Charlie Bone và Quả cầu xoắn thời gian (Tập 2)

Một cái cây đổ
Trong đêm, nhiệt độ tụt xuống thấp thêm năm, sáu độ nữa. Vào sáng thứ hai, gió băng mang mưa tuyết tới trút xuống đường Filbert, làm mù mắt bất cứ ai dám liều lĩnh ra đường.
“Con không tin nổi là như thế này mà vẫn phải tới trường,” Charlie than van khi chật vật bước đi trong gió.
“Cũng phải tin thôi, Charlie, xe buýt tới rồi kìa! Chúc con may mắn!”
Mẹ Charlie gởi tới cho nó một nụ hôn gió rồi quay đi, hướng về phía cửa hàng rau quả. Charlie chạy tới đầu đường Filbert, nơi chiếc xe buýt đang chờ để đón những học viên khoa nhạc tới Học viện Bloor.
Charlie được xếp vô khoa nhạc chỉ vì ba nó đã từng học ở khoa này. Nhưng anh bạn Fidelio của nó thì khác, Fidelio thực sự sáng chói. Fidelio đã xí chỗ cho Charlie trên xe buýt. Ngay khi trông thấy mớ tóc hoe vàng xõa hờ và gương mặt rạng rỡ của bạn, Charlie liền cảm thấy khá hơn.
“Học kỳ này sẽ chán ngấy cho coi,” Fidelio thở dài. “Sau những chuyện sôi động vừa qua.”
“Em nghĩ chả có gì chán cả,” Charlie nói. “Chắc chắn em sẽ không vô khu đổ nát nữa đâu.”
Chiếc xe buýt đỗ lại ở một góc quảng trường rải sỏi, có vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá ở giữa. Khi xuống xe buýt, bọn trẻ nhận thấy mỏ đàn thiên nga lủng lẳng những cục nước đá, và cánh chúng viền toàn sương giá. Hóa ra chúng đang bơi trên mặt hồ đóng băng.
“Nhìn kìa,” Charlie phấn khích la lên khi đi ngang qua vòi phun nước.
“Phòng ngủ chung sẽ giống như tủ lạnh,” Fidelio nghiêm nghị.
Charlie tiếc là nó đã không mang theo bình nước nóng.
Thêm một xe buýt khác tấp vô quảng trường. Chiếc này sơn màu tím, và một đám trẻ con mặc áo chùng tím ùa xuống tràn ngập các bậc thang.
“Tới rồi kìa!” Fidelio kêu lên khi một nữ sinh nhuộm tóc màu chàm gần như bay về phía chúng.
“Chào, Olivia!” Charlie reo mừng.
Olivia Vertigo túm chặt cánh tay Charlie:
“Charlie, rất vui là thấy đằng ấy còn sống. Cả anh nữa, Fido!”
“Ừ, còn sống thì mừng rồi,” Fidelio đáp. “Nhưng sao lại gọi tôi là Fido[1]?”
[1] Tên một chú chó ngôi sao của Hollywood – nổi tiếng với những pha quảng cáo bạc triệu.
“Em quyết định đổi tên anh,” Olivia tỉnh bơ. “Phát âm Fidelio lưỡi phải uốn đầy cả miệng, còn Fido nghe ngầu hơn. Anh không thích à?”
“Đó là tên một con chó,” Fidelio nói. “Nhưng thôi, để anh nghĩ kỹ lại chuyện này.”
Bọn trẻ áo chùng xanh lá cây giờ cũng đã nhập vô đám đông. Lũ học trò khoa hội họa không ồn ào như tụi bên khoa kịch, cũng không kiêu kỳ như bọn khoa nhạc. Thế nhưng, nhìn những chiếc áo chùng xanh lá cây của chúng bay tốc lên, để lộ khăn quàng gắn khoen xê-quin tròn lấp lánh, hoặc những đường chỉ vàng óng trên nền áo len đen, người ta dễ có cảm tưởng rằng đám trẻ trông im im này có khi còn vi phạm nội quy tợn hơn, nghiêm trọng hơn bọn mặc áo chùng tím hoặc xanh da trời.
Những bức tường cám cao ngất của Học viện Bloor giờ đã sừng sững trước mặt. Hai bên cổng vòm đi vô có hai tòa tháp nhọn và, khi Charlie bước lên những bậc thang dẫn tới cổng, chợt nó thấy mình cứ dán mắt vô cửa sỗ trên cùng của một tòa tháp. Mẹ nó từng bảo bà cũng cảm thấy có ai đó đang nhìn mình từ cửa sổ ấy, và giờ Charlie cũng có cảm giác tương tự. Nó hơi rùng mình, bèn vội vã đuổi cho kịp tụi bạn – tụi này đã băng qua khoảng sân lát gạch và giờ đang lên một dãy cầu thang rộng khác. Ở trên đầu cầu thang, hai cánh cửa nặng trĩu được trang trí bằng những tượng đồng đang để mở, đón đàn trẻ đông đúc.
Bụng Charlie bỗng quặn lên khi nó đi ngang qua cửa. Nó có nhiều kẻ thù trong Học viện Bloor nhưng nó không biết tại sao lại thế. Tại sao họ lại muốn trừ khử nó? Thường xuyên muốn trừ khử nó.
Một cánh cửa bên dưới hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau dẫn tới khoa nhạc. Olivia vẫy tay rồi biến mất qua một cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ, trong khi bọn trẻ áo chùng xanh lá cây thẳng tiến đến cuối hành lang, nơi có một cây viết chì với một cây cọ vẽ cho biết đây là khoa hội họa.
Charlie và Fidelio vô phòng để áo khoác xanh da trời trước, sau đó đi vô hội trường.
Vì là một trong những đứa nhỏ nhất nên Charlie phải đứng ở hàng đầu, bên cạnh những thằng bé nhỏ nhất trong tất cả đám học viên – thằng bé bạch tạch Billy Raven. Charlie hỏi Billy ăn Giáng sinh có vui không, nhưng Billy ngó lơ. Billy là trẻ mồ côi, và Charlie hy vọng thằng bé không phải nghỉ lễ một mình trong Học viện Bloor. Theo như Charlie nghĩ, thì Billy có một số mệnh còn tệ hơn cả cái chết. Nó nhận thấy Billy mang một đôi ủng phủ lông. Một món quà Giáng sinh, không nghi ngờ gì nữa.
Mọi người đang hát đến nửa bài hợp xướng đầu tiên, thì một tiếng thét vang lên từ trên sâu khấu.
“Dừng lại!”
Dàn nhạc giao hưởng ngừng chơi. Tiếng hát cũng dứt liền.

Giáo sư Saltweather, trưởng khoa nhạc, bước ra sân khấy, khoanh tay trước ngực. Ông là một người lực lưỡng, thật nhiều tóc trắng, quăn tít. Hàng giáo viên khoa nhạc đứng đằng sau ông lộ vẻ lo lắng. Giáo sư Saltweather sắp sửa la họ cũng như la bọn trẻ.
“Các người gọi đó là hát hả?” Giáo sư Saltweather gào lên. “Đó là những tiếng rên khủng khiếp. Những tiếng rú kinh tởm. Các người là những nhạc công cơ mà, ôi trời ơi. Làm ơn hát cho có hồn, có điệu một tí! Nào… lại từ đầu nào!”
Ông gật đầu ra hiệu ra dàn nhạc giao hưởng ở góc sân khấu và giơ cây ba-toong lên.
Charlie hắng giọng. Ngay cả những lúc thuận lợi nhất nó còn không hát được, nữa là hôm nay hội trường lạnh đến nỗi nó không sao giữ cho quai hàm đừng run. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến những đứa trẻ khác, ngay cả những đứa hát hay nhất cũng đang co ro và run bần bật dưới lớp áo chùng xanh da trời.
Mọi người hát lại từ đầu, và lần này, giáo sư Saltweather không có gì để phàn nàn cả. Những bức tường ốp gỗ rung lên vì tiếng đàn hát. Các giáo viên cũng cố gắng hết sức. Thầy O’Connor vui tính ngả cả đầu ra sau mà hát say sưa, cô Crystal, cô Dance mỉm cười, lắc lư thân mình, trong khi thầy Paltry già nhíu cả mày lại để tập trung. Tuy nhiên, thầy giáo dạy piano, thầy Pilgrim, lại không hề há miệng.
Charlie nhận ra thầy Pilgrim không hề đứng lên. Thầy ở sát bên cô Dance, dáng nhỏ nhắn, và thầy vốn cao nên người ta khó nhận ra là thầy vẫn còn đang ngồi. Có gì xảy ra với thầy vậy? Thầy không bao giờ nhìn vô mắt ai, không bao giờ nói chuyện, không bao giờ đi loanh quanh như những giáo viên khác. Xem ra thầy hoàn toàn không nhận thức được về những gì xung quanh mình. Gương mặt xanh xao của thầy không bao giờ biểu lộ một nét cảm xúc nào, dù thật nhỏ.
Cho đến nay là thế.
Nhưng lúc này, thầy Pilgrim đang nhìn chăm chăm vô Charlie, và Charlie có cảm giác lạ lùng rằng hình như ông thầy này biết nó, không phải như một học sinh, mà như một ai đó. Cứ như người đàn ông lặng lẽ, tăm tối này đang cố nhớ ra nó.
Thình lình, một tiếng “rắc” ghê hồn phát ra từ phía cửa sổ. Lớn đến nỗi mọi người đều nghe rõ, át cả tiếng của dàn đồng ca sôi động. Thậm chí giáo sư Saltweather cũng ngừng chỉ huy dàn nhạc. Một tiếng “rắc” nữa xuyên thủng lớp băng tuyết bên ngoài, và rồi một tiếng “rầm” kinh khủng làm rung chuyển cả những bức tường và cửa sổ.
Giáo sư Saltweather buông cây gậy xuống và chạy ào ra cửa sổ. Vài đứa trẻ nhào theo, ông cũng không buồn đuổi chúng.
“Quái lạ!” Giáo sư Saltweather thét lên, “Coi cây tuyết tùng già kìa!”
Cái cây khổng lồ nằm vắt ngang khu vườn, cành lá gãy văng, bộ rễ tua tủa bị tróc khỏi mặt đất. Thêm một tiếng “ầm” nữa khi cái cành dài đỡ chóp cây đổ sụp xuống, và với một tiếng rú thảm thiết, cả thân cây chìm ngập vô trong tuyết.
Đã có biết bao trò chơi từng diễn ra dưới gốc cây này; biết bao lời thì thầm bí mật đã được những tán lá rậm rạp, râm mát của nó giữ kín. Đó là cái cây yêu thích nhất của tất cả bọn trẻ, giờ thì nó đã đổ rồi, và chỗ nó đứng chỉ còn là một cái hố tuyết rộng với quang cảnh lam nham của những thành lũy lâu đài bỏ hoang. Tuyết đã phủ những gờ cao và bám vô bề mặt lởm chởm của những bức tường, nhưng cái màu đỏ như máu của những viên đá lớn vẫn nổi rõ mồn một trong khung cảnh trắng xóa.
Khi Charlie nhìn trân trân vô những bức tường lâu đài, bỗng có cái gì đó xảy ra. Đó có thể là do ảo giác vì ánh sáng, nhưng nó chắc chắn còn có một cây tuyết tùng khác, nhỏ hơn cây này, đang hiện ra ở cánh đồng hình vòm của tòa lâu đài. Lá nó đỏ và vàng, trong khi cái cây đổ kia thì không còn chiếc lá nào mang màu sắc mùa thu nữa.
“Anh có thấy cái cây kia không?” Charlie thì thào với Fidelio.
“Cái gì?”
“Một cái cây đung đưa,” Charlie nói. “Nhìn kìa, bây giờ nó đang đứng bên bức tường tòa lâu đài. Anh không thấy à?”
Fidelio nhíu mày và lắc đầu.
Charlie cố chớp mắt để xua cái cây đi. Nhưng khi nó nhìn lại thì cây vẫn ở đó. Không ai khác ngoài nó trông thấy cái cây. Charlie lại có cảm giác quặn lên quen thuộc ở bụng. Cảm giác này luôn xảy ra khi nó nghe thấy tiếng nói trong hình, nhưng lần này không có tiếng nói nào cả.
Một tiếng “rầm” từ trên sâu khấu khiến Charlie ngoái nhìn lại. Thầy Pilgrim vừa mới đột ngột đứng lên, hất chiếc ghế đổ chỏng gọng. Thầy dòm lướt qua đầu bọn trẻ, nhìn ra vườn, bên ngoài cửa sổ. Rất có thể thầy đang nhìn cây tuyết tùng đổ, nhưng Charlie chắc chắn là thầy đang nhìn ra xa, tới những bức tường đỏ của tòa lâu đài. Phải chăng thầy cũng trông thấy cái cây lạ đang đung đưa?
Giáo sư Saltweather rời khỏi cửa sổ.
“Bài tiếp theo, bay” ông vừa hô to vừa bước phăm phăm trở lại sân khấu. “Với cái đà này bọn bay sẽ không bao giờ lên lớp được.”
Sau giờ tập họp, Charlie tới lớp học của thầy Paltry-Kèn Sáo đứng tuổi và nóng nảy. Thầy than là dạy Charlie Bone chơi nhạc cũng chẳng khác gì đổ cho đầy một cái thùng lủng đáy. Ông thầy già cứ thở dài sườn sượt, hết lau kính lại vụt cây gậy đen đét lên giá nhạc, trong khi Charlie đứng sát ngay trong tầm gậy. Charlie cho rằng, nếu thầy Paltry mà cứ tấn công nó theo cái kiểu này, thì cuối cùng nó sẽ mất sạch răng – và có thế nó mới được giải thoát khỏi những giờ học nhạc khủng khiếp.
“Đi, Bone, đi đi!” Thầy Paltry gầm gừ sau bốn mươi phút tra tấn lẫn nhau.
Charlie sung sướng vô ngần. Tiếp theo là mang ủng vô và bươn ra ngoài vườn tuyết lạnh. Trong giá lạnh căm căm, bọn trẻ được phép mặc áo chùng ở ngoài trời; vào mùa hè, áo chùng phải để lại trong phòng để áo khoác.
Fidelio ra khỏi lớp học vĩ cầm hơi trễ, cho nên khi hai đứa chạy ra ngoài vườn thì tuyết đã bị ba trăm đứa khác giày xéo rồi. Những thằng người tuyết đang được dựng lên, những trận chiến ném tuyết đang hồi gay cần, và ông Weedon, người làm vườn, đang vất vả xua đuổi lũ trẻ tránh xa gốc cây ra.
“Em muốn xem cái gì ở cạnh lâu đài,” Charlie nói với Fidelio.
“Em bảo là em không muốn đến gần khu đổ nát nữa mà,” Fidelio nhắc nhỏ.
“Ừ, nhưng mà... như em nói đó, em thấy một thứ. Em muốn xem có dấu chân gì không.”

“Thôi được,” Fidelio nhún vai một cách hiền lành.
Khi chúng chạy ngang qua cây tuyết tùng gãy, Billy Raven gọi to:
“Hai anh đi đâu vậy?”
Gần như không suy nghĩ, Charlie vọt mồm:
“Không phải việc của em.”
Thằng bé bạch tạng liền sầm mặt lại, và nép mình vô đám cành lá tuyết tùng rậm rạp. Đôi mắt màu đỏ như đá rubi của nó lóa lên đằng sau cặp kính.
“Sao em lại nói như thế?” Fidelio hỏi khi chúng vẫn đang chạy.
“Em không nhịn được,” Charlie bảo. “Billy Raven có cái gì đó kỳ cục lắm. Em không tin nó nữa.”
Chúng đã tới cổng khu đổ nát. Tuyết bên dưới những mái cổng vòm sạch bong và mướt mát. Không ai ra vô khu này.
Charlie nhăn mặt. “Lúc nãy em còn trông thấy nó mà,” nó lầm bầm.
“Tụi mình vô đi,” Fidelio nói.
Charlie lưỡng lự.
“Ban ngày trông không có vẻ gì ghê gớm nhỉ,” Fidelio hé mắt nhìn qua cổng vòm.
Nó băng vô và Charlie theo sau. Chúng bước thập thò qua một khoảng sân và chui vô một trong năm con hẻm dẫn sâu hơn vô khu đổ nát.
Sau vài phút lần mò trong bóng tối, chúng đến được một khoảng sân khác. Ở đó, chúng thấy vết máu. Hoặc cái gì đó giống máu: những vệt đỏ sâu, loang trong tuyết, bên cạnh một đụn lá vàng lá đỏ.
“Quái thú!” Charlie thét lên. “Ra thôi!”
Phải đợi đến khi đứng an toàn bên ngoài bức tường rồi thì Fidelio mới hoàn hồn nói:
“Hình như không phải là con thú đâu.”
“Có máu mà,” Charlie nói. “Có một con thú. Nó đã giết chết hoặc làm bị thương một con gì đó.”
“Nhưng đâu có dấu vết gì khác đâu, Charlie. Chẳng có dấu hiệu vật lộn, hay dấu chân… hay…”
Charlie không chờ nghe hết những lý lẽ nghi ngờ của Fidelio. Nó chạy khỏi khu bỏ hoang, trong lòng như sống lại các đêm dài hôm nào, nó bị một con thú mắt vàng đuổi theo qua những ngõ ngách vô tận và những căn phòng lạnh lẽo, dội âm. Khi chạy được tới chỗ cây tuyết tùng gãy, nó đứng lại chờ cho Fidelio bắt kịp.
“Tránh ra!” Một giọng khàn đục vang lên đằng sau.
Đang sẵn run lẩy bẩy, Charlie giật thót mình và quay lại. Gương mặt đỏ gay của ông Weedon hiện ra giữa đám cành cây rối rắm; ông đội chiếc mũ bảo hiểm đen bóng, và Charlie trông thấy một lưỡi cưa nằm chặt trong đai bao tay màu đen của người đàn ông vạm vỡ này.
“Cái cây này rất nguy hiểm,” ông Weedon la lên. “Ta đã bảo bọn nhóc là không được chơi gần nó mà.”
“Cháu có chơi đâu,” Charlie cãi. Fidelio đã bắt kịp và nó thấy tự tin hơn.
“Ồ, không hả, Charlie Bone? Mày không bao giờ chơi chứ gì? Mày là một thằng bé nghiêm túc chứ gì?”
“Ông biết gì về cháu mà nói nào,” Charlie nổi cáu. “Ông không thể…”
Một tiếng nổ lớn, tiếp sau là tiếng cưa xè xè, ông Weedon vén đường qua cái cây rậm rạp, tiến đến chỗ Charlie. Cành cây văng tung tóe khi lưỡi cưa nghiến vô gỗ và cành lá.

“Đi nào!” Fidelio kéo áo chùng của Charlie. “Tụi mình ra khỏi đây đi.”
“Ông đó thật nguy hiểm,” Charlie lẩm bẩm khi chúng chạy khỏi đám cây. “Làm sao ông ấy lại biết em?”
“Tại em nổi tiếng quá mà,” Fidelio nói, thở gấp gáp.
Giờ chúng đã đủ xa khỏi ông Weedon nên có thể dừng lại nghỉ.
“Chuyện bị lạc trong khu bỏ hoang học kỳ rồi là hẳn một sự kiện đấy chớ. Tất cả mọi người đều phải biết em là ai.”
Charlie ước sao cho mọi việc không phải như thế.
Một hồi còi đi săn rúc lên, báo hiệu đã hết giờ giải lao.
Nhiệt độ vẫn tụt xuống vùn vụt. Sau bữa tối, những đứa trẻ có phép thuật, như thường lệ lại tới phòng Nhà Vua để làm bài tập về nhà. Chính tại đây đã nổ ra cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai anh bạn lớn của Charlie: Tancred torsson và Lysander Sage.
Lysander là người nhạy cảm với cái lạnh nhất. Nhưng vốn là người hay bông lơn, nên nếu có ca cẩm thì cũng theo kiểu thân thiện, đúng hơn là tếu táo. Nó nói nguyên văn như thế này với Tancred:
“Tanc, mày đã làm gì với thời tiết vậy?”
“Cả ông mà cũng không biết à!” Tancred nhảy dựng lên và dậm chân, “Tôi tưởng trong cả đám thì ông phải là người biết rõ hơn chứ?”
Lysander chưa kịp đáp lời, thì Manfred Bloor lên tiếng.
“Thôi đi, Tancred! Thương thằng bạn của chúng ta một chút coi. Mày đang làm nó chết cóng đó.”
“Tôi có làm đâu!” Tancred giãy nãy, vò xé mái tóc nhiễm điện của mình.
“Nó giỡn thôi mà, Tanc,” Lysander mỉm cười, nói.
Đến lúc này thì một vài đứa trẻ bắt đầu cảm thấy bất an. Charlie đặc biệt lo âu. Lysander và Tancred đã cứu nó ra khỏi khu bỏ hoang. Họ đã cùng nhau hợp lực chống lại những thế lực hắc ám đang rình rập trong Học viện Bloor. Nhìn hai người cãi nhau, nó không chịu nổi.
“Bây giờ ông về phe nó rồi à?” Tancred hỏi, trừng mắt nhìn đồng minh cũ của mình.
“Tất cả mọi người đề về phe anh,” Manfred cười khẩy.
Lysander im lặng lắc đầu, nhưng rủi thay, Zelda Dobinski chọn ngay lúc ấy để trình diễn tài năng di chuyển đồ vật quái dị của nó. Con nhỏ dòm lom lom vô một cuốn sách khổng lồ ở trên kệ đằng sau Tancred. Cuốn sách phóng qua căn phòng và đâm trúng vô lưng Tancred, ngay khi nó lao ra cửa.
“Úi!” Tancred rú lên.
Sáu đứa trẻ bò ra cười, trong khi năm đứa còn lại lộ vẻ khiếp hãi.
Tancred không nhìn thấy những gương mặt thông cảm. Nó chỉ kịp nhìn thấy những đứa cười giễu cợt. Gió bỗng giật rùng rùng khắp căn phòng khi cậu bé đang nổi cơn sấm sét này vù ra cửa, để lại những tiếng dộng thình thình vô tường.
Charlie không kìm nổi.
“Chờ đã!” Nó hét lên, lao theo Tancred.
“Mày đi đâu vậy, Bone?” Manfred hỏi.
“Em để quên cây viết ở phòng để áo khoác,” nó nói dối.
Một thằng tóc đỏ, gầy đét ngóc đầu nhìn lên trêu nó :
“Luôn luôn quên đồ, há Bone?”
“Không phải luôn luôn, Asa!”
Charlie sợ Asa Pike. Nó là tay sai của Manfred và có biệt tài kinh khủng là thay đổi hình dạng.
“Đóng cửa lại,” Asa nói khi Charlie bước ra.
Charlie đóng cửa. Hành lang bên ngoài vắng tanh. Charlie quyết định ra tiền sảnh.
Lúc xuống tít cầu thanh rộng, một luồng gió buốt thốn suýt nữa hất nó ngã chổng kềnh. Nó đi vô tiền sảnh nền đá, chợt đứng sững, bất động. Có cái gì đó đang diễn ra trước mắt nó. Nó đang nhìn vô những thứ mà đúng ra không được có ở đó. Một đám bụi lấp lánh đang trôi cuồn cuộn vô chính giữa căn phòng dài. Hay là một cơn bão chăng?
Tù từ, từ từ, những hạt nhợt nhạt ấy rõ dần lên. Giờ thì chúng đã hợp thành một hình hài lờ mờ, xanh da trời với một dãi đen bên dưới. Trước con mắt sửng sốt của Charlie, một bóng người mặc áo chùng xanh da trời đột mũ trùm hiện ra.

Charlie không nghi ngờ gì nữa là nó đang nhìn thấy một con ma. Nhưng khi hình dáng kia quay mặt về phía nó, thì nó kinh hãi thấy rằng nó đang nhìn vô… chính nó.
Henry ẩn náu
Chính Charlie kia lên tiếng trước.
“Giỡn kiểu gì ấy! Cậu bé kia lẩm bẩm. “Mình chẳng đi xa được hơn chút nào cả.”
Cậu ta có giọng nói hết sức bình thường, Charlie thấy thế. Đây không phải là con ma. Nhưng nếu không phải là ma thì là cái gì? Tằng hắng cho thông cổ, nó nói:
“Anh từ đâu tới? Chính xác là…”
“Từ đây,” cậu bé trả lời. “Lúc nãy tôi ở ngay chỗ này, nhưng…”
Cậu giơ tay lên che mắt và nhìn trân trối vô dãy đèn điện thắp sáng tiền sảnh.
“…không giống như thế này. Làm cách nào mà nó sáng vậy?”
“Điện đấy,” Charlie nói. Nó bắt đầu nhận ra cậu bé. “Anh là…?” Nó lựa lời. “Ý tôi là… ờ… thế này… Tôi trông thấy anh trong một tấm hình. Phải anh là Henry Yewbeam không?”
“Chính là tôi,” Henry nó, rạng rỡ hẳn lên. “Tôi nghĩ tôi cũng trông thấy cậu. Ở đâu đó… Cậu là ai?”
“Tôi là… à…kiểu như anh em họ của anh vậy. Em là Charlie Bone.”
“Ôi! Thật là hay. Một người em họ. Hay. Hay.” Henry tiến lại và bắt tay Charlie. “Rất vui được gặp em, Charlie Bone.”
“Việc này không hay đến thế đâu,” Charlie nói. “Ngày mà anh… Ngay bây giờ là ngày nào nào?”
“Ngày 12 tháng Giêng năm 1916,” Henry nói. “Tôi luôn nhớ ngày tháng.”
“Em sợ bây giờ không còn là ngày tháng đó nữa.”
“Không phải à?” Nụ cười của Henry chợt lụi tàn. “Thế…?”
“Anh đang ở tương lai, gần chín mươi năm sau thời của anh,” Charlie nói.
Miệng Henry há hốc, nhưng không thốt ra được lời nào. Thay vô đó là một âm thanh sắc gọn, vang lên khi một vật gì đó tuột khỏi tay cậu và rơi xuống đất.
Charlie thấy một viên bi pha lê lớn lăn qua tiền sảnh.
“Chao!” Charlie trầm trồ, nhưng nó vừa tính nhặt viên bi lên thì Henry thét thất thanh:
“Cẩn thận, Charlie. Đừng nhìn vô nó.”
“Tại sao?”
“Nó là thứ đã mang tôi tới đây.”
Charlie lùi lại khỏi viên bi lóng lánh.
“Ý là nó mang anh đi xuyên thời gian?”
Henry gật đầu.
“Nó là Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Mẹ tôi đã có lần kể cho tôi nghe. Nhưng tôi chưa bao giờ trông thấy, cho đến bây giờ… Đáng lý tôi phải đoán ra nó là cái gì. Tôi biết Zeke luôn tìm cách trừng phạt tôi.”
“Zeke?”
“Anh họ tôi, Ezekiel Bloor.” Henry bất giác toét miệng cười. “Tôi nghĩ, chắc bây giờ anh ta chết rồi.”
Nhưng chợt, một nét u buồn và nghiêm trang hiện ra trên mặt cậu.
“Nhưng chắc họ cũng qua đời cả rồi: cha, mẹ, cả em trai James của tôi nữa. Không còn ai cả.”
“Thì còn em,” Charlie nói. “Em nghĩ em trai của anh là…”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận