dường như quá lâu rồi. Bằng cách này hay cách khác, mọi chuyện luôn ngoài tầm kiểm soát. Điều đó vượt quá phạm vi một sự trùng hợp ly kỳ. Đó là một kế hoạch vạch sẵn, quá phức tạp và nguy hiểm do Liana và gã trợ thủ tiến hành và không thể coi như một trò khôi hài tầm thường mà bỏ qua. Đây là một âm mưu với đủ mọi yếu tố cơ bản của thể loại, và ai đó - một kẻ đầy thủ đoạn - đang khéo léo giật dây. Gã cảm thấy tờ giấy của Richelieu động đậy trong túi. Thật quá đáng. Và còn nữa, chìa khóa của điều bí mật phải nằm trong tính mới lạ và chất tiểu thuyết của nó. Gã nhớ đã đọc đâu đó trong sách của Edgar Allan Poe hay Conan Doyle: “Bí mật này tựa hồ không thể khám phá được vì chính những nguyên nhân khiến nó có thể khám phá được: tình huống xảy ra quá thừa tính tự nhiên.”
“Tôi tự hỏi không biết đó là một trò chơi khăm quá đáng hay một mưu đồ tinh vi,” gã nói to.
La Ponte tìm thấy một cái lỗ trên ghế ngồi bằng nhựa liền bứt rứt thò tay giật mạnh. “Dù là gì đi nữa tôi cũng không thích.” Hắn nói thầm mặc dù có cả một vách kính an toàn ngăn giữa họ và người lái xe. “Tôi hy vọng anh biết mình đang làm gì.”
“Đó mới là vấn đề. Tôi cũng không chắc.”
“Sao ta không tới cảnh sát?”
“Để nói gì? Rằng Milady và Rochefort, tay sai của hồng y giáo chủ Richelieu đã lấy trộm của chúng ta một chương trong Ba người lính ngự lâm và cuốn sách để triệu hoán Lucifer? Rằng con quỷ phải lòng tôi và hóa trang thành một cô bé hai mươi tuổi theo bảo vệ tôi? Cậu sẽ làm gì nếu cậu là thanh tra Maigret và tôi kể với cậu toàn bộ chuyện này?”
“Tôi sẽ cho rằng anh say rượu.”
“Cậu thấy đấy.”
“Varo Borja thì sao?”
“Đó là việc khác.” Corso lo lắng lẩm bẩm. “Thậm chí tôi không muốn nghĩ đến chuyện đó. Khi lão phát hiện tôi để mất của lão...”
Chiếc taxi từ từ lăn bánh giữa dòng xe cộ buổi sáng. Corso sốt ruột nhìn đồng hồ. Cuối cùng họ tới quán bar gã ngồi tối qua. Có một đám đông tụ tập trên vỉa hè và những tấm biển mang dòng chữ CẤM VÀO ở góc phố. Khi ra khỏi taxi, Corso thấy một xe cảnh sát và một xe cứu hỏa. Gã nghiến răng chửi thề thật to rồi ra hiệu cho La Ponte đi tới. Cuốn số ba cũng mất rồi.
***
Cô rẽ đám đông đi tới chỗ họ, cái túi nhỏ đeo trên lưng, hai tay đút trong túi áo khoác. Những vệt khói nhạt vẫn còn vấn vương trên các mái nhà.
“Đám cháy bắt đầu lúc ba giờ sáng,” cô nói, không để mắt đến La Ponte, như thể hắn không tồn tại. “Lính cứu hỏa vẫn còn bên trong.”
“Bà nam tước Ungern thế nào?”
Cô phác một cử chỉ mơ hồ, không hoàn toàn dửng dưng mà là nhẫn nhục cam chịu. Như thế đó là định mệnh. “Người ta tìm thấy thi thể cháy thành than của bà ta trong phòng làm việc. Đó là nơi đám cháy bắt đầu. Hàng xóm chắc rằng đó là một tai nạn. Một điếu thuốc là vứt không đúng chỗ.”
“Bà nam tước không hút thuốc,” Corso nói.
“Đêm qua bà ta hút.”
Corso nhìn qua đầu đám đông tụ tập gần dải băng cách ly của cảnh sát. Không thấy được nhiều lắm - đầu một cái thang dựa vào nhà, ánh đèn lóe lên đứt đoạn từ chiếc xe cứu thương bên cạnh cửa, vô số chỏm mũ bảo hiểm của cảnh sát và lính cứu hỏa. Không khí tràn ngập mùi gỗ và nhựa cháy. Giữa đám người xem, một cặp khách du lịch người Mỹ chụp ảnh cho nhau trên dải băng cách ly. Một hồi còi vang lên rồi vụt tắt. Ai đấy trong đám đông nói rằng người ta đang đưa xác ra, nhưng chẳng nhìn thấy gì cả. Và dù sao đi nữa cũng không có bao nhiêu thứ để nhìn, Corso nghĩ thầm.
Gã bắt gặp cô gái đang nhìn mình chằm chằm. Không còn dấu vết gì của đêm qua. Cô tỏ ra chăm chú và thực tế, giống như một người lính chuẩn bị vào trận.
“Chuyện gì xảy ra?” cô hỏi.
“Tôi đang hy vọng cô nói cho tôi.”
“Ý em không phải thế.” Có vẻ cô bắt đầu để ý đến La Ponte. “Anh ta là ai?”
Corso nói cho cô biết. Sau một chút ngập ngừng không biết La Ponte có hiểu không, gã nói, “Cô gái tôi đã kể với cậu. Irene Adler.”
La Ponte quả nhiên không hiểu, hắn lúng túng nhìn sang rồi chìa tay. Cô không để ý, cũng có khi cố tình không để ý. Cô qua sang Corso.
“Ông không còn cái túi,” cô nói.
“Phải. Cuối cùng vẫn để Rochefort lấy mất. Hắn chuồn đi với Liana Taillefer.”
“Liana Taillefer là ai?”
Corso trừng mắt nhìn, nhưng cô thản nhiên nhìn đáp trả.
“Cô không biết bà góa đau khổ đó sao?”
“Không.”
Cô bình tĩnh, không tỏ ra lo âu, cũng không ngạc nhiên. Không biết vì sao, Corso tin cô.
“Không thành vấn đề,” sau cùng gã nói. “Sự thực là bọn họ đã chuồn mất.”
“Đi đâu?”
“Chẳng biết,” gã nhăn mặt tuyệt vọng và ngờ vực, răng nhe ra. “Tôi tưởng cô biết chút gì đấy.”
“Em không biết gì về Rochefort hay về người đàn bà ấy.”
Thái độ dửng dưng của cô tỏ ra rằng đó không hề là chuyện của cô. Cái đó càng làm cho Corso bối rối hơn. Gã đang chờ đợi ở cô một chút kích động. Nói gì thì nói, cô đã tự nguyện làm người bảo vệ gã. Gã tưởng rằng cô sẽ trách móc mình hay gì đấy như là đáng đời ông, cứ tưởng mình khôn lắm. Nhưng cô chẳng nói gì. Cô nhìn xung quanh như đang tìm một khuôn mặt quen trong đám đông. Gã cũng không biết cô đang nghĩ về chuyện đã xảy ra hay đang để tâm trí vào cái gì khác.
“Ta có thể làm gì?” gã hỏi bâng quơ. Gã hoang mang. Ngoài những lần bị tấn công, gã đã chứng kiến ba cuốn Chín cánh cửa và bản thảo Dumas lần lượt biến mất. Ba cái xác chết theo gót gã, nếu kể cả Enrique Taillefer, và gã đã tiêu mất một khoản tiền lớn của Varo Borja, không phải của gã... Varus ơi, Varus à, trả lại quân đoàn cho tôi. Quỷ tha ma bắt vận may của hắn. Vào giây phút ấy, gã những mong trẻ lại ba mươi lăm tuổi để ngồi xuống lề đường khóc òa lên.
“Ta có thể uống một ly cà phê,” La Ponte đùa cợt đề nghị, như thể muốn nói, Thôi đi các cậu, chuyện đâu đến nỗi nào, và Corso nhận ra rằng gã ngốc khốn khổ này chẳng có ý thức gì về cái đống hỗn độn khổng lồ họ đang bị lún vào. Dẫu vậy, hình như cà phê cũng không phải một ý tưởng quá tệ. Trong tình cảnh này gã cũng không nghĩ được cái gì khá hơn.
***
“Xem tôi hiểu đúng không nhé,” mấy giọt cà phê chảy xuôi theo bộ râu La Ponte khi hắn nhúng miếng bánh sừng bò vào cốc cà phê. “Năm 1666 Aristide Torchia giấu đi một cuốn sách đặc biệt. Một loại ấn phẩm an toàn phân bố trên ba bản in. Đúng thế không? Với tám trên chín bức minh họa có những khác biệt. Và ba bản in gốc phải đi cùng nhau thì câu thần chú mới hiệu nghiệm.” Hắn cắn một miếng bánh và chùi mồm vào khăn ăn. “Tôi nói đúng không nào?”
Ba người ngồi trên sân trời đằng trước khu phố cổ Saint Germain des Prés. La Ponte đang bù lại bữa sáng đứt đoạn ở khách sạn Crillon. Cô gái, vẫn còn xa lánh, lặng lẽ cầm ống hút một ngụm nước cam có ga và ngồi nghe. Cuốn Ba người lính ngự lâm mở trước mặt, cô lần giở từng trang lơ đãng đọc rồi lại ngẩng lên nghe. Còn Corso, bấy nhiêu sự kiện khiến gã rối ruột nên không nuốt được gì.
“Khá đấy,” gã nói với La Ponte. Gã ngửa người dựa vào lưng ghế, hai tay đút túi, đăm đăm nhìn những ngọn tháp. “Mặc dù cũng có thể là tác phẩm hoàn chỉnh, cuốn sách bị nhà thờ đốt, cũng ba gồm ba cuốn sách có những minh họa thay đổi sao cho chỉ có những chuyên gia thực sự trong lĩnh vực này, những người được khai trí, mới có thể kết hợp ba cuốn theo đúng cách.” Gã cau mày, mặt nhăn nhúm, phờ phạc. “Nhưng giờ thì ta sẽ chẳng bao giờ biết nữa.”
“Ai bảo là chỉ có ba cuốn? Có thể ông ta đã in ra bốn, hay là chín bản khác nhau.”
“Trong trường hợp đó tất cả mọi chuyện này đều vô nghĩa. Người ta chỉ biết có ba cuốn.”
“Vậy là ai đó muốn ráp lại bản in gốc. Và đang thu thập những bức minh họa thực...” La Ponte nói, mồm đầy bánh. Hắn ăn bữa sáng thật ngon lành. “Nhưng y chẳng màng đến giá trị thương mại của nó. Một khi đã có những bức tranh khắc, y liền hủy phần còn lại. Và giết chủ nhân. Victor Fargas ở Sintra. Nam tước phu nhân Ungern ở Paris này. Và Varo Borja ở Toledo...” Hắn đột ngột dừng nói mà thất vọng nhìn Corso. “Thuyết này không ổn. Varo Borja còn sống.”
“Tôi có cuốn sách của ông ta. Đã từng có. Và họ quả đã cố gắng chăm sóc tôi, phục kích tôi tối qua, cả sáng nay nữa.”
La Ponte có vẻ chưa chịu. “Nếu họ để ý phục kích anh, sao Rochefort không giết anh?”
“Không biết.” Corso nhún vai. Gã đã tự hỏi mình câu đó. “Hắn có cơ hội mà không làm... Còn về chuyện Varo Borja vẫn sống, tôi không biết nói sao. Lão ta không trả lời điện thoại của tôi.”
“Vậy cũng có khả năng lão đã biến thành một xác chết. Hoặc một nghi phạm.”