Charlie Bone lúc nửa đêm (Tập 1)

Chiến tranh bùng nổ
Nếu Charlie đi cùng Benjamin đến nhà số 12, thì những gì xảy ra đêm hôm đó có lẽ đã được ngăn lại. Nhưng ai có thể nói chắc được? Nói gì đi nữa thì dòng họ nhà Yewbeam vẫn là một dòng họ đầy uy quyền.
Khi Benjamin và con chó của nó bước lên những bậc cấp dẫn tới cửa trước, con Hạt Đậu bỗng tru lên với vẻ bất an, và Benjamin tự hỏi con người “dễ mến” mà ba mẹ đã thuê đến để trông nom nó kia có thể là ai.
Người và chó cùng nhau bước vô hành lang. Một cái túi đen điệu đàng đặt dưới chân cầu thang, nhưng không có vẻ gì là túi của một cô bảo mẫu cả.
“Xin chào!” Benjamin tần ngần gọi.
Có ai đó từ trong bếp đi ra. Đó là một người cao, trang phục toàn màu đen, tóc xám búi trên đầu và những hạt ngọc trai to tròn đeo lủng lẳng ở tai. Bà ta không mang ủng đỏ, nhưng Benjamin biết ngay đó là ai. Hay đúng hơn, nó biết ngay bà này có liên quan đến bà mang ủng đỏ.
“Bác là…?” nó không biết phải kết thúc câu hỏi như thế nào.
“Bác là người bảo mẫu của cháu, cháu à.” bà ta nói.
“Chứ bác không phải là…?”
“Phải. Bác là một trong những bà cô của Charlie. Như vậy càng làm cho mọi chuyện được thêm phần thoải mái dễ chịu hơn, đúng không? Cháu có thể gọi bác là Eustacia.”
“Cám ơn bác,” Benjamin nói, lo lắng. “Có thực là ba mẹ cháu đã yêu cầu bác đến đây không?”
“Tất nhiên rồi,” ba ta đáp, có vẻ hơi bực mình. “Chứ không thì sao mà ta lại ở đây?”
“Tại cháu thấy hơi lạ…” Benjamin nói.
Bà cô Eustacia tỉnh queo trước câu nói đó. “Tốt hơn hết là cháu nên vào ăn tối đi,” bà ta nhỏ nhẹ. “Bác đã nấu một chút súp nóng rất ngon.”
Benjamin theo bà ta vô bếp và kéo một chiếc ghế ra khỏi bàn. Hạt Đậu gừ một tiếng nhỏ và ngồi xuống bên cạnh Benjamin.
“Chó không được ở trong bếp,” bà cô Eustacia nhắc. Đoạn bà ta đổ một ít chất lỏng, dinh dính màu nâu đang bốc hơi vô một cái tô và để trước mặt Benjamin.
“Suỵt!” bà ta xùy con Hạt Đậu. “Ra ngoài!”
Con Hạt Đậu nhe răng ra, gầm gừ.
Bà Eustacia lùi lại một bước. “Một con chó mới kinh tởm làm sao!” bà ta quàu quạu… “Benjamin, đuổi nó ra khỏi bếp ngay lập tức.”
“Cháu không thể làm thế được,” Benjamin nói. “Nó thích ăn cùng lúc với cháu.”
“Ha!” bà Eustacia đùng đùng mở các tủ và tìm thấy một hộp thức ăn cho chó, bà ta xúc một ít vô cái tô có chữ “CHÓ” và đặt cái tô ra ngoài hành lang.
“Giờ thì,” bà ta ra lệnh, vừa vẩy một ngón tay vô mặt Hạt Đậu, “Ăn đi!” Bà ta chỉ cái tô.
Con chó đảo tròn mắt và nép sát vô người Benjamin.
Benjamin quyết định rằng mới gặp thì tốt nhất là tránh cãi vã với bà Eustacia, nên nó cúi xuống con Hạt Đậu và nói: “Hạt Đậu, ăn tối đi. Tao không sao đâu.”
Hạt Đậu gầm gừ và lúp cúp đi ra ngoài hành lang, rồi đứng đó ồn ào đánh chén tô thức ăn cho chó. Benjamin ước gì mình có thể ăn thực phẩm của chó. Món đó chắc chắn phải ngon hơn cái thứ súp nâu gớm ghiếc này mà bà cô Eustacia mới múc cho nó.
Khi cuối cùng đã xoay xở tống được hết món súp xuống họng, Benjamin bị hộ tống đến tận chân giường.
“Mai còn đi học,” bà Eustacia bảo. “Tối nay cháu nên ngủ sớm đi.”
“Bác sẽ ngủ ở đây à?” Benjamin hỏi.
“Đương nhiên.” Người phụ nữ trông cáu kỉnh trả lời. “Bác là bảo mẫu của cháu mà.”
Benjamin nhớ ra nó cần phải giả bộ như “Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly” vẫn còn trong nhà.
“Tối nay mày ngủ lại ở dưới này nhé,” nó bảo Hạt Đậu, rồi lấy cái ổ chó, đem ra đặt gần cửa tầng hầm.
Con Hạt Đậu có vẻ bối rối, nhưng rồi cũng vâng lời bước vô ổ của mình.
Benjamin chui vô giường, nhưng nó nằm thức thao láo, chờ cho bà Eustacia lên lầu. Cuối cùng, khi đã chắc rằng bà đã lên giường, nó rón rén đi xuống chỗ điện thoại trong hành lang và quay số của Charlie.
“A lô,” tiếng ngoại Maisie vui vẻ cất lên.
“Đây là…” Benjamin không dám nói gì thêm vì có một bóng đen đã xuất hiện ở trên đầu cầu thang.
“Cháu nghĩ là cháu đang làm gì vậy, hả?” bà Eustacia hỏi lớn.
Bên kia đầu dây, giọng ngoại Maisie vẫn dồn dập, “Alô! Alô! Ai đó?”
“Bỏ điện thoại xuống,” bà Eustacia ra lệnh.
“Cháu chỉ muốn gọi cho bạn cháu thôi mà,” Benjamin giải thích. Đúng lúc này con Hạt Đậu bắt đầu sủa vang.
“Gần nửa đêm rồi,” bà Eustacia quát. “Về giường mau!”
“Dạ,” Benjamin đau khổ trả lời. Nó đặt điện thoại vào chỗ cũ rồi lê bước lên giường.
Vào sáng thứ Hai, Charlie phải rời nhà thật sớm. Chiếc xe buýt màu xanh của Học viện dừng ở đầu đường Filbert, chính xác vào lúc 7 giờ 45 phút, sau đó nó phải mất thêm một tiếng nữa để đón các học sinh khoa nhạc từ khắp nơi trong thành phố.
Vậy nên Charlie không gặp được Benjamin trước khi rời khỏi nhà, và chỉ nghe láng máng lời ngoại Maisie nói với theo, “Đêm qua Benjamin có gọi đến đấy. Bà nghĩ là Benjamin, vì bà nghe có tiếng chó sủa.”
Phải đến khi ngối trên xe buýt rồi thì Charlie mới nhớ lời ngoại Maisie, và nó tự hỏi không biết Benjamin muốn nói gì với nó đêm qua.
Nó tình cờ gặp Fidelio khi cả bọn đang chen chúc đi vô cổng Học viện. Chúng hẹn gặp nhau vào giờ ra chơi và sẽ nói chuyện với Olivia Vertigo.
Giờ thì Charlie không còn ngỡ ngàng như một nam sinh mới toe nữa. Hôm nay nó biết chính xác phải đi đâu và làm cách nào tìm ra các vật dụng. Buổi học nhạc với thầy Paltry- Kèn Sáo không được suôn sẻ cho lắm, nhưng nó cố gắng tránh bị phạt cấm túc, và thực ra thì nó đã gắng cư xử cho đúng đắn trong tiết tiếng Anh.
Đến giờ giải lao, trong khu vườn mênh mông đầy sương mù, Charlie và Fidelio bí mật quan sát Olivia đang tán gẫu với một nhóm con gái, trông đứa nào cũng thật kinh dị. Chúng bôi mặt trắng toát, mang ủng cao lênh khênh trông hết sức nguy hiểm, và cả bọn đều để tóc hoặc được tẩy trắng, hoặc được nhuộm màu. Hôm nay tóc Olivia có màu chàm.
Charlie ngoắc tay ra hiệu cho Olivia, cô nàng liền băng băng bước qua bãi cỏ trong đôi ủng khổng lồ, đế dày cui và mũi bọc kim loại.
“Mình cá là Manfred sẽ bắt bồ cởi đôi giày đó ra,” Charlie lưu ý Olivia.
“Tớ sẽ cố tránh đường hắn,” Olivia bảo. “Thế, có gì mới không?”
“Đi dạo đi,” Fidelio đề nghị. “Để người ngoài khỏi nghĩ là tụi mình đang bày mưu tính kế.”
Với Olivia khật khưỡng đi ở giữa, hai thằng con trai lần lượt thuật lại những gì đã xảy ra trong dịp cuối tuần qua.
Olivia rất háo hức. “Mấy người cần tớ đem Emilia tới Mái Ấm Gia Đình Gunn chứ gì?” cô bé hỏi. “Con ấy sẽ không bao giờ chịu đi với một trong hai ấy đâu.”
“Đúng vậy!” Charlie nói.
Nó đã để ý thấy Billy Raven lẽo đẽo đi theo chúng ở phía sau, và tự hỏi không biết có nên nói cho thằng bé bạch tạng ấy biết những gì đang xảy ra hay không. Nhưng nó quyết định không nói. Bởi vì bây giờ, càng ít người biết bí mật của chúng càng tốt. Cuối tuần này Billy sẽ về nhà cùng với nó. Lúc đó cu cậu sẽ hiểu ra thôi.
Olivia đồng ý dành cả tuần còn lại để kết bạn với Emilia, như thế nó có thể đến nhà Emilia vào cuối tuần.
“Sẽ không dễ đâu,” Olivia nói. “Bởi vì Emilia có vẻ hơi xa cách, mọi người biết ý tớ muốn nói gì rồi đấy. Nhưng tớ cho là nếu đã bị thôi miên thì chắc chắn sẽ thành như thế.”
Nói rồi Olivia sải bước đi luôn, chỉ vẫy tay chào một cái, để có thể dành nốt hai phút cuối giờ giải lao với đám bạn gái “kinh dị” của mình.
Mãi đến khi vô căng tin Charlie mới gặp Gabriel Silk. Cậu ta phóng ào tới chiếc bàn Charlie đang ngồi cùng Fidelio, làm đổ cả nửa li nước vô đĩa khoai tây chiên.
“Xin chào!” cậu ta hớn hở. “ Mọi việc ổn cả chứ? Có cần tôi giúp gì không?”
“Bây giờ thì không, cảm ơn anh,” Charlie trả lời.
Garbiel trông có vẻ hân hoan khác thường. Rõ ràng là cậu ta đang mặc toàn đồ mới hoặc đồ đem-lại-cảm-giác-hạnh-phúc. Charlie nhận ra Gabriel có thể là một người bạn hữu ích để kéo về phe mình. Nó đã bắt đầu nghĩ đến việc người nào về phe nó, người nào chống lại nó. Và tự hỏi, tại sao lại phải thế nhỉ?
Mãi đến giờ ăn tối nó mới thấy Manfred, nhưng thật vô cùng nhẹ nhõm cho nó, thằng già này chẳng đếm xỉa gì đến nó cả. Tuy nhiên, Asa vẫn phóng những cái nhìn ranh ma qua chiếc bàn dài. Bữa tối này giống y hệt như bữa tối của thứ Hai tuần trước: xúp, trứng và khoai tây chiên, và một trái lê.
“Lúc nào cũng y vậy,” Fidelio ngao ngán.
“Ngày mai sẽ là xúp, xúc xích với khoai tây, bắp cải và một trái táo.”
Charlie ước gì nó có thể đổi tài nghe thấy tiếng nói của mình thành tài biến thức ăn dở thành thức ăn ngon. Nó nhắm mắt lại và giả bộ như có thể làm được. Nó nhận ra món trứng tráng mỏng nguội lạnh đúng là có ngon hơn.
Vì bây giờ đã biết đường đến phòng Nhà Vua nên nó nhận ra mình là người đầu tiên có mặt trong phòng. Hay gần như là vậy. Zelda và Beth đang chơi trò gì đó. Chúng không để ý đến Charlie. Zelda có nước da đen và trông cộc cằn; Beth to con và lực lưỡng với mái tóc xoăn nhạt màu. Chúng đang nhìn nhau trừng trừng ở hai đầu bàn. Ở giữa bàn, một cái hộp gỗ đựng bút chì đang di chuyển, lúc thì về hướng này, sau lại về hướng kia.
Charlie ngồi xen vô khoảng trống rộng rãi giữa hai đứa kia và ném tập vở cái “phịch” xuống bàn.
“Shhh!” Zelda suỵt.
Hộp bút chì vọt về phía con bé.
“Xin lỗi,” Charlie nói.
Hộp bút chì bay lơ lửng và rồi di chuyển về phía Berth. Con nhỏ gầm gừ, chằm chằm nhìn cái hộp, khiến nó quay về phía Zelda. Charlie nhận ra cả hai đều được có phép thuật giống hệt nhau: điều khiển đồ vật bằng ý nghĩ.
Bọn trẻ khác bắt đầu lục tục bước vô phòng, phá vỡ sự tập trung của hai đứa con gái. Tancred và Lysander cùng vô một lúc. Hôm nay Tancred cười tươi roi rói với Charlie. Tóc anh ta trông như càng bị nhiễm điện tợn, và Charlie nhận thấy mái tóc Tancred kêu lắc rắc khi Tancred cố vuốt nó xuống.
“Khỏe không, Charlie Bone?” Lysander hỏi nó với nụ cười xởi lởi.
“Mình khỏe, cám ơn,” Charlie mỉm cười đáp lễ.
“Câm mồm!” Zelda nổi cáu khi hộp bút chì nhảy tót sang một bên, phóng vèo lên không trung rồi lộn phập xuống sàn nhà.
“Cái trò điên rồ,” Lysander nhận xét.
“Đó không phải trò chơi!” Zelda quặc lại, trong khi nhặt hộp bút chì lên.
Charlie đã xoay được một chỗ ngồi cùng bên bàn với Manfred, cho nên nó sẽ không phải lo lắng gì nữa về cái nhìn chòng chọc khủng khiếp của Manfred. Ngồi từ đây, nó có thể quan sát Vua Đỏ tốt hơn nhiều, và trong giờ học nó nhận ra mình nhiều lần cứ ngó chăm chăm vô khuôn mặt tối, bí hiểm ấy. Việc này có một tác dụng lạ kì: làm lòng nó dịu xuống, và bài tập về nhà dường như trở nên dễ hơn nhiều so với bình thường. Và đúng vậy, nó đã làm xong đống bài tập trước khi chuông reng.
Fidelio và Charlie đã nhất trí với nhau là không được nói, dù chỉ thì thầm, bất cứ điều gì về Mười Hai Tiếng Chuông Của Tolly trong phòng ngủ chung. Billy cứ nhìn theo Charlie một cách lộ liễu, và ngay trước khi đèn tắt, nó đến đứng cuối giường của Charlie.
“Cuối tuần này em đến nhà anh vẫn được chứ?” Billy hỏi.
“Tất nhiên,” Charlie bảo. “Mẹ anh nói được mà.”
“Và… và anh sẽ làm gì đó với Emilia Moon phải không?” Giọng Billy nghe có vẻ hơi run run.
Charlie đáp: “Anh chưa biết.” Nó thấy có gì đó không ổn ở Billy.
Billy lần vội về giường khi tiếng “Tắt đèn” gầm lên. Một bàn tay hộ pháp vòng qua cánh cửa và nhấn công tắc đèn. Charlie tưởng tượng bà cô Lucretia đang rình rập dọc theo các hành lang, nghe ngóng ngoài các cánh cửa. Cuối cùng, trước khi chìm vô giấc ngủ, nó bỗng nhớ đến lời nói của ngoại Maisie, “Đêm qua Benjamin có gọi đến đấy. Bà nghĩ đó là Benjamin vì bà nghe có tiếng chó sủa.”
Tại sao Benjamin lại gọi vào giờ trễ như vậy, và tại sao nó không nói gì hết? Va tại sao con Hạt Đậu lại sủa? Charlie ngủ thiếp đi trước khi có thể suy đoán ra mọi chuyện.
Benjamin chẳng hề ngủ được. Nó sẽ có một ngày cực kì không thoải mái đây. Trời lạnh và gió lồng lộng, và trong khi đi bộ từ trường về nhà, nó hình dung ra tất cả những món khoái khẩu, nóng sốt mà nó có thể nấu cho nó và Hạt Đậu: xúc xích, khoai tây chiên, phô mai hơ nóng, thịt gà viên, và chuối nướng vỉ. “Tuyệt! Tuyệt!” Benjamin tự nói với mình. Nó tạm quên bà Eustacia Yewbeam đi.
Nhưng bà ta kia kìa, đang đập xoong chảo rầm rầm trong nhà bếp của Benjamin, như thể đang chuẩn bị một bữa đại tiệc chứ không phải là một chén súp không ra gì. Khi Benjamin đòi ăn xúc xích, bà ta liếc nó một cái thật sắc và nói: “Để làm gì nào? Bây giờ không phải là Giáng sinh.”
Hạt Đậu phóng ra khỏi ổ, sủa mừng rỡ và liếm khắp người Benjamin: mặt, hai bàn tay, tai và cổ.
“Cả ngày nay con chó đó không cục cựa gì cả,” bà Eustacia càu nhàu. “Muốn cất cây chổi vô cái tủ tường cũng không được.”
“Nó là một con chó tuyệt vời mà.” Benjamin kiêu hãnh nói. Sau đó, nó phải cay đắng mà hối tiếc về những lời này.
Tối đó, nó nghe thấy tiếng chân bà Yewbeam đi rảo khắp các phòng. Bà ta đang làm gì nhỉ? Bà ta có nguyên một ngày để lục lọi rồi kia mà. Nó có cảm giác mơ hồ là có một người nữa đang ở trong nhà. Cuối cùng, Benjamin nhắm mắt lại và chìm trong giấc ngủ khó nhọc.
Một hỗn hợp âm thanh kinh khủng, với những tiếng tru, tiếng rú, và rên rỉ dựng Benjamin dậy. Nó nhảy ra khỏi giường và chạy tới đầu cầu thang.
“Hạt Đậu?” nó gọi. “Phải mày không?”
Một tiếng gừ khẽ, rồi một hồi tru, sau đó là tiếng sủa inh tai đáp lời nó. Có cái gì đó đang tấn công con Hạt Đậu. Benjamin lao xuống lầu.
“Hạt Đậu! Hạt Đậu! Tao tới liền đây,” nó thét lên.
Có tiếng rú lên kinh hoàng, và cánh cửa mở toang một cái đánh “sầm”.
Benjamin chạy qua ngoài hành lang về phía cửa mở. Nó suýt đổ ập lên thân hình bất động của Hạt Đậu.
“Hạt Đậu!” Benjamin thét lên, quỳ xuống cạnh cái đầu bờm xờm của con chó.
Hạt Đậu rên lên một tiếng yếu ớt, buồn thảm, và Benjamin vuốt lên bộ lông thô ráp, nhận ra bộ lông phủ đầy một thứ gì đó nhơm nhớp.
Đèn ngoài hành lang bật sáng và bà phăm phăm đi xuống cầu thang. “Có chuyện gì đó?” bà ta hỏi.
“Con chó của cháu bị tấn công,” Benjamin la lên. “Người nó dính toàn máu.”
“Ta… ta… ghê quá!” Bà Yewbeam tuyên bố. “Chúng ta sẽ gọi bác sĩ thú y vào sáng mai.”
“Cháu không thể để nó như thế này được,” Benjamin cãi lại.
Nó chạy vô bếp và xông ra lại với một chén nước và một ít mảnh vải cũ. Bà Eustacia đứng nhìn trong khi Benjamin rửa sạch vết máu và bôi thuốc sát trùng cho Hạt Đậu. Vết thương của con chó giống như nững vết cắn to. Nhưng loài vật nào có thể đột nhập vô nhà? Và tại sao nó lại đột nhập vô đây?
Bà Eustacia giục Benjamin đi ngủ. Nhưng nó không chịu.
“Cháu sẽ ngủ ở dưới này với con Hạt Đậu,” nó nói. Nó lấy ra một cái mền và một cái gối rồi nằm suốt đêm bên cạnh con chó bị thương.
Trong ánh sáng lạnh lẽo của sáng thứ Ba, Hạt Đậu trông rất yếu. Benjamin nhất quyết không đến trường nữa.
“Hạt Đậu có thể sẽ chết lúc cháu vắng nhà,” nó khóc.
“Vớ vẩn,” bà Yewbeam cố sức kéo Benjamin lên phòng nó.
“Không! Không! Không!” nó gào lên.
Bà ta mang quần áo của nó xuống lầu và cố bắt nó thay quần áo. Nó chống cự và vùng vẫy. Bà ta tát tai, xô đẩy và kéo giật nó.
“Cứu tôi với!” Benjamin hét lên, cho dù nó không biết mình đang cầu cứu ai.
Và rồi nhớ lại những lời Charlie đã dặn, nó vọt ra cửa trước, nhảy xuống mấy bậc thang, vẫn mặc nguyên đồ ngủ, phóng qua đường đến nhà số 9, đấm vào cửa thình thình.
Cửa mở tung, Benjamin ngã dúi vào hành lang. Nó ngẩng lên thì nhận ra trước mắt là gương mặt quàu quạu của nội Bone.
“Mày đang làm trò gì thế hả, Benjamin Brown?” nội Bone hỏi.
“Con muốn gặp ông cậu Paton,” Benjamin vừa đáp vừa ráng gượng dậy. “Ông Paton Yewbeam ạ.”
“Ông ấy không rảnh cho mày gặp đâu,” nội Bone nói.
“Ông rảnh mà,” Benjamin nói rồi gọi toáng lên: “Ông cậu Paton ơi!”
“Suỵt!” nội Bone ra lệnh.
Mấy cánh cửa trên lầu đồng loạt mở ra, ngoại Maisie và mẹ Charlie từ trên đầu cầu thang nhìn xuống.
“Benjamin, chuyện gì đó con?” mẹ Charlie hỏi.
“Con chó của con bị tấn công. Con cần ông cậu Paton của Charlie,” Benjamin hét lên.
Khi hai người phụ nữ bắt đầu chạy xuống chỗ Benjamin, thì ông cậu Paton xuất hiện ở bậc thang trên cùng, khoác áo choàng nhung đỏ.
“Ai cần ta vậy?” ông hỏi.
“Con! Con ạ, ông Yewbeam ơi!” Benjamin rối rít. “Con chó của con bị thương. Nó chết mất. Ông làm ơn giúp con với được không?”
Ông cậu Paton lao ào xuống phóng ra cửa trước.
“Paton, cậu chưa thay quần áo chỉnh tề,” nội Bone nhắc theo.
“Vớ vẩn!” Ông cậu Paton nói.
“Mặt trời lên rồi,” ngoại Maisie lầm bầm.
“Đừng lo lắng về mặt trời,” ông cậu Paton nói. “Nhanh lên Benjamin.” Ông mở cửa trước và chạy xuống các bực cấp, với Benjamin chạy bên cạnh.
Xe cộ đã bắt đầu nhộn nhịp như thường lệ trên đường Filbert, hối hả lao về hướng trung tâm thành phố, nhưng ông cậu Paton không thèm chú ý. Chẳng thèm nhìn trái hay nhìn phải, ông băng thẳng qua nhà số 12. Những chiếc xe hơi rít lên rồi dừng phắt lại, các bác tài bóp còi inh ỏi và chửi rủa người đàn ông cao lớn mặc áo choàng đỏ, và thằng bé mặc pyjama sọc xanh.
Vừa bước vô căn nhà số 12 thì ông Paton chạm mặt ngay với bà chị của mình.
“A, ra là bà, Eustacia,” ông cậu Paton nói. “Lẽ ra tôi phải biết điều này.”
“Cậu nói vậy là có ý gì?” bà Eustacia lạnh lùng hỏi.
“Benjamin, ba mẹ mày đâu rồi?” Ông cậu Paton hỏi.
“Con nghĩ ba mẹ con đang ở Scotland tìm kiếm một người lau cửa sổ bị mất tích,” Benjamin đáp.
“Lát nữa chúng ta sẽ nói tới việc đó,” ông cậu Paton nói. “Bây giờ, con chó đâu?”
Benjamin dẫn ông cậu Paton qua hành lang tới cái ổ của Hạt Đậu. Con chó to nằm một đống trông thật thương tâm, cái mũi toạc của nó tì lên hai bàn chân trước. Mắt nó nhắm nghiền và gần như không thở nữa.
“Trời ơi,” ông cậu Paton thốt lên và cúi xuống con chó. “Một con vật to lớn man rợ đã tấn công con chó của mày, Benjamin à. Một con gì đó có hàm răng và móng vuốt khác thường.”
“Đó là lỗi của con,” Benjamin nức nở. “Con nói là nó bảo vệ tầng hầm. Nhưng con thật là ngu, thật ra đâu có gì trong ấy đâu.”
Nó ngừng lại, sực nhớ ra là bà Eustacia Yewbeam đang lảng vảng ở cửa trước, nhưng đã quá trễ.
“Làm thế nào mà con vật hoang đó vô đây được?” nó hỏi ông cậu Paton. “Ban đêm cửa khóa hết mà.”
“Có ai đó đã mở cửa cho nó vô,” ông cậu Paton vừa nói vừa liếc nhìn bà chị của mình. “Chúng ta phải đem con Hạt Đậu đến bác sĩ thú y,” ông nói với Benjamin. “Và phải thật nhanh lên. Ta thấy thời gian cho con chó đáng thương này có vẻ sắp hết rồi.”
Benjamin chợt nảy ra một ý. Nó nhớ ông Onimous đã nói ông có một phương cách đặc biệt đối với thú vật ra sao.
“Con biết một người sẽ tới đây,” nó nói. “Ông Onimous, người diệt chuột. Con có danh thiếp của ông ấy. Ông có những con mèo rất kì lạ, giống như những ngọn lửa vậy.” Benjamin đứng lên và chạy vô bếp.
“Ta đi đây,” bà Eustacia nói, đoạn bà ta vội dấn bước ra trước cửa, nhanh đến nỗi hai ông cháu hầu như không thấy bà ta lỉnh đi.
“Chuyện gì xảy ra vậy, ông cậu Paton?” Benjamin hỏi. “Sao ai lại đối xử với con Hạt Đậu như vậy? Mà tại sao mấy bà chị của ông lại xấu xa và giận dữ như vậy?”
“Chiến tranh bùng nổ rồi, Benjamin,” ông cậu Paton nói. “Có một việc đã âm ỉ từ lâu lắm rồi. Tính cho đến bây giờ thì họ mặc sức làm những gì họ muốn, nhưng họ đã đi quá xa, và một số người trong chúng ta sẽ không chịu đựng điều đó nữa.”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui