Cây cầu bất trắc
Chiều thứ Sáu, Billy Raven bỗng đổi ý. Thằng bé bảo với Charlie là nó sẽ không nghỉ cuối tuần ở nhà Charlie nữa.
“Anh tưởng em muốn giúp tụi anh tìm Asa,” Charlie nói.
Billy chậm rãi tháo dây giày bộ của nó. Chúng đang ngồi trong phòng để áo khoác xanh da trời. Charlie cởi đôi giày đá bóng của nó. Cuối cùng Billy nói:
“Ở trong vùng đồng hoang. Tất cả muông thú. Không phải là em không thích thú vật, em thích chứ, nhưng chúng nó kêu ghê quá – bao nhiêu thú dồn vô một nơi như đồng hoang, mỗi loài nói bằng một ngôn ngữ khác nhau, nghe bum, bum, chát, chát trong tai em. Em thích ở lại đây với bà bếp trưởng hơn.
Bọn trẻ sàng tới lui trước mặt chúng, đứa nhảy qua giày, đứa bò lồm cồm dưới băng ghế, đứa tìm quần cộc, áo sơ mi bị thất lạc. Charlie cúi sát xuống Billy. “Em còn để Rembrandt ở nhà anh. Ngoại Maisie sẽ bấn lên cho coi.”
Billy cởi giày ra và ngồi nhìn trao tráo vào chúng. “Có lẽ bà Maisie sẽ mang nó tới đây và để nó lại chỗ bà bếp trưởng.”
Charlie nhún vai. “Để anh hỏi bà xem sao. Ừm, anh đi xếp giỏ đồ xách đây, gặp lại em thứ Hai nha.”
“Chúc may mắn,” Billy đáp.
Charlie đã loay xoay giấu xong mớ đồ của Asa dưới đáy giỏ. Về đến nhà nó lôi chiếc áo khoác với cái nón cũ ra và tống vô tủ quần áo của mình. Benkamin rung chuông đúng lúc nó xuống lầu dùng bữa trà.
“Hai con định làm gì thế?” Ngoại Maisie hỏi khi hai thằng bước vô bếp. “Trông mặt các con ghi rõ những âm mưu với chuyện thám hiểm kìa.”
‘Vậy ạ?” Benjamin lóng ngóng sờ lên cằm.
“Nhìn các con là ta biết ngay, cả Hạt Đậu nữa.” Ngoại Maisie bắt đầu lục lọi tủ lạnh tìm cục xương đầy thịt mà bà đã để dành cho con chó.
Charlie không chắc mình nên tiết lộ bao nhiêu cho ngoại Maisie biết. Nó không muốn làm bà lo lắng. “Bọn con có một kế hoạch nho nhỏ cho ngày mai,” nó nói bâng quơ. “Chơi trốn tìm với Hạt Đậu.”
“Thế à!” Ngoại Maisie thảy cục xương cho Hạt Đậu.
Họ ngồi xuống dùng bữa trà. Ông cậu Paton thường không xuống giờ này, cho nên Charlie không quá nôn nao. Nó có thể nói chuyện riêng với ông cậu sau. Nó muốn lời khuyên của ông về dự tính chúng sắp thực hiện.
“À quên, ông cậu của con đi rồi,” ngoại Maisie bảo, bày ra bánh lúa mạch mới ra lò.
“Đi?” Charlie buột miệng kêu. “Bà nói đi là đi đâu?”
“Việc gì sốt vó lên thế, Charlie. Ông ấy ra biển như thường lệ ấy mà.”
“Để thăm ông cố?” Charlie hỏi.
“Đúng vậy. Không được hé một lời với bà Bone đấy, nhớ không. Chúng ta không muốn mụ mà tới đó và quậy tung cả lên.”
“Dạ,” Charlie lầm bầm. Charlie liếc Benjamin, rõ ràng thằng này cũng đang nghĩ như nó. Mặc dù không mong đợi Ông cậu Paton sẽ đi cùng vô vùng đồng hoang, nhưng chắc chắn chúng cũng an lòng phần nào nếu ông biết về cuộc phiêu lưu và sẵn sàng ra tay giải cứu nếu có gì bất trắc.
Benjamin đã bồn chồn lắm rồi. Nó lưỡng lự không biết có nên nói cho ba mẹ mình biết mình đi đâu không. Charlie cười trấn an nó. “Fidelio sẽ đi với tụi mình, lại cả Olivia nữa.”
“Ủa?” Benjamin không biết nên mừng rỡ hay bực bội. Olivia quá lòe loẹt so với gu thẩm mỹ của nó.
“Ta thấy coi bộ nghiêm trọng hơn trò trốn tìm rồi đấy,” ngoại Maisie nghi ngờ. “Ta hi vọng các con không làm điều gì dại dột.”
“Không có tí dại dột nào đâu, bà Jones ạ,” Benjamin nghiêm trang.
Một giây sau chuông điện thoại reng. Trước khi ngoại Maisie nhấc máy Charlie đã có cảm giác thắc thỏm là rắc rối thứ hai sắp nổi lên.
“Điện thoại của con này, Charlie,” ngoại Maisie gọi.
Chân Charlie lết bết vô hành lang.
“Tươi lên coi, Fidelio, bạn con gọi mà,” ngoại Maisie trao ống nghe cho Charlie.
“Chào, Charlie, tin xấu đây,” giọng Fidelio phấn chấn.
Charlie thở dài. “Gì đây? Đừng nói là này mai anh không thể đi à nha.”
“Xin lỗi, Charlie, anh quên khuấy mất. Anh đã hứa với ba anh về buổi hòa nhạc này rồi. Nó thuộc tua lưu diễn mùa hè. Rất, rất quan trọng. Nó có thể tạo bước ngoặt cho sự nghiệp tương lai của anh…”
“Ừ, ừ,” Charlie ủ rũ. “Được rồi, thần đồng, tụi em sẽ phải đi mà không có anh.”
“Thế cuối tuần tới thì sao?” Fidelio đề nghị.
“Quá trễ. Asa không chừng đã bị thương. Chúng ta phải tìm thấy anh ấy vào ngày mai.”
“Hoặc đã chết.”
“KHÔNG!” Charlie phản đối. “Em không tin anh ấy chết rồi. Chúc buổi hòa nhạc thành công nha, Fido!” Nó đặt ống nghe xuống.
Ngoại Maisie nhìn Charlie với vẻ lo thắt ruột khi nó quay lại bàn. “Cái gì mà chết chóc vậy?” Bà hỏi.
Charlie quyết đinh cho bà biết một phần nhỏ sự thật. “Tụi con đang nói về Sói Hoang. Fidelio nghĩ có thể nó chết rồi. Tụi con đã nghe tiếng súng đêm qua.”
“Đó là tiếng súng săn,” ngoại Maisie nói, “Nhưng theo như ta được biết thì họ không giết được con gì cả. Đừng bận tâm, ta chưa nghe thấy tiếng tru hai đêm nay rồi.”
Charlie và Benjamin nhìn nhau.
Vào sáng thứ Bảy Charlie thức dậy vì một tiếng gõ nhẹ trên ô kính ở cửa phòng nó. Trời vãn tối om om, thoạt đầu nó tưởng là tuyết đập vô cửa sổ. Đến khi nhìn ra thì thấy Benjamin và Hạt Đậu đứng bên dưới cột đèn đường.
Charlie mặc đồ ấm nhất của mình vào. Trước khi rời phòng, nó đẩy cái ấm đen vô sâu hơn trong ggaafm giường. Cái ấm nóng lên khó chạm vô – dù không đủ nóng để làm nó bị phỏng, nhưng chắc chắn là nóng hơn nhiệt độ phòng. Nếu đây là lời cảnh cáo, Charlie nghĩ, thì giờ mình cũng chẳng thể làm gì được với nó. Charlie đảo mắt khắp phòng tìm con bướm trắng, chiếc gậy phép của nó biến thành – kẻ canh gác căn phòng cho nó. Cuối cùng, Charlie cũng thấy nó trên thanh ray treo rèm, đôi cánh chấm bạc dựng thẳng đứng như cánh buồm.
“Chúc tớ may mắn đi,” Charlie nói.
Con bướm xòe cánh và đậu xuống vai nó.
“Bồ được chào đón đi với tụi tớ,” Charlie nói. “Rất vui mừng.”
Đến lúc nó mở cửa ra, Benjamin đã có Olivia nhập bọn. Con nhỏ diện áo khoác thủy thủ bằng len thô, giày bốt da nặng chịch và khăn quàng sọc quấn mấy vòng quanh cổ.
“Sẵn sàng cho bất cứ việc gì!” Olivia hát kíu lo khi nó xông vô hành lang.
“SSUỴTT!” cả Charlie lẫn Benjamin đều nhắc nó.
Charlie hất ánh mắt lo lắng lên lầu, đinh ninh là cả hai bà nội, ngoại sẽ ùa ra khỏi phòng họ, nhưng may thay, chắc họ vẫn còn đang ngủ say.
Olivia giơ lên một chiếc ba lô vạt bải đỏ chói, thì thào: “Đồ ăn đủ cho cả tuần ở đây nè. Tớ đã tấn công tủ lạnh nhà tớ trước khi đi. Tớ bảo với mẹ tớ là tớ qua chơi nhà Emma một ngày, điều đó cũng đúng một phần, Dù gì mẹ tớ phải làm việc và tới đêm Chủ Nhật mới về nhà.”
Charlie quyết định tự mang đồ ăn lấy. Olivia thường ăn những thức ăn lạ lùng, mang những cái tên khó phát âm. Nhón chân đi vô bếp, nó quay ra với một gói bánh bích quy và xúc xích nguội. Nó nhét tất cả vô ba lô của nó, dằn lên trên áo khoác và mũ của Asa. “Đi thôi,” nó nói.
Khi chúng rời khỏi nhà, một hàng ánh sáng xanh lét bắt đầu hiện ra phía trên đồi xa, nhưng khi chúng gần tới dòng sông, ánh sáng nhòa dần và cả bọn bị quăng tòm vô màn trời xám mờ.
Có hai cây cầu bắc ngang qua sông – một cây cầu sắt cổ xưa, nhỏ hẹp mà hội đồng thành phố đã khuyến cáo là không an toàn để sử dụng, còn cây kia được xây bằng đá vững chãi, rộng, an toàn tuyệt đối. Chrrlie đã dùng cây cầu sắt để đi thăm Naren, nhưng hôm nay nó chọn cây cầu đá. Không việc gì phải làm khó sứ mạng giải cứu của cả bọn.
Hạt Đậu dường như cũng biết có nhiệm vụ đang chờ mình. Nó chạy đằng trước, im ru gà rù, không một tiếng sủa nào vuột ra khỏi miệng. Chỉ có cái đuôi ngúc ngoắc cật lực là biểu lộ sự kích động của nó.
Vừa băng qua khỏi cầu, ba đứa trẻ vô con đường mòn mà chỉ vài ngày trước đội đi săn đã hành quân vô cánh đồng hoang. Olivia lôi cậy đèn pin to sụ ra khỏi ba lô của nó. Luồng ánh sáng mạnh từ cây đèn giúp chúng thấy dường qua những bụi cây viền thấp quanh khu rừng. Một khi xa khỏi mé ngoài để vô sâu trong rừng, những bụi mâm xôi và cỏ thô nhám quang dần đi. Chúng thậm chí còn tìm thấy mottj lối mòn hẹp.
Giờ đã đến lúc tung Hạt Đậu vào hành động. Charlie lôi đống áo choàng với nón từ trong ba lô ra và chìa về phía chú chó. Hạt Đậu hít ngửi. Chợt nó tru lên một tiếng và lùi phắt lại. Thú vật luôn sợ Asa – một sinh vật là người ban ngày, là thú lúc trời tối khiến chúng luôn lo lắng và hoang mang. Bản năng mách bảo chúng phải tránh xa loại này.
“Tìm đi, Hạt Đậu,” Benjamin dỗ dành. “Đi mà. Tụi tao cần mày giúp đó.” Nó giật đống đồ từ tay Charlie và đặt xuống đất, vỗ vỗ. “Hạt Đậu, tìm đi.”
Hạt Đậu thận trọng sán lại gần mớ đồ. Nó hít ngửi – cái áo khoác trước rồi đến cái nón. Nó lại tru rống lên, và rồi, bất thần, phóng đi khỏi, chạy dọc theo lối mòn hẹp, thỉnh thoảng lại phóng khỏi lối mòn mà sục sạo trong cỏ, rồi lại chạy tiếp.
“Nó bắt được mùi rồi,” Benjamin la lớn, đuổi theo chú chó của mình.
“Chắc chắn nó đã tìm thấy gì đó,” Olivia tán đồng, chạy theo Benjamin.
Charlie hốt mũ áo lên và chạy theo cả bọn. Nó ngạc nhiên sao Olivia có thể chạy nhanh thế, cả Benjamin cũng nhanh không kém. Ánh sáng từ cây đèn pin của Olivia lia loạn xạ, chỗ nào cũng soi tới, ngoại trừ mặt đất, thành thử Charlie thấy mình chệch choạc khỏi lối mòn, đâm sầm vô cây cối và lảo đảo vấp dây dây leo.
Có một tiếng thét ở đằng trước, rồi lại một tiếng nữa. Quá trễ, Charlie tông ầm vô Olivia, trong khi con nhỏ va ình vào Benjamin.
“Tớ lạc nó rồi,” Benjamin nói.
Một tràng sủa đằng xa thúc cả bọn lại lao tới trước. Mãi cuối cùng, một tia sáng le lói bắt đầu thấm qua cành cây. Tiếng sủa đổi hướng. Cả bọn dừng lại, nghe ngóng. Lúc chỗ này, lúc chỗ kia, lập tức Hạt Đậu ở khắp mọi nơi. Chúng rời khỏi lối mòn và luồn sâu vô rừng cây, để rồi chỉ bị kéo giật lại vì một tiếng sủa nữa.
“Nó trêu ghẹo tụi mình,” Olivia than phiền. “Nó không thể ngửi gì hết. Nó chỉ đùa chơi thôi.”
“Có thể,” Benjamin nói.
Vài phút trôi qua. Tiếng sủa ngưng. Chúng chờ và cứ chờ. Không có gì. Benoamin gọi con chó của mình, nhưng không có tiếng sủa đáp lại.
“Ăn chút gì đi,” Olivia nói, chuyền cho Charlie một thanh sô-cô-la.
“Tớ không nuốt nổi,” Benjamin nói. “Chắc Hạt Đậu gặp nguy rồi chứ không thì nó đã quay trở về. Nó luôn luôn trở về khi tớ gọi mà.”
Khi ánh sáng mùa đông bắt đầu rạng khắp vùng đồng hoang, một luồng gió buốt thốc lên, tiếng âm u, lắc rắc của cành trụi lá nhấn chìm một tiếng tru ở rất xa.
Da đầu của Charkie rợn lên. “Đó là cái … vật hay Hạt Đậu?”
“Không chắc,” Benjamin đáp.
“Dù là gì tụi mình nên tìm hiểu nó thì hơn,” Olivia nói. “Gì thì gì, đó là lí do tụi mình ở đây kia mà?” Dẫn đầu, con nhỏ sấp ngửa qua lối mòn, trong khi bọn con trai cắm cổ đuổi theo.
Charlie không chắc lối mòn sẽ kết thúc ở đâu, khi nào, nhưng nó dần nhận ra đã lạc mất đường rồi và giờ chúng đang đi theo Olivia trên lộ trình mà tất cả phụ thuộc vô con nhỏ.
“Mình chả biết Olivia có biết cậu ấy đi đâu không?” Charlie nói với Benjamin.
“Biết chứ,’ Olivia đáp lại. “Thính giác của tớ đạt một trăm phần trăm và tớ biết tiếng tru vọng tới từ hướng này.”
Lúc này chúng đã ở nơi rậm rạp dễ sợ của vùng đồng hoang. Cây cối sin sít đến độ mặt trời thấp chỉ lọt được vài tia sáng li ti xuống mặt nền phủ rêu.
Olivia dừng lại và bọn con trai đuồi kịp con nhỏ. “Tớ đang chờ một tiếng tru nữa,” con nhỏ nói.
Tức thì một tiếng tru nữa vang lên. Nghe đục nghẹt, thê thiết, càng lúc càng gần, cho tới khi Hạt Đậu bất thình lình bắn ra khỏi bụi rậm và lao bổ tới bên chúng. Lông nó dính bết hạt cỏ,tai dạy ngược ra phía sau và mặt dớn dác kinh sợ.
“Gì vậy, Hạt Đậu?” Benoamon ôm chặt cứng cổ con chó. “Mày đã tìm thấy gì?”
Hạt Đậu gừ một tiếng giận dữ, rền vang. Nhất định không muốn trở lại nơi nó vừa xồ ra.
“Chắc nó đã thấy gì đó rồi?” Olivia hỏi.
“Đã tìm thấy gì đó, tớ nghĩ vậy,” Charlie nói.
“Chỉ cho tụi tao đi, Hạt Đậu.” Benjamin cố chui qua mảng bụi rậm trước mặt.
Hạt Đậu cúi gằm đầu, gừ tiếp. Chợt nó nhảy chồm chồm vòng quanh bọn trẻ, làm như cố ngăn không cho bọn chúng thấy cái thứ mà nó vừa tìm thấy.
“Được rồi, Hạt Đậu, tụi tao phải tìm ra nó mà!” Charlie hẩy đầu con chó bự đi rồi lội ùm vô đám cành thấp, cho tới khi nó và bọn kia đứng trong một mảng trống nhỏ, có nắng mặt trời. Một đụn lá khô vồng lên ở chính giữa; một ụ đất tựa như nấm mồ. Một bó hoa giọt tuyết cắm ở một đầu ụ đất.