Trong những cuốn sách được gửi tại quán trọ Hoan Ca thì có một cuốn đặc biệt hơn cả, đó là một cuốn bút ký được truyền từ qua nhiều thế hệ.
Nhiều thập kỷ trước, sau khi một ông lão qua đời, những người con của ông đã quyên tặng nó vào quán trọ Hoan Ca.
Cuốn sổ ghi chép lại những câu chuyện đã từng xảy ra trong vùng, tất cả đều không chính thống, thiếu bằng chứng và không thể xếp vào thể loại biên niên sử.
Một trong những câu chuyện ấy viết về cuộc chiến ác liệt giữa quỷ và rồng thời xa xưa.
Người ta kể rằng ngày xửa ngày xưa, vua quỷ và vua rồng đã chiến đấu ròng rã mười năm trời, cuối cùng con quỷ thua và con rồng chiến thắng, con người và muôn thú đều hân hoan tưng bừng.
Có nhiều phiên bản khác nhau của câu chuyện và phiên bản mà dân làng vẫn nhớ cho đến ngày nay là: vua rồng nuốt chửng vua quỷ, sau đó ngài kiệt quệ và chết đi.
Trước khi chết ngài đã triệt tiêu sức mạnh của vua quỷ khiến nó không thể hồi sinh rồi ngài từ từ hóa thành rừng núi.
Những ngọn đồi và những đỉnh núi nhỏ bên cạnh làng Cây Đen ngày nay chính là cơ thể của ngài.
Vua quỷ vẫn bị giam cầm ở tận sâu bên trong ngọn núi đợi chờ cơ hội vùng thoát.
Trên đỉnh núi cao nhất có một tòa tháp đảo ngược tên là tháp Trụy Nguyệt, bên trong tháp là cổ họng của vua rồng và nếu đi xuống tận cùng của tòa tháp sẽ bắt gặp vua quỷ bị giam cầm.
Dĩ nhiên câu chuyện là giả.
Dễ nghe thì gọi nó là truyền thuyết còn khó nghe hơn thì là bịa chuyện.
Con rồng không thể biến thành núi, nó phải to lớn cỡ nào mới đủ cơ chứ… và tháp Trụy Nguyệt cũng là di tích của một tế đàn cổ xưa, công trình bên trong có dấu vết xây dựng của con người nên sao có thể là cổ họng của rồng được.
Những nhà nghiên cứu về Dị giới chân chính đều biết rằng rồng không ăn ác ma, ngược lại sinh vật từ Vực sâu mới là những kẻ ăn rồng.
Sinh vật từ Vực sâu nuốt sức mạnh từ linh hồn để tăng cường sức mạnh của chúng, khi chúng ăn thịt cũng là lúc chúng nuốt linh hồn của con mồi.
Chúng là những kẻ phàm ăn, chúng ăn mọi thứ từ thực vật, động vật, con người, tinh linh, dị thú, đến cả sinh vật bất tử, dĩ nhiên là bao gồm cả rồng.
Linh hồn của rồng chứa đựng sức mạnh vô biên nên đối với những sinh vật đến từ Vực sâu thì rồng luôn toát ra sức cám dỗ khôn cưỡng.
Thời đại này, không một ai từng thấy rồng, và cũng không mấy người gặp ác ma đích thực.
Lũ ác ma chỉ thỉnh thoảng xuất hiện trong các ngọn tháp pháp sư nơi cách xa cuộc sống ồn ào và náo nhiệt, chúng bị triệu hồi bởi các học giả nghiên cứu Dị giới song đa phần đều là những con cấp thấp và yếu kém.
Thợ săn tiền thưởng cũng có cơ hội đụng độ ác ma khi họ dọn dẹp chiến trường cho pháp sư hay khi giải quyết các sinh vật bị lây nhiễm.
Đối với con người thì sự lây nhiễm nguy hiểm hơn ác ma, nếu chẳng may một đồ vật thuộc về Dị giới len lỏi vào tay con người hay một chiến trường cổ bị chôn vùi đột nhiên hồi sinh, tất cả đều có thể trở thành nguồn lây lan.
Sự lây nhiễm từ Dị giới ấy giống như một căn bệnh truyền nhiễm, nếu nói rằng nó khủng khiếp thì quả là nó thật khủng khiếp, nhưng không phải là không khống chế được, nên cũng đừng quá hoang mang và hoảng loạn.
Là một thợ săn tiền thưởng, Kalinger đối mặt với chúng không chỉ một lần và cũng từng đụng độ với lũ ác ma cấp thấp đích thực.
Anh đã từng cho rằng mối nguy hiểm của tháp Trụy Nguyệt cũng chỉ tầm cỡ ấy.
Nhưng giờ thì anh nhận ra rằng, có một thứ hoàn toàn vượt quá sức tưởng tượng của mình.
***
Khi Kalinger chạy đến vách đá tít trên đỉnh núi cũng là lúc hoàng hôn đã buông xuống và bầu trời bên sườn được bao phủ bởi màu xanh thẫm vô ngần.
Không còn tâm trí đi ngắm nhìn cảnh đẹp kỳ vĩ, Kalinger tức tốc chạy về phía cánh cổng trên vách núi đá.
Cánh cổng đang biến mất từng mảng từng mảng một từ trên xuống như bức tranh trên vách đá bị bàn tay vô hình của ai đó lau đi.
Kalinger kịp luồn qua cánh cổng vào những giây cuối cùng, đứng bên trong tòa tháp rồi anh mới yên tâm quay đầu nhìn lại.
Nhìn từ bên trong tháp, hai cánh cổng bình thường vẫn đang từ từ khép lại mà không phải bị ai đó lau đi, màu sắc của bầu trời bị kìm kẹp thành một đường mỏng dính trước khi biến mất hoàn toàn.
Có vài con golem bốn chân nằm ngổn ngang trong sảnh tầng một, chúng nằm im lìm bất động, không phản ứng gì với sự xuất hiện của Kalinger.
Sương nói rằng cậu ta phải ngắt kết nối với lũ golem, đóng cửa tháp và triệt tiêu mọi pháp thuật bảo vệ để dốc toàn bộ sức lực cho “Câu thần chú cuối cùng”.
Hiện tại đã không còn phép thuật bảo hộ nào cả trong lẫn ngoài tháp Trụy Nguyệt nên Kalinger có thể đi lại mà không gặp bất kỳ trở ngại nào.
Thế nhưng hệ lụy theo đó là – cũng không còn đĩa đá di động, nên nếu muốn lên hay xuống buộc anh phải đi bằng cầu thang xoắn ốc.
Kalinger rảo chân chạy một mạch xuống cầu thang, mỗi bước hai ba bậc với tốc độ vượt trội hơn hẳn con người.
Cây cầu bị gãy ở tầng mười ba buộc anh phải dừng lại.
Anh nhoài người nhìn xuống đáy tháp Trụy Nguyệt tối thui sâu hun hút.
Ánh sáng ma thuật trên các vách tường đã bị tắt đi gần hết, các quả cầu ánh sáng cũng biến mất tăm, chỉ còn sót vài ba viên đá lửa bốc cháy vĩnh cửu không cần người làm phép, đâm ra phía trước cầu thang càng tối đen như mực, tầm mắt chỉ có thể trông thấy trong một phạm vi nhỏ hạn hẹp.
Hàng rào ma pháp biến mất đồng nghĩa rằng Kalinger hoàn toàn có thể xuống đến đáy tháp mà không cần có Sương dẫn đường.
Vấn đề là làm thế nào để đến đó.
Lần trước anh đã thử leo xuống bằng dây thừng nhưng chẳng có chỗ nào để đặt chân.
Kalinger thả cây kiếm cong rồi tới chiếc rìu và dao găm xuống.
Một lát sau, anh nghe thấy tiếng leng keng vọng lại từ đáy tháp.
Và anh mỉm cười, thả người vào bóng tối.
Muốn vào khu vực bị ma thuật bảo vệ buộc phải có sự dẫn đường của pháp sư chủ nhân tòa tháp, nếu không tháp Trụy Nguyệt sẽ không có đáy.
Nhưng giờ thì khác, Kalinger chìm vào giữa bóng đêm tù mù, anh lộn người theo bản năng và khéo léo đáp xuống mặt đất bằng một cú lăn người và khuỵu một chân đỡ cơ thể.
Đó là một hang đá ngầm vô cùng rộng lớn, bên trên là đỉnh vòm được nối thẳng với giếng trời của tháp Trụy Nguyệt, còn ánh sáng thì quá đỗi mù mờ khiến quang cảnh xung quanh cứ vô biên không có bờ bến.
Kalinger nhặt lại đống vũ khí.
Anh nhận thấy mặt đất bên dưới chân không phải đất đá mà giống một mặt băng dày đặc hơn, và sâu bên trong thì đang tỏa ánh sáng lờ mờ.
Đây là vách tường tinh thể mà anh từng thấy trước đây, khi đó anh đi xuống một con dốc thoai thoải và thấy mặt đứng của nó, giờ thì rõ ràng là anh đang đứng trên mặt tinh thể.
Có lẽ phải đi loanh quanh mới tìm thấy con dốc lần trước và biết đâu Sương đang ở đó.
Vừa đi Kalinger vừa cảm nhận được những rung động bên dưới vách tinh thể, ban đầu nó rất nhẹ, sau đó tăng nhanh dần, cường độ cũng mạnh hơn, và từng chút từng chút một nó trở nên giống với tần số của nhịp đập trái tim.
Mỗi một nhịp đập là mỗi lần sâu thẳm bên trong tinh thể vang lên tiếng nổ rền.
Kalinger nghe thấy có âm thanh rạn nứt dù rằng rất khẽ, bên dưới chân anh vẫn lành lặn chứng tỏ vách tinh thể đang nứt ở nơi nào đó.
Anh lắng tai nghe, để tiếng nứt vỡ và rền vang dẫn lối.
Sau mấy trăm bước, anh thấy một loạt các ký tự pháp thuật xuất hiện trên mặt băng, những ký tự uốn lượn ngoằn ngoèo màu váng óng ả quấn quýt đan dệt vào nhau tạo thành một vòng tròn và ăn sâu vào bóng tối.
Kalinger không hiểu ý nghĩ của đống văn tự nhưng có thể đoán ra phần nào tác dụng từ hình dáng của chúng.
Nó hẳn phải là một loại thần chú cầm tù tương tự như một bức tường vô hình.
Từ màu sắc có thể thấy người làm phép sử dụng rất nhiều các loại bột đá quý đắt đỏ gia tăng hiệu quả và theo mức độ cổ xưa thì phép thuật này đã được định sẵn ở đây từ rất lâu chứ không phải mới gần đây.
Kalinger cẩn thận kiểm tra bằng thanh kiếm cong trước để đảm bảo rằng sẽ không đụng phải thứ gì rồi mới lò dò bước vào khu vực thần chú.
Khi đã vào bên trong anh phát hiện có sự phản quang bất thường trong không khí trong một lần vô tình ngoái đầu lại, Kalinger quờ quạng bằng thanh kiếm cong và nhận ra lưỡi kiếm đâm phải một bức tường cứng như đá vô hình.
“Ái chà chà, cũng ghê chứ lị! Vào được mà không ra được cơ à?” – Kalinger vươn cánh tay ra, quả nhiên có một rào cản tàng hình.
Dò dẫm bên trong hàng rào mấy bước, hương thơm hiếm hoi mà thân quen lại xuất hiện – hương thơm dạt dào khi bóp nát những viên thuốc trắng được hòa tan bởi máu quạ.
Mùi hương này nồng nàn và mãnh liệt hơn hẳn một túi thuốc lần trước, nó lúc nhúc vặn vẹo như một sinh vật vô hình không ngừng lan tỏa và chẳng mấy chốc sẽ trói chặt lấy cơ thể anh.
Kalinger muốn tìm cái gì đó để bịt mũi nhưng anh bỏ cuộc và chấp nhận chịu đựng vì biết sẽ chả ích gì đâu, cũng vì thế đâm ra anh cứ phải nhắc nhở mình phải tập trung vào những nơi cần cảnh giác và chớ để mùi hương hấp dẫn ấy quấy tung tâm trí mình lên.
Mặt tinh thể nghiêng dần tạo thành một bề mặt lõm ở phía đằng trước, cũng bắt đầu từ chân anh dẫm lõm bõm lên một chất lỏng màu đỏ đậm và sâu dần khi mặt băng dần lõm xuống.
Đó là một hỗn hợp các loại máu, máu sói, quạ và rắn, tất cả đều là những loại máu tuyệt phẩm để làm chất xúc tác trong làm phép.
Ban đầu chúng chỉ làm ướt đôi giầy của Kalinger, rồi vũng máu trườn dần lên mắt cá chân khi anh tiếp tục dấn lên phía trước và cuối cùng thì anh phải lội trong bể máu khi chúng dâng đến tận bắp chân.
Có một bóng đen khổng lồ đang cố thủ trong bóng tối phía trước mặt, vì quá mờ khi nhìn từ xa nên trông nó giống hệt một miệng hang động ở chân vách đá, nhưng khi đến gần hơn thì rõ ràng nó không phải hang động, cũng không phải chân vách đá, mà là một con thú khổng lồ đang nằm trên mặt tinh thể và ngâm người trong bể máu rộng lớn.
Cũng không chính xác lắm khi gọi nó là “một con thú khổng lồ”, vì nó không có da, không có thịt, không có bộ lông mượt mà hay lớp vảy nham nhám, không có mắt trên cái đầu to tướng mà chỉ có hai hốc mắt tối như mực… toàn thân nó đều là xương trắng.
Bộ xương nằm rúm ró và các chiếc xương cọ vào nhau sin sít.
Con thú khổng lồ nằm cuộn tròn trong bể máu như một tòa lâu đài đổ nát.
Khi Kalinger đến gần, xương sống con thú lại chìm xuống sâu hơn, đầu nó quay sang một bên, trong hốc mắt tối lom lom có ánh sáng đỏ lập lòe, một chiếc chân trước đầm đìa máu được nó giơ lên và vỗ vào nơi cách Kalinger mấy bước chân.
Đó là cái chân trước bên phải, còn cái bên trái thì chìm nghỉm kẹt cứng trong bể máu.
Cái chân trái ấy cũng chỉ còn nửa số ngón chân, phần khuỷu đang trong tình trạng tan mất gần nửa, chỉ còn đầu xương quay là còn nối với cổ chân.
Ngoài cái chân bị ăn mòn thì các bộ phận khác trên người nó cũng không lành lặn: đống xương sườn sát với mặt băng gần như đã biến mất, xương hông chi chít đầy vết rạn nứt, một bên xương đùi đã mất hoàn toàn còn bên kia thì gãy làm đôi, những phần vỡ vụn và gãy nứt ấy xì xì sủi bọt tăm trong bể máu như đang bị tan chảy rồi chìm xuống.
Vì cả người nó trắng lốp trong bóng tối nên Kalinger có thể thấy rõ cấu trúc trên lưng nó, nơi mà đáng lẽ là đôi cánh khổng lồ mỗi khi sải rộng thì giờ chỉ còn hai phần gốc xương không hoàn chỉnh.
Đầu nó dài bè to cỡ một ngôi nhà kiểu nhỏ.
Bên trên vành mắt giữa xương lông mày và xương hàm trải dài mấy cái gai xương dài ngắn khác nhau và cũng đều đã bị bẻ gãy gần hết, Kalinger có thể suy đoán ra hình thù nguyên bản của chúng như thế nào khi quan sát các gốc xương còn lại.
Đây là hài cốt của một con rồng khổng lồ, một con rồng cổ xưa, nát bấy… chết từ rất lâu, rất rất lâu trước kia.
Nó là một bộ hài cốt rồng, nhưng không phải một con rồng đúng nghĩa.
Từ hốc mắt đen ngòm và điểm sáng đỏ lập lòe bên trong hốc mắt thì rõ ràng nó là một con golem hồi sinh.
Golem hồi sinh là sản phẩm của trường phái Necromancy, nó là một dạng máy móc nhưng cũng thuộc về sinh vật bất tử bậc cao.
Không giống loại golem kim loại hay golem đất và đá đơn giản, loại golem tạo nên từ xác chết này đòi hỏi một linh hồn làm lõi và thường có đủ trí tuệ để giao tiếp với con người.
– Trường phái Necromancy (gọi hồn bói toán) là việc thực hành các loại phép thuật có liên quan đến thế giới chết, triệu hồi linh hồn vì mục đích liên hệ, tìm hiểu hoặc bói toán.
Kalinger bước vài bước đến bên cạnh bộ hài cốt nằm trong bể máu.
Đứng trước cái xác khổng lồ này, anh biết, nó có ý thức riêng, có khả năng giao tiếp với con người, có năm giác quan và cả ký ức.
Phần cổ của bộ xương rồng đã không còn bộ phận phát âm nữa, nhưng lại có tiếng gầm gừ đầy hăm dọa phát ra từ mồm nó.
Kalinger không lùi ra mà nhẹ nhàng đặt tay lên cái xương chân trắng bợt của nó.
“Ngài Sương à,” – Kalinger nhìn đôi mắt lập lòe đỏ thuộc về bộ xương rồng, “Đừng giận nhé, dù sao cũng đâu phải lần đầu tiên tôi đột nhập vào tháp.”
Con rồng xương vẫn chỉ thể phát ra những âm thanh grừ grừ nhỏ tí xíu từ cổ họng, còn tiếng của tinh linh Sương thì truyền đến từ một nơi nào đó xa xăm hơn, “Ngài thật… tại sao ngài lại quay về đây?”
Phía sau “Ngài thật” đáng lẽ còn một danh từ nữa, cái từ mà Sương có thể viết ra mà chẳng thể thốt thành lời, Kalinger lặng thinh bổ sung phiên bản hoàn chỉnh giúp cậu ta.
“Thảo nào…” – Kalinger thì thầm, “Lần đầu tiên gặp ngài trong rừng, tôi đã lờ mờ cảm thấy Sương chả giống tên của một tinh linh chút nào.
Khu rừng phía tây nam và đảo Yol đều không có tuyết, và cơ bản thì tinh linh đều sinh sống ở những nơi ấm áp, chẳng có tinh linh nào đặt tên theo sương giá cả.”
“Chúng ta đã bàn bạc rồi, ngài sẽ biết trong tương lai.
Vì sao ngài quay lại đây, vì sao ngài phải biết trước…”
Nếu tập trung nghe ngóng sẽ nhận ra tiếng của “Sương” phát ra từ bên dưới.
Kalinger nghĩ về con đường mòn anh đã đi qua và bức tường tinh thể nối với con đường ấy.
Từ vị trí âm thanh, anh đoán rằng cơ thể tinh linh đang ngồi bên dưới tinh thể và dựa vào bức tường tinh thể như lần trước.
Kalinger trả lời, “Nếu tôi đi tìm Liên đoàn OFFA thật thì chắc khi tôi đưa được người trở lại đây đã chẳng thể gặp được ngài nữa, đúng chứ? Khi đó sẽ có một pháp sư giàu kinh nghiệm điều tra tháp Trụy Nguyệt và đoán được mọi thứ diễn ra ở đây, họ sẽ nói với tôi rằng đã từng có một pháp sư nghiên cứu về thuật triệu hồn và Dị giới ở đây, và những sai lầm tai hại của ông ta không chỉ khiến ông ta mất mạng mà còn gần như gây ra một thảm họa.
Nhưng may mắn là ông ta đã đề phòng cho tình huồng tồi tệ đó trước khi thực hiện thí nghiệm nguy hiểm nhất bằng cách chuẩn bị một con golem xương rồng.
Golem xương rồng vừa là sản phẩm vừa là trợ lý của pháp sư, thậm chí còn là một công cụ mà ông ta sử dụng để bù đắp vào lỗi lầm của mình… tôi nói vậy đúng chứ ngài Sương.”
“Vâng,” – giọng nói của Sương tiếp tục phát ra bên dưới mặt tinh thể khổng lồ, “Thầy tạo ra tôi là để đối phó với hình huống ngày hôm nay.”
Kalinger nói, “Rồng quả là một cám dỗ khôn cưỡng với sinh vật Vực sâu.
Nuốt chửng một con rồng sẽ lấp đầy sức mạnh của ác ma, nên chỉ cần ngửi mùi hương trên vết thương của rồng thôi cũng đủ khiến chúng phát cuồng.”
“Tuy nhiên, nếu không kiềm chế và ăn quá nhiều thì ác ma sẽ chết vì chính điều đó.
Đối với ác ma, máu thịt và linh hồn của rồng giống thuốc hơn là món ăn.
Ngài đã đọc rất nhiều hẳn cũng biết rằng có những loại thuốc như thế tồn tại trong xã hội loài người, khi ăn với số lượng cực nhỏ có thể hỗ trợ cải thiện sức tập trung hay thậm chí cả thế lực, nó mang đến cảm giác khoái lạc cho con người, thế nhưng nếu cứ ăn mãi ăn mãi thì họ có thể nghiện, và nếu họ quên điều đó mà cứ sử dụng nó trường kỳ thì cuối cùng người chết chính là họ.”
Giọng nói của Sương vẫn như trước, “Ngài nói đúng, ngài biết thật nhiều.”
“Tuy rằng ngài chỉ là golem, nhưng suy cho cùng thì ngài vẫn được tạo ra từ xương rồng nên chỉ cần thêm một vài phép thuật thích hợp là có thể thu hút lũ sinh vật Vực sâu, gợi lên ham muốn thèm ăn và khiến chúng mất lý trí.”
“Vâng, đúng là vậy.
Ngay cả bầy nguyên tố Vực sâu cũng bị thu hút… thu hút bởi cơ thể này.”
“Tôi chỉ tò mò chút thôi, vì sao không để nó ăn luôn ngài?” – Kalinger vuốt ve chân trước của con rồng xương, “Sau khi thí nghiệm xảy ra vấn đề, vì sao ngài không để nó nuốt chửng ngài, như thế thì ngài sẽ được đi cùng người thầy của mình và tiện thể đầu độc chết bầy nguyên tố ấy.
Vì sao phải để nó gặm nhấm dai dẳng như vậy? Ngài không đau ư?”
Sương đáp, “Vì tôi cần thời gian.”
“Để làm gì?”
“Kiểm tra mức độ rò rỉ của nguyên tố Dị giới, kiểm tra tình trạng của các cá thể bị lây nhiễm trên ngọn núi này… Nếu tôi bị ăn quá nhanh, có thể tôi sẽ để lại một số thiếu sót mà sau này không thể khắc phục.
Thầy Tịnh Hồ đã lường trước mọi thứ và để lại thi thể của thầy cho tôi, tôi có thể dịch chuyển một phần linh hồn sang cơ thể của ông ấy để có thể rời khỏi tháp Trụy Nguyệt và giải quyết hậu quả.”
“Đó là mệnh lệnh của thầy ngài ư?”
“Đó là lời nhờ cậy của thầy, không phải mệnh lệnh.
Cũng là mong muốn của riêng tôi.”
Kalinger bèn hỏi.
“Vì sao? Vì con người và vùng đất ở đây ư? Có đáng không?”
“Không.”
Câu trả lời ngoài dự đoán của tinh linh làm anh từ một kẻ luôn mau mồm bỗng thừ ra không biết đáp lại thế nào.
Sương ngừng lại và tiếp tục, “Đáng hay không và tôi có mong muốn hay không, đó là hai chuyện khác nhau.”
Kalinger cúi đầu nhìn bể máu, anh trầm ngâm tư lự.
“Những thứ này,” – anh ra hiệu xung quanh ý chỉ tinh thể khổng lồ và bể máu, “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bị gián đoạn.”
“Bầy nguyên tố sẽ phá tan tinh thể giam cầm chúng và hoàn toàn thoát khỏi xiềng xích.”
Kalinger gật đầu.
Như Sương đã nói trước đấy, bầy nguyên tố này đến từ sâu bên dưới lòng đất, là tập hợp của một lượng lớn xác chết ác ma trên chiến trường cổ đại, nó rất mạnh và sức mạnh ấy tương đương với chúa quỷ đến từ Vực sâu.
Một con quái vật như vậy vốn đã rất khó kiểm soát, giờ thì nó còn nhấm nháp xương rồng mỗi ngày, ăn loại “thuốc” giúp nó ngày một khủng khiếp hơn… dù sau cùng loại thuốc này sẽ đầu độc nó nhưng trước khi chết chắc chắn sẽ có một khoảnh khắc sức mạnh của nó đạt tới đỉnh điểm.
Một khi vùng thoát, nó sẽ lây nhiễm cho cả vùng đất và sinh vật xung quanh trong lúc phát cuồng.
Điều này tồi tệ hơn rất nhiều so với một con chúa quỷ thực sự, ít nhất thì một chúa quỷ sống sẽ không lây nhiễm.
Kalinger lội mấy bước đi về phía trước đầu của bộ xương rồng.
Anh đứng một bên, đối diện với điểm sáng đỏ trong hốc mắt đen kịt.
“Ngài Sương này, tôi có một cách,” – anh thì thầm thật nhẹ nhàng, “Với cách này, chúng ta có thể tiêu diệt bầy nguyên tố mà ngài cũng không phải chết.
Thế nào, ngài hợp tác chứ?”
“Không hợp tác.
Những gì ngài nói là không thể.”
Kalinger mỉm cười, “Ngài còn chưa nghe chi tiết mà sao biết là không thể chứ? Dù ngài là một con golem hồi sinh, nhưng ngài cũng là một pháp sư đọc rất nhiều sách.
Nào, giờ thì để tôi kiểm tra ngài mấy câu nhé.”
Điểm đỏ trong hốc mắt xương rồng lập lòe sáng.
Kalinger hỏi, “Con người gặp bầy nguyên tố Vực sâu sẽ bị lây nhiễm và trở thành sinh vật Vực sâu, vậy thì điều gì sẽ xảy ra nếu ác ma gặp phải bầy nguyên tố này?”
“Lũ ác ma cấp thấp sẽ sợ bị nuốt chửng và tiêu hóa, còn những con mạnh hơn… sẽ thử thôn tính để tăng cường sức mạnh bản thân.”
“Bingo,” – Kalinger tiếp tục hỏi, “Mấy kiến thức này có phổ biến trong sách của con người lắm không?”
“Không nhiều lắm.
Nghiên cứu về Dị giới từ lâu đã bị liệt vào điều cấm kỵ, nghiên cứu về triệu hồn cũng thế.”
“Ngoài những kẻ nổi loạn nghiên cứu về Dị giới giống Tịnh Hồ, không nhiều người biết điều này, phải không nào?”
“Đúng là vậy.”
“Thế ngoài bộ phận pháp sư thì còn những sinh vật nào khác biết về ác ma nữa? Không phải biết qua lời đồn hay sách truyện mà thực sự hiểu biết về chúng ấy.”
Sương trả lời bằng giọng vui vẻ, “Cần phải hỏi ư? Đương nhiên là chính lũ ác ma rồi.”
Kalinger không hỏi nữa.
Anh chỉ đứng trước hốc mắt con rồng xương, khuôn mặt cười vui vẻ, nhìn ánh sáng đỏ lay động.
Cơ thể con rồng xương tạo ra tiếng cọ xát nho nhỏ.
Nó di chuyển chiếc chân trước bị gãy, vùng vẫy để đỡ phần thân trên, và nhìn xuống Kalinger đang đứng trong vũng máu.
Máu gợn thành từng đợt sóng nhỏ xíu lăn tăn do chuyển bộ của bộ xương rồng, và khi chúng đã yên ả, có hai cái bóng phản chiếu trên mặt nước đỏ ngầu.
Một cái là bộ xương gồ ghề lởm chởm trắng nhởn, cái còn lại thuộc về con quái vật khổng lồ.
Chúng gần như to bằng nhau, chỉ khác là sau lưng của quái vật có thêm một đôi cánh, được gập lại gọn gàng và xếp chồng trên lưng con quái vật.
Kalinger ngẩng đầu lên và nhìn chằm chằm vào hộp sọ của con rồng xương, cũng trong chính chớp mắt ấy, trong bóng nước, đôi cánh của con quái vật khổng lồ xòe ra và sải rộng ra hai phía.
Đôi cánh được trải ra hoàn toàn, và lớn đến độ che kín cả bể máu.
Giữa những cái khung xương đen tuyền là khoảng không, và có màu sắc thuộc về ánh lửa rực rỡ sục sôi bên trong khoảng không ấy..