CÁI BÓNG TẤN CÔNG
“Bắt đầu rồi đấy” Ông cậu Paton nói.
“Bắt đầu cái gì ạ” Charlie hỏi.
Hai ông cháu đang ngồi bên bàn bếp. Một ngọn nến cháy ở giữa bàn và bên cạnh là tấm hình một người đàn ông đã bị ma thuật di dời để không ai có thể nhìn thấy mặt.
“Bá tước Harken Badlock đang giữ cái gương” Ông cậu Paton ảo não nhìn vào đốm lửa trên cây nến. “Ai mà biết trong đầu hắn đang rắp tâm suy nghĩ cái ủy quái gì để hại chúng ta cơ chứ”.
Với Charlie, xem ra cái tay bá tước này đã làm điều tệ hại nhất rồi. “Ông cậu Paton,ông có nghĩ là nếu bị quên lãng thì ta … ta đã chết một ít rồi không?”
“Charlie!” Ông cậu có vẻ sốc, gần như là giận dữ. “Ba của con không bị quên lãng và sẽ không bao giờ bị quên lãng. Anh ấy là bạn thân của biết bao nhiêu người.”
“Nhưng mẹ…” Charlie nói.“Nếu mẹ quên…”
“Mẹ con không quên, Charlie. Không quên đâu.” Ông cậu Paton bắt dầu đi xà quần quanh bếp. “Cô ấy bị bỏ bùa,t a cam đoan với con điều đó, nhưng chỉ là tạm thời thôi. Thể nào rồi chúng ta cũng tìm ra cách giải những thứ bùa ếm, tuy vào lúc này, thú thật ta không có ý kiến gì cả”.
“Con phải lấy lại Gương Thần của Amoret,” Charlie tuyên bố dứt khoát.
Ông cậu ngừng bước tới bước lui và nhìn nó “Một việc bất khả thi, Charlie, nhưng mà, đúng đấy, đó có thể là một sự khởi đầu.”
“Thôi để con đi và suy nghĩ về nó đây. Chúc ông cậu ngủ ngon,” Charlie chụp lấy tấm hình.
“Ngủ ngon nhé, Charlie. Và đừng để suy nghĩ làm con thức trắng đêm nghe chưa. Ngày mai còn đi học nữa. Ông cậu Paton thổi phụt ngọn nến và theo Charlie lên lầu.
Vừa vào phòng riêng là Charlie mở hết rèm ra và ngồi lên giường. Những đám mây băng giá cuồn cuộn che lấp mặt trăng, nhưng vẫn đủ sức chiếu một tia sáng xuống bức tường. Charlie không cần phải chờ lâu mới nhận được thông điệp của Naren. Chắc hẳn cô bé đang nghĩ về nó.
Những hình thù mỏng mảnh như những con nhện chui qua bậu cửa sổ, tựa hồ chúng tuôn ra từ một cái gì đó. Chúng đổ dồn cả lên giường của Charlie rồi nhảy vù, uốn éo,nhảy nhót như điên. Thông điệp bắt đầu hình thành.
“Charlie, khi bà Meng vào thành phố, bà nghĩ có người theo dõi bà. Nếu bà bị nhìn thấy ở tiệm sách… thì cô chủ tiệm có thể bị nguy hiểm. Những quyển sổ nhật kí nói sự thật. Cái bóng… sẽ… không… thích vậy.”
“Anh sẽ cố gắng cảnh báo cô ấy” Charlie thì thào. Nhưng lúc đó trong đầu Charlie lẩn vẩn nhiều chuyện quan trọng hơn. “Naren,mẹ anh đã bắt đầu quên ba anh. Mẹ muốn quên ba. Anh phải làm gì đây?
“Tìm ông ấy,” những con chữ nhỏ vặn vẹo.
“Cái bóng đã đi vào một tấm hình và quay mặt ba anh đi,” Charlie nói với bức tường chữ. “Anh không thấy được mặt ba.”
“Tìm…” những từ đó dường như bị cản trở trên đường tới đích đến của mình. Chúng nhào lộn như trong một ống kính vạn hoa khổng lồ, mãi mới bung được từng từ ra khỏi vòng tròn. “… nhà vua…. em phải… đi… Cha nói nguy… hiểm… thông… điệp… bị bắt…”
Mất một lúc, không có từ nào hiện ra nữa. Charlie thì thào với những mẫu tự đang phai mờ, hối thúc chúng hợp thành từ, bất kể là từ gì khả dĩ cho nó biết Naren nghe được nó. Nhưng chỉ có một từ duy nhất hiện lên trước khi mặt trăng bị một đám mây đen bao phủ.
“Đi…” từ đó nói.
Charlie nằm vật ra giường, thoái chí và hoảng sợ. Phải chăng cái bóng đã thấy thông điệp của Naren? Hay hắn có thể cảm nhận được nó đang phóng qua không khí, kiểu như sóng radio? Vậy là hắn ở khắp nơi, kể cả trong đầu người ta?
Charlie đặt tấm hình lên bàn ngủ và chui vào giường. Trước khi nhắm mắt lại, nó thấy con bướm trắng đậu lên tấm hình; đôi cánh bạc hắt ánh sáng dịu lên người đàn ông không có mặt,như thể cố giữ cho ông còn sống.
Khi ngủ thiếp đi, Charlie mơ hồ cảm nhận thấy mình cần phải làm môt việc gì đó. Một việc rất quan trọng. Nhưng dù đó là việc gì thì nó cũng đã quá mệt để mà nhớ ra vào lúc này.
Cô Julia Ingledew đang làm việc khuya. Có quá nhiều sách phải tháo dỡ trước sáng thứ Hai. Lại thêm nhiều sổ sách kế toán phải hoàn tất và nhiều đầu sách phải đánh dấu. Vào lúc mười giờ cô mới xong việc và lên lầu đi ngủ. Cầu thang kêu cót két và cửa sổ lạch cạch dữ dội hơn thường lệ, nhưng cô chẳng để tâm đến chúng. Ngôi nhà đã xưa cũ lắm rồi, đã đến lúc phải sửa lại thanh xà lâu đời và ốp lại nhưng khung cửa sổ.
Khi cô Julia vào giường, tiếng lạch cạnh càng lớn hơn, mãi đến khi trở thành những tiếng đập sầm sầm liên tục. Cô nhận ra có ai đang rung lắc cánh cửa tiệm.
Choàng vội váy khoác vào, cô Julia chạy xuống cửa tiệm sách. Nhờ ánh đèn đường,cô có thể nhận ra hai bóng đen đứng bất động bên ngoài cửa sổ nhà mình. Bấu chặt lấy mép quầy, cô tê mụ người đi.
Và rồi một giọng vang lên. “Đưa ta những quyển sách.” Những lời đó không hơn tiếng thì thào, nhưng lại vươn đến tận linh hồn. Trầm đục,ám muội,khủng khiếp.
Cô lẩm bẩm, “sách nào?” nhưng dĩ nhiên, cô biết rõ những quyển hắn muốn là gì. Chồng nhật kí của ông Bartholomew đang nằm trên quầy; cô đã định mang chúng lên lầu với mình, nhưng rồi bận bịu quá nên đã quên bẵng. Vội thu gom chúng lại,cô lùi xa khỏi chỗ có ánh sáng.
“Những quyển sách dối trá.” Lần này tiếng nói chĩa vào cô. “Đưa những quyển sách dối trá đó cho ta.”
Ôm chồng nhật kí vào người chặt hơn nữa, cô Julia chạy qua phòng khách và bắt đầu lên cầu thang. Cái giọng khiếp đảm đó đuổi theo cô. “Đưa chúng cho ta.Đưa đây,đưa đây. Dối trá,dối trá,tất cả đều dối trá.”
“Chúng nói sự thật,” cô lẩm bẩm. “Và người đừng hòng có được chúng.”
Một tiếng rắc đinh tai, như thể cánh cửa đang bị giằng khỏi bản lề.
“Dì ơi,chuyện gì vậy?” Emma thất kinh hồn vía đứng ngoài cửa phòng nó.
“Chúng muốn lấy những quyển nhật ký,” cô Ingledew ấn bừa Emma trở vào phòng.
“Ở nguyên đó, con. Để dì kiếm cái di động của dì.” Cô đặt đống sổ nhật kí vào cánh tay của Emma và chạy đi lấy điện thoại; rồi vừa chạy trở lại với Emma, cô ấn 999, nhưng giọng nói ở đầu dây bên kia không làm cô an tâm.
Trước đó cảnh sát đã bị gọi đến khắp nơi trong thành phố. Chưa bao giờ có một đêm hỗn loạn như thế. Một vụ cúp điện gây ra năm tai nạn giao thông, chín vụ cướp và mười một vụ ẩu đả tại nơi công cộng. Rồi có người nghe thấy tiếng bước chân những căn phòng vắng chủ. Một số tầng hầm bị ngập lụt và ngọn lửa bùng phát trong các văn phòng hội đồng. “Vì vậy tôi không biết khi nào chúng tôi có thể đến được chỗ quý vị,” vị cảnh sát trực tổng đài nói với cô Ingledew. “Tôi đề nghị quý vị…”
Cô Julia đã quay số khác. Cô ngồi bên Emma trên giường của con bé khi giọng quen thuộc cất lên, “Chào em, Julia.”
“Paton, nhà em đang bị đột nhập. Nó… ừm… em nghĩ nó là…”
“Tai họa!” Giọng Ông cậu Paton kêu lên. Cô nghe thấy tiếng ông chạy xuống cầu thang với cái di động vẫn áp vào tai. Cánh cửa nhà số 9 đóng sầm lại. Tiếng bước chân chạy trên đường. “Giữ máy. Giữ máy, em yêu! Anh tới đây”
“Ôi,Paton.” Cô thét lên. “Nhanh lên, làm ơn. Chúng… ối, Paton. Em ngửi thấy mùi cháy.”
Đôi chân của Ông cậu Paton Yewbeam chắc chắn là dài nhất thành phố, thế nhưng trong cái đêm ấy, chúng ắt hẳn đã được nối dài thêm tấc rưỡi nữa. Tất cả những ai trông thấy ông chạy rầm rập trên đường đều thề rằng ông cao đến hai mét mốt. Và ông có màng đến việc làm nổ bóng đèn không? Không một chút xíu nào. Lần lượt từng cái một, chúng nổ tung thành hàng ngàn mảnh vụn khi ông chạy bên dưới.
Một chiếc xe cảnh sát, vừa trở về sau khi giải quyết một vụ cướp khác, lái xe ngang qua Ông cậu Paton khi bóng đèn thứ mười bể nát.
“Ông có thấy không?” Cảnh sát Singh, lái xe, quát. “Gã kia chọi bể bóng đèn.”
“Thấy chứ,” cảnh sát Wood xác nhận. “Tốt hơn là quẹo trái, nhanh nhanh lên. Kẻo tên điên đó phá hoại hết,”
Khi Ông cậu Paton lao vào quảng trường nhà thờ lớn, ông thấy lửa chồm lên cánh cửa tiệm sách Ingledew. Trước cửa tiệm có một cuộc vật lộn ác liệt đang diễn ra. Một trận đấu không cân sức thấy rõ. Ông cậu Paton chạy lại nhóm người đó và nhận ra Manfred Bloor. Đèn đường nổ phụt đúng lúc Manfred ngước mắt lên. Hắn rú lên một tiếng đau đớn và cút ra quảng trường, bưng lấy mặt.
Đối tượng kia không phải là mục tiêu dễ như vậy. Hắn đang quỳ gối đè lên nạn nhân của hắn, hai tay siết quanh cổ họng người này. Tấm áo choàng dài, có mũ trùm của hắn phủ kín cả hắn lẫn người đàn ông nằm dưới đất. Vì bóng đèn đường đã vỡ, tất cả những gì có thể thấy được trong bóng tối chỉ là một lùm tóc bạc óng ánh.
Cúi xuống gã đội mũ trùm, Ông cậu Paton giật mạnh hai vai hắn. Nhưng mảng xương mà ông túm vào cứng tựa sắt, và cố hết sức ông cũng không thể nào xê dịch được cú siết của gã đàn ông. Nạn nhân tóc bạc ú ớ phát ra những tiếng rên nghẹt thở khi nhưng ngón tay sắt tiêp tục chẹt sự sống ra khỏi ông này.
Ông cậu Paton quay ngoắt lại. “Xin lỗi, Julia.” Ông thì thầm, dòm trân trân vào những bóng đèn dìu dịu thắp bên trên những quyển sách trưng trong cửa sổ tiệm. Với một tiếng phụp, cửa kính chống vỡ tan thành từng mảnh và rớt xuống vỉa hè. “Tao cá là mày không làm được thế đâu, đồ thầy bùa kia,”ông thách thức khi đi vào và lấy quyển sách trưng bày nặng nhất của cô Ingledew.
Giơ quyển sách lên cao hết sức. Ông cậu Paton vận hết sức bình sinh và thả nó xuống đầu tên đội mũ trùm.
Một tiếng hự nghẹt ứ điên cuồng phụt ra khi người đàn ông nới lỏng cú siết và ngã vật sang một bên. Hắn bắt đầu quay dưới lớp sỏi của quảng trường, tự quấn mình vào áo choàng cho đến khi chỉ còn thấy hai con mắt sắc lạnh chĩa ra từ hình hài đen thù lù.
Ông cậu Paton đang do dự xem có nên truy đuổi com mồi của mình hay không thì tiếng còi xe cảnh sát đã rú lên. Phút sau, một chiếc xe cảnh sát hú gầm tiến vào quảng trường, và khi Ông cậu Paton tìm kiếm cái đống đội mũ trùm thì nó đã biến mất.
Hai cảnh sát ra khỏi xe, bay đến chỗ Ông cậu Paton, hét. “Đứng im! Ông đã bị bắt.”
Mở tung cánh cửa đang cháy âm ỉ, cô Julia Ingledew thét toáng lên. “Anh ấy đã cứu chúng tôi. Bọn vô lại tẩu thoát rồi.”
“Thế thì ai đây?” Cảnh sát Singh chỉ người đàn ông nằm dưới đất.
“Không biết,” Ông cậu Paton đáp.
“Theo những gì trông thấy thì ông định giết ông ta” cảnh sát Wood tóm lấy cánh tay Ông cậu Paton.
“Không phải,” cô Julia hét to. “Anh ấy đã cứu ông ấy.”
“Tôi thấy hình như cô lầm rồi, thưa cô,” cảnh sát Singh thở dài bực dọc. “Chúng tôi đã chứng kiến người đàn ông này,” anh ta chỉ Ông cậu Paton “làm bể một bóng đèn đường. Và còn ai đập bể cửa sổ đây, tôi muốn biết?”
“À. Tôi làm đấy,” Ông cậu Paton thú nhận.
“Ông?” Cảnh sát Singh nhíu mày. “Chờ chút. Cánh cửa này chống vỡ, chống đạn, không thể phá hủy. Thế mà nó lại tan thành trăm mảnh.”
“Thì thế đấy,” Ông cậu Paton hờ hững. “Nhưng tôi đã làm bể nó.”
“Và cứu tất cả chúng tôi,” cô Julia tiếp lời. “Tôi đã thấy tất cả. Ôi,Paton!” Cô quàng tay quanh cổ ông.
Ông cậu Paton mỉm cười bẽn lẽn, “À,ừ ừ.”
“Vậy những kẻ vô lại kia đâu rồi? Cảnh sát Singh ngờ vực.
“ Tôi đã bảo với ông là chúng chạy mất rồi,” cô Julia hét. “giờ thì các ông không thể bắt chúng được đâu. Nhưng các ông có thể ngăn cho cánh cửa đừng cháy rụi được chứ?”
“Xong rồi, dì ơi!” Emma hiện ra với xô nước và tạt mạnh vào cánh cửa.
“Giỏi lắm Emma. Cháu cứu ngày hôm nay đấy,” Ông cậu Paton khen.
Cảnh sát Singh định mở mồm thì một tiếng người từ dưới đất thốt lên, “Ối quỷ thần ơi, Paton Yewbeam”.
Ông cậu Paton nhìn kỹ người đàn ông dưới đất. “Barthomew?” Ông nói mà không tin
nổi.
“Việc chú thò cổ ra ngoài sao chẳng giống chú tí nào?” Ông Bartholomew rên rẩm khi Ông cậu Paton giúp ông đứng lên.
“Tôi thay đổi rồi,” Ông cậu Paton cọc cằn.
Hai viên cảnh sát bắt đầu hí hoáy ghi chép. Họ lấy số điện thoại và hỏi địa chỉ, nhưng ông Bartholomew Bloor từ chối cung cấp cho họ bất kì thông tin nào. Các vị cảnh sát quyết định vụ việc này không nghiêm trọng như mấy vụ khác xảy ra trong thành phố trong đêm đó, cho nên lái xe đi tiếp. Cảnh sát Singh thậm chí còn vẫy tay một cái thân thiện.
Bốn kẻ sống sót rút lui vào tiệm sách. Thật mừng cho cô Julia, cánh cửa gỗ sồi nặng trịch thoát khỏi ngọn lửa. Nó sứt sẹo,cháy sém và kêu cót két hơn, nhưng những chốt khóa và bản lề vẫn còn tốt.
“Cháu đi pha trà đây,” Emma đề nghị. Mái tóc dài vàng óng ả và chiếc váy đỏ của nó ướt sũng vì cú tạt nước quá hăng, nhưng mặt nó bừng lên phấn khích.
Ông Bartholodew từ chối nán lại thêm bất kỳ phút nào. “Tôi không bao giờ có ý định vào thành phố. Nhưng tôi cứ thấp thỏm không yên,” ông giải thích. Vợ tôi đã bị theo dõi; gián điệp của cái bóng có khắp nơi. Tôi biết hắn muốn chiếm những quyển nhật kí của tôi và tôi nhận ra mình đã đặt cô vào vòng nguy hiểm, thưa cô Ingledew.”
“Xin hãy nán lại chút thôi…” cô Julia ngỏ lời.
“Tôi phải đi đây,” ông Bartholodew khăng khăng. Những quyển nhật kí đâu rồi?”
“Để tôi đi lấy chúng,” cô Ingledew chạy lên lầu và Emma đi đặt ấm nước.
Còn lại hai người đàn ông, ông Bartholodew hỏi. “Điều gì làm chú thay đổi vậy, Paton? Chú vốn luôn ngờ nghệch mà.”
Ông cậu Paton nhăn mặt, “Vì thằng bé ,” ông nói ngắn gọn. “Tôi cần phải giúp nó.”
“À,Charlie,” ông Bartholomew cuối cùng cũng mỉm cười. “Tôi chưa thấy ai tốt và dũng cảm như cha nó. Chú là một người bạn tội nghiệp của anh ta, Paton à.”
“Chúng đây,” cô Ingeledew trở lại với chồng nhật ký. “Để tôi cho chúng vào một cái túi đựng sách nhé.”
“Tốt lắm,” ông Bartholomew nói. “Paton này, chú phải đưa chúng cho Charlie. Nói nó phải đưa chúng về quá khứ.”
“Cái gì?” Ông cậu Paton cầm lấy túi sách từ tay cô Julia và ngây người ra nhìn ông Bartholomew.
“Charlie là người duy nhất có thể đem chúng ra khỏi nguy cơ bị tiêu hủy,” giọng ông Bartholomew lạnh lùng và áp đặt. “Chú hiểu không? Nó có tài phép này. Bảo nó đem chúng đến nơi mà cái bóng không bao giờ tiếp cận được.”
“Nhưng ở đâu…?”
“Làm sao ta biết?” Ông Bartholodomew nói sẵng. “Chính nó phải quyết định. Charlie là đứa thông minh. Nó biết những quyển sổ nhật ký của ta nắm giữ một bí mật mà có thể giải cứu cha nó. Thôi chúc ngủ ngon.” Ông quay ra cửa.
“Khoan đã,” Ông cậu Paton nài. “Chúng ta không thể nói chuyện được sao? Đã lâu lắm rồi kể từ khi ông cứu đời tôi.”
“Thì chú vừa mới cứu ta đây thôi. Chẳng thay đổi được gì đâu, chúc cô ngủ ngon, cô Ingledew.” Ông Bartholomew gật đầu nhẹ và đi ra.
“Người gì mà lạ lùng,” cô Ingledew nhận xét. “Không thân thiện. Đi vào phòng sau đi, Paton, và uống chút trà rồi hẵng về.”
Ông cậu Paton lắc đầu. “Không, anh phải đi gấp. Tất cả là lỗi tại anh, Julia. Vào đêm thứ bảy, sau khi em về, anh đã để những quyển sổ nhật kí này trên bàn bếp. Chắc hẳn bà chị anh đã trông thấy chúng khi bà ta đi dạ tiệc về. Anh thật khờ hết sức.”
“Không phải. Anh làm sao biết chắc được.”
Ông cậu Paton mở cánh cửa nặng nề. “Chúc ngủ ngon, em yêu. Bảo trọng nhé.”
Trên quảng trường, chuông nhà thờ lớn bắt đầu điểm nửa đêm. Ông cậu Paton đóng cánh cửa tiệm sách lại và đứng im một thoáng nhìn trân vào quảng trường ngập ánh trăng – nơi này là nơi người bạn thân nhất của ông đã mất tích.
“Đúng rồi Lyell, anh bạn tội nghiệp của ta,” Ông cậu Paton lầm bầm. Ông sải bước trên những con hẻm trải sỏi, không hề hay biết hiểm họa chắc chắn sẽ đi theo những quyển sổ nhật kí mà ông đang cầm. Thậm chí ông còn không nhận ra cái lạnh thấu xương đang biến những giọt nước trong mắt ông thành pha lê.
Charlie tỉnh giấc thấy con bướm trắng đậu trên gối. Nó có cảm giác như con vật đó muốn cái gì đó. Ngái ngủ ngáp, Charlie ra khỏi giường và lết ra chiếu nghỉ. Căn nhà tối om nhưng nó có thể thấy một đốm sáng nhỏ hắt từ dưới khe cửa nhà bếp. Đó chỉ có thể là Ông cậu Paton. Phải người nào khác thì đã có thể bật đèn hành lang lên rồi.
Trong cái lạnh cắt da,Charlie quấn chặt áo khoác ngủ quanh mình trước khi xuống lầu. Nó thấy Ông cậu đang ngồi bên bàn với những quyển sổ nhật ký đặt trước mặt. Ngọn nến đơn độc đã cháy gần hết, nhưng Charlie vẫn thấy được gương mặt Ông Cậu lộ vẻ lo lắng mà Charlie chưa bao giờ thấy. Điều này khiến Charlie băn khoăn.
“Ông cậu Paton?”
Ông cậu nó ngước lên. “A, Charlie, ta vừa từ hiệu sách về. Một đêm thật là quái đản.”
“Con nghe xe cảnh sát hụ còi,” Charlie nói.
“Có kẻ đột nhập vào tiệm sách Ingledew. Chúng săn lùng những quyển nhật ký. Tụi ta nghĩ đó là cái bóng.”
“Ôi chết! Có ai bị thương không? Emma không sao chứ? Ông…?”
“Charlie,” Ông cậu Paton nghiêm giọng. “Ông Bartholomew đã tới đây. Ông ấy muốn con đem những quyển sổ nhật kí này vào quá khứ.”
“ Quá khứ?” Charlie không hiểu.
“Xin lỗi ta phải yêu cầu con làm thế vào lúc này. Con đã mệt mà trời lại khuya lắm rồi. Nhưng ông Bartholomew rất nóng ruột, và ta nghĩ là ông ấy đúng. Con có thể chu du vào hình vẽ, hình chụp, tranh ảnh. Con có nghĩ ra nơi nào mà những quyển sổ nhật kí có thể an toàn không? Nơi nào mà cái bóng không thể tìm thấy chúng?”
Charlie gãi đầu. “Có,” nó chậm rãi nói. “Con có thể đem chúng đến Skarpo.”
“Thầy pháp đó ư? Một cuộc hành trình nguy hiểm, Charlie à. Nhưng nếu có thể thuyết phục lão già đó canh chừng giúp chúng thì chắc chắn những quyển nhật ký sẽ an toàn.”