Vượt qua sông Thiên Đức, đại quân Nguyên thẳng tiến Thăng Long. Cũng trongngày hôm đó, Thoát Hoan nhận được thư cầu hòa từ nhà Trần:
- Có đánh thì đánh, không hòa!
A Khắc Nhĩ thay mặt Thoát Hoan gửi thư hồi đáp. Người mang thư là một vịtướng trẻ, ôn hòa:
- Muôn tâu hoàng tử. Quốc công vẫn mong người suy nghĩ lại. Vì lợi ích củahai nước.
- Một khi chiến tranh đã diễn ra, mất mát là không tránh khỏi. Sứ giả khôngphải là người không hiểu đạo lý đó chứ?
- Thần hiểu… Chỉ mong hoàng tử hiểu, mất mát tiền của vốn có thể xây dựnglại. Mất mát con người vốn là không gì có thể bù đắp được. Quốc Vương tôi khôngchịu được cảnh dân đen máu chảy, non nước không yên bình nên gửi thư cầu hoàngtử lui binh cho an ổn trăm nhà, bá tánh vui mà quân lính nhà Nguyên cũng thoátkhỏi cảnh chia lìa gia đình, thê tử.
- Sứ giả không cần nhiều lời – Tướng quân Ô Mã Nhi lên tiếng – Quốc Vươngngươi vô lễ, sai người thích chữ “Sát Thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy tolắm. Thiên triều cũng đã nhiều lần xuống chiếu, đừng trách tại sao không có mộtcơ hội cho các ngươi.
Sứ giả mặt không hề biến sắc, nhẹ nhàng:
- Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tựthích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lạikhông có?
Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Quả nhiên dưới cánh tay dù có vài vết sẹo to,không hề thích hai chữ đầy kiêu hãnh đó.
Thoát Hoan chợt lên tiếng:
- Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại cònchống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?
Sứ giả không nề nao núng, giọng vẫn tỏ ra cứng cỏi vô cùng:
- Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ởđầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Naylại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huốngchi là người”.
Doanh trại im lặng trong một thoáng. Ô Mã Nhi gằn giọng:
- Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hộikiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trongkhoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát, máu chảy đầyđồng.
Từ đầu tới cuối, Thượng Nguyên A Khắc Nhĩ không nói một lời. Cầm bức thưtrả lời, hắn trao lại cho người hầu cận, nhẹ nhàng:
- Sứ giả về đi… Mọi chuyện nên nói ngoài chiến trận. Đã đến nước này, sẽkhông có chuyện cầu hòa.
Hắn khoát tay, sứ giả cung tay thi lễ. Ô Mã Nhi bước lên, giọng không vui:
- Tâu vương gia… Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, khônghạ chủ nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói “Chó nhà cắnngười”; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có ngườigiỏi, chưa dễ mưu tính được. Tha một tên như thế, e là…
- Nơi nào cũng có địa linh nhân kiệt. Thắng một quốc gia mà người là nhữngcon rùa rụt đầu rụt cổ, sao bằng hạ một đất nước người dân đồng lòng. Chiếnthắng đó mới vẻ vang, mới là ý nghĩa. Phải không sứ giả Nam triều, ĐỗKhắc Chung?
Sứ giả đó tên Đỗ Khắc Chung.
Thượng Nguyên A Khắc Nhĩ cảm thấy cơ thể bỗng trở nên vô cùng mệt mỏi. Mệt không vì cuộc chiến. Hắn mệt vì nhận ra, lòngmình trong lần trầm luân đó đã thay đổi quá nhiều.
Hải San không ra chiến trận, nàng không dùnglưỡi gươm hạ hắn, nhưng đôi mắt sáng quắc của nàng, kiên cường của nàng, tìnhyêu quê hương của nàng đã lấy trọn con tim của hắn….Song, dù thế nào đi nữa, nàng có quê hươngnàng, hắn có bổn phận với Tổ quốc hắn. Thượng Nguyên An Khắc Nhĩ là kẻ xâm lược, vẫn phải tiếp tục chém giết chođến khi mảnh đất đó thuần phục dưới chân.
- Hoàng huynh… Tiệc khao quân đêm nay đệ sẽ không tham dự. Đệ mệt rồi.