OLIVIA ĐỂ LỘ MÌNH
Charlie ôm chồng nhật kí theo Ông Cậu lên lầu. Cây nến Ông cậu Paton giơ lên cao lập lòe và tỏa khói trong khu vực cầu thang gió lùa, và Charlie phải đặt bàn chân cẩn thận để tránh bước hụt bậc thang.
Về tới phòng mình rồi, Charlie đặt chồng sách lên cái bàn cạnh giường và lôi một bức tranh nhỏ từ dưới giường ra.
“Ta nghĩ con sẽ cần ánh sáng cho tử tế, Charlie,” Ông cậu Paton thập thò nơi cửa.
Trong ánh sáng nhập nhoạng từ ngọn nến, Charlie gần như không thấy bức tranh. “Con bật đèn bên giường thì có lẽ tốt hơn,” nó đồng ý.
“ Vậy ta đi đây,” Ông cậu Paton bảo. “Nhưng mà Charlie, làm sao con trở lại được? Con có cần ta giúp gì không?”
Charlie lắc đầu. “Con sẽ mang nó đi cùng.” Nó hất đầu về phía con bướm trắng đậu trên giường. “Nó sẽ giúp con trở lại.Trước đây nó đã từng làm thế rồi, Ông cậu biết đấy.”
“Ra vậy. Hừm… chúc con may mắn,” Ông cậu Paton ngọ nguậy chân vẻ bất an rồi rút lui.
Charlie bật đèn lên và đóng cửa lại. Nó đặt bức tranh lên gối và lên giường ngồi cạnh. Trong cánh tay nó ôm mười quyển sách bọc da của ông Bartholomew.
Bức tranh nhỏ xíu này xưa đến hàng nhiều thế kỷ. Những đường nét mờ nhỏ xỉn, nứt nẻ, cùng niên đại của nó khoác thêm vẻ đe dọa cho một khung cảnh vốn đã hiểm ác. Hàng chú thích ghi “thầy pháp” ngoằn ngoèo màu đen ở cuối bức tranh. Và đứng đó, ông thầy pháp áo thụng đen trong căn buồng tựa xà lim của mình, với những hiệu ứng ma thuật rải khắp mặt bàn đằng sau lưng. Mái tóc đen và bộ râu quay nón đen của thầy pháp xen kẽ những sợi bạc và đôi mắt vàng sáng quắc. Đó là con mắt mà Charlie tập trung nhìn vào.
Trước đây Charlie đã thăm Skarpo vài lần rồi. Có dạo nó rất sợ lão già ấy, nhưng giờ thì không sợ nữa. Nó đã quen với cặp mắt hung dữ và giọng nói như tụng kinh trầm đặc của ông ta.
“Charlie Bone?”
Dẫu Charlie đã chủ ý đón chờ điều này, nhưng cái giọng đó vẫn khiến nó dựng tóc gáy và một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.Con bướm trắng đậu trên vai nó sẵn sàng cho cuộc hành trình phía trước.
Khi những đồ vật quen thuộc trong phòng dùa Charlie bắt đầu mờ đi, nó liền thấy một luồng sáng từ căn buồng ẩm thấp của ông thầy pháp, trộn lẫn với mùi hương thỏa mộc rang khét và sáp nến. Đầu nó bơi bơi và bàn chân nó bỗng nhẹ bẫng như không khí. Ôm thật chặt chồng sách, nó nhìn găm vào đôi mắt vàng rực cháy của Skarpo. Giờ thì nó có thể nghe thấy tiếng những lớp áo thụng của Skarpo kêu sột soạt, tiếng sắt va chạm và tiếng lửa lách tách. Charlie cảm giác mình ngã lộn tùng phèo qua nhiều thế kỷ, thân hình bị vùi dập như tờ giấy trước gió.
Khi bàn chân đã chạm xuống nền đá lạnh ngắt, nó mở bừng mắt ra. Ông thầy pháp đứng ngay trước mặt.
“Gì thế này? Ta thấy Charlie Bone trọn vẹn luôn,” Skarpo xoa xoa cái cằm râu rậm rạp. “Lúc trước thấy mỗi cái đầu mi thôi. Công lực của mi bây giờ mạnh lên rồi đấy.”
“Vậy ạ?” Charlie nhìn xuống cánh tay quặp chặt những quyển nhật ký của mình. “Ồ.”
“Mi mang quà cho ta hả?” Ông thầy pháp tia những quyển sách bọc da.
“Không hẳn vậy,” Charlie đáp. “Cháu đến để hỏi xin ngài một ân huệ.”
“À hả!” Ông thầy pháp xoa hai bàn tay xương xẩu lại với nhau. “Ta thích ân huệ lắm. Ý ta là ta có thể cũng xin mi một ân huệ.”
“Cháu nghĩ là được,” Charlie hồi hộp nói.
“Chúng ta hãy ngồi xuổng đã.” Vén tấm vải đỏ treo phía trên bàn lên, Skarpo rút ra hai chiếc ghế đẩu thô thiển bằng gỗ. Một cái ông ta đẩy về phía Charlie, cái kia ông ta đẩy ra sau lưng mình, loay hoay tém mớ áo thụng nặng nề qua một bên và ngồi xuống. “Mi định nói với ta những quyển sách đó à?”
Charlie đặt mười quyển sách vào cánh tay duỗi ra của ông thầy pháp, “Chúng là những quyển sổ nhật ký, thưa ngài. Những quyển sổ nhật ký này rất đặc biệt. Chúng do một người bà con xa của cháu viết, tên là Bartholomew Bloor. Ông ấy đã đi khắp thế gian, và bất cứ nơi đâu nghe được chuyện về Vua Đỏ, ông ấy đều ghi lại. Những quyển nhật ký này vô cùng quý giá vì trong đó có rất nhiều bí mật – những điều về Vua Đỏ mà chúng ta chưa biết bao giờ.”
“Nếu chúng quý giá thì tại sao mi lại mang chúng đến cho ta?” Skarpo khẽ cười cái khục. “Mi có tin cậy ta không, Charlie Bone?”
“Cháu buộc phải tin,” Charlie đáp. “Có một người... một vật... mà người ta gọi là cái bóng. Hắn ở trong bức chân dung của Vua Đỏ và hắn...”
“Cái bóng ?” Skarpo đứng phắt lên, đống áo thụng đen quất một làn gió băng giá qua đôi bàn chân mang dép lê của Charlie. “Khỏi nói thêm nữa. Ta biết cái bóng này. Giới thầy pháp cố tránh nói về hắn, bởi vì hắn làm ô danh giới pháp thuật bọn ta, mang tiếng lắm. Chỉ thì thầm lướt qua tên hắn thôi là anh em thầy pháp bọn ta đã xua tay phản đối rồi.”
“Ừm, cháu sẽ phải nói thêm chút xíu về hắn,” Charlie nói. “bởi vì hắn là lý do khiến cháu mang những quyển sổ nhật ký này đến cho ngài.”
“Ờ, thì vậy.” Skarpo quay lại và đặt những quyển sổ nhật ký thành hai chồng ngay ngắn lên bàn. “Nói coi.” Với tiếng áo thụng kêu phụt một cái, ông ta ngồi xuống.
Căn phòng giống như cái hang của ông thầy pháp là một nơi thích hợp vô cùng cho câu chuyện của Charlie. Nó kể cho Skarpo nghe những gì đã xảy ra kể từ đêm mưa tuyết, khi chim thú rời khỏi thành phố. Nó kể về ngoại Maisie bị đông cứng và chiếc nhẫn của mẹ nó, về cô Chrystal và Gương Thần của Amoret. Và, trong khi nó kể, năm ngọn nến trong những giá cắm nến cao bằng sắt thấp dần thấp dần, và chẳng bao lâu sau , ánh sáng duy nhất trong phòng dường như chỉ còn toả ra từ cặp mắt vàng của ông thầy pháp.
Khi Charlie đã nói xong tất cả những điều cần phải nói, Skarpo lại đứng lên và đi tới bên bàn. Ông ta thắp một cây nến to ở giữa bàn lên, và trong ánh sáng nhảy nhót của ngọn nến, ông ta bắt đầu lật lật từng quyển sách. Charlie nhìn Skarpo, trông chờ một lời nhận xét hay một lời khuyên gì đó, nhưng ông thầy pháp chẳng nói chẳng rằng, mãi cho đến khi mắt ông đã quét hết mọi trang sách. Khi đặt quyển sách cuối cùng lại chỗ cũ xong, Skarpo quay lại Charlie và nói, “Toàn chuyện hay đấy, cậu bé của ta. Những tiết lộ chấn động! Ta sẽ giữ chúng an toàn, nhưng câu thần chú, câu thần chú bằng tiếng xứ Gan ấy, mi phải mang nó trở về với mi. Để ta dịch ra cái đã, bởi vì ta biết tiếng xứ Gan, mi biết đấy, rồi mi sẽ cần tới nó.”
Charlie chờ, tự hỏi liệu đó có phải là câu thần chú mà ông Bartholomew đã nhắc tới không. Ông thầy pháp xé một mảnh giấy da dê từ một quyển sổ bằng da, và nhúng cây viết lông trông lạ mắt vào lọ mực, ông ta bắt đầu viết rột rột lên bề mặt tờ giấy da dê. Thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn vào một trong những quyển sổ nhật để mở trên bàn, gãi đầu, nhìn xa xăm, mỉm cười và rồi lại viết tiếp.
Khi hàng chữ cuối cùng đã viết xong, Skapo đặt cây viết lông xuống và nhìn Charlie với một nụ cười đắc thắng. “Một câu thần chú tuyệt vời,” ông ta tuyên bố.”Không phải của ta. Ồ không. Người bà con của ngươi chắc hẳn đã sưu tầm nó từ một trong những hậu duệ của Mathonwy, bạn ông Vua Đỏ của mi, dĩ nhiên rồi.” Ông ta lại vọt ra một tiếng cười kinh khùng khục đặc trưng. “Chính từ lão ta mà ta đánh cắp cây gậy phép của ngươi đấy, Charlie Bone. À, không phải đánh cắp, không… mà là lúc đó lão đã già khú khụ rồi, và chắc hẳn cũng không có ý để lại nó cho ta trước khi chết. Làm sao mà họ thích truyền tên tuổi của mình cho con cháu thế không biết, cái đám dân xứ Gan ấy.” Ông ta ngừng nói và nghiêng đầu. “Nhân nói đến cây gậy phép, thế nó đâu rồi?”
“Thật tình thì bây giờ nó là con bướm trắng,” Charlie nói.
“À, con bướm trắng kia.Ta thấy rồi.” Skarpo thò tay ra bắt con bướm trắng đang bay chập chờn giữa hai người.
“ ĐỪNG!” Charlie hét lên thất thanh. “Nó là của cháu!”
“Đùa thôi, Charlie Bone!Ta sẽ không làm đau con bướm xíu xiu của ngươi đâu.” Ông thầy pháp thổi tấm da dê cho khô rồi chìa ra, “Cầm lấy câu thần chú của ngươi rồi rời khỏi nơi đây. Nấn ná trong những thế giới xa xôi chẳng hay ho đâu.”
“Vâng, cháu đi đây.” Charlie hấp tấp, cầm lấy câu thần chú, “và xin cảm ơn ngài. Ngài sẽ giữ những quyển sổ nhật kí an toàn chứ ạ?”
“Ngươi nghi ngờ sao?” Ông thầy pháp gặc đầu qua bên và nở nụ cười vặn vẹo.
“Không. Không, dĩ nhiên là không ạ.” Charlie giơ bàn tay rảnh rỗi của nó và con bướm trắng đậu vào ngón tay nó. “Nó giúp cháu chu du,” Charlie giải thích.
Ông thầy pháp gật đầu, “Ờ.”
Trước khi Charlie rời đi, nó liếc qua ô cửa sổ nhỏ ở cuối căn buồng tối. Có thể thấy một khu rừng đen ngòm, viền quanh là một biển nước gờn gợn ánh trăng. Có lần, Charlie đã tình cờ viếng thăm khu rừng đó, và việc đó mãi in sâu trong tâm trí Charlie, một kí ức vừa làm nó hoang mang vừa vỗ về, an ủi nó. “Thưa ngài, Vua Đỏ đã từng sống ở gần đây phải không ạ?” Nó hỏi.
“Ậy, đúng thế,” Skapo trả lời, quay về phía cửa sổ. “Và khi nhà vua ra đi, Mathonwy thầy pháp đã đến sống ở đây. Ông thu nạp ta làm đệ tử khi ta còn rất nhỏ; một đứa trẻ mồ côi không nhà, dân tộc ta bị quân lính của nhà vua Anh tàn sát. Mathonwy là một thầy pháp vĩ đại và ông ấy đã dạy ta rất nhiều, nhưng ta không bao giờ giỏi được bằng ông ấy, ở bất cứ khía cạnh nào của cái từ ‘giỏi’ này.” Một bóng đen thoáng qua nét mặt của lão thầy pháp, một tí dấu hiệu hối hận vụt qua, nhưng rồi nụ cười ác độc lại quay về, và ông ta phẩy bàn tay xua Charlie, “Đi, đi đi nhóc. May mắn sẽ đi cùng với mi.”
“Tạm biệt ngài, và cảm ơn.” Charlie nhìn con bướm trắng và dịu dàng hỏi, “Chúng ta đi bây giờ chứ, Clearwen?”
Gương mặt của lão thầy pháp là cảnh cuối cùng Charlie thấy trước khi đám sương mù thời gian trôi đến giữa hai người và Charlie bắt đầu chu du trở về nhà. Đôi mắt vàng chóe của Skarpo trợn lớn kinh ngạc, bởi vì Charlie đã vừa nói tiếng xứ Gan. Những từ ngữ lạ hoắc đã tự nhiên mà đến với nó, tuy nhiên, nó biết rằng điều đó là do con bướm trắng. Claerwen – Tuyết Trắng.
Một lúc sau, Charlie đã ngồi trên giường, với con bướm trắng đậu trên tay. Charlie ngáp dài và hất văng đôi dép lê ra. Chưa bao giờ nó buồn ngủ đến thế. Vài tiếng nữa nó sẽ phải thức dậy và sắp xếp giỏ sách để chuẩn bị đến trường. Nhưng bây giờ thì chưa. Nó cất bức tranh xuống dưới giường, nằm ngửa ra gối và ngủ lịm đi.
Nó tỉnh dậy thì thấy Ông cậu đang lo âu nhìn nó từ khung cửa ra vào.
“Không đời nào ta lại gọi con dậy đi học,” Ông cậu Paton nói, “nhưng ta nghĩ ít nhất cũng nên nhắc chừng con về thời gian. Xem ra chưa có ai thức giấc cả.”
Khi Charlie lăn khỏi giường, một mảnh giấy cứng quèo, vàng vàng bay xuống đất. Nhăn mày, Ông cậu Paton bước vào phòng và nhặt nó lên. “Cái này là cái gì?”
“Con không biết,” Charlie nói, dụi mắt.
“Một bài thơ? Ồ không, còn hơn thế nữa, một… một loại như bùa chú.” Ông cậu Paton lật tờ giấy lại và nghiên cứu nét chữ xiên xiên to tướng. “Ối chu cha, ở đâu con có cái này đây, Charlie?”
“Ô, con quên mất. Skapo đưa con đấy ạ,” Charlie nói khi băng qua Ông cậu trên đường ra nhà tắm.
“Skarpo đưa à?” Ông cậu gọi với theo kinh ngạc. “Charlie, ta sẽ cất nó trong phòng ta. Đáng chú ý đấy. Nó có thể thay đổi mọi thứ.”
Charlie không để ý Ông cậu nói gì. Một lần nữa nó lại phải đánh răng trong khi Maisie nằm đông cứng trong bồn tắm bên cạnh. Hừm, bà ngoại, người duy nhất trong cả nhà có khả năng giữ mẹ nó an toàn khỏi bá tước Harken thì lại nằm đấy.
Đến lúc Charlie rửa mặt xong thì Ông cậu Paton đã biến về phòng ông, và tất cả những gì Charlie có thể nghe được là tiếng lẩm bẩm trầm đục tựa như tiếng nước ngoài.
Charlie mặc đồ chỉnh tề, sắp giỏ sách xong rồi xuống nhà bếp. Lò lạnh tanh và cái bàn trống trụi. Không một dấu tích nào chứng tỏ có ai đã ăn sáng ở đó. Mẹ đâu rồi? Đi ra ngoài hay đang ngủ? Charlie sợ tìm ra câu trả lời. Ngôi nhà phả ra mùi trống vắng lạnh lẽo, chìm trong giấc ngủ. Nó vội vã tự nướng cho mình một lát bánh mì rồi ra khỏi nhà.
Học viện Bloor vẫn chưa hồi phục sau kỳ cuối tuần hội họp đình đám. Có chăng là toàn thể ban thậm chí còn bẳn tính, hay cáu gắt hơn cả lúc trước khi một trăm vị hiệu trưởng đến chơi. Những nhánh lá thông, dây kim tuyến, dĩa nhựa rách và thức ăn thừa tràn ngập dưới tiền sảnh. Nhiều quần áo, mũ nón biến mất khỏi các phòng áo khoác và có phàn nàn ca cẩm thì cũng chỉ tổ vô ích.
“Lẽ ra trò không nên để nó ở đó,” Manfred Bloor chắc chắn sẽ đáp như thế trước lời rụt rè nghi ngờ một vị hiệu trưởng ghé thăm có thể đã chôm một cái khăn quàng, một chiếc giày, hay một chiếc găng tay viền lông thú.
Trông Manfred mới gớm ghiếc thật sự – mặt lỗ rỗ những vết thương li ti chắc chắn chỉ có vô số vụn thủy tinh mới gây ra được. Emma Tolly không chút nghi ngờ gì rằng Manfred đã đi cùng với cái bóng tới đập rầm rầm cửa tiệm sách nhà nó đêm hôm trước.