Ở đầu kia trảng trống, một khối hình ngồi thụp giữa đám rễ cây gồ ghề. Nhanh như chớp, cái hình hài đó quay mặt lại bọn chúng. Không nghi ngờ gì về cái chết mũi hoang dã và mảng trán thấp lông lá. Đó là một trong những sinh vật đã cắn Ông cậu Paton.
Bọn trẻ hồn xiêu phách tán. Chúng chắc mẩm sẽ thấy Asa, hoặc chí ít là thấy con thú anh ta biến thành.
“Người … người là ai?” Charlie tiến sát một bước nữa tới sinh vật nọ.
Nó gừ Charlie, rồi khóc thút thít.
Olivia chụp cánh tay Charlie. “Đừng lại gần nó.”
“Không sao, Liv.” Charlie gạt tay con nhỏ đi. “Coi kìa, nó … à, bà ấy (bản năng cho nó biết đó là một phụ nữ)… sẽ không làm hại tụi mình đâu. Bà ấy đang buồn thảm. Có lẽ bà ấy vừa mới chôn ai đó xong.”
“Asa?” Benjamin thì thào.
Charlie bước lại gần người phụ nữ và ngồi xổm xuống trước mặt bà. “Bà có biết Asa Pike không?” Nó hỏi nhẹ nhàng.
Từ từ, bà ta quay đầu về phía nó. Nhìn sát trông bà không đến nỗi đáng sợ. Có vẻ hiền lành trong đôi mắt vàng, và một lúm đồng tiền trên gò má tái xám của bà.
“Tôi là mẹ Asa.” Giọng bà yếu ớt và khản đặc.
“Đó là …” Charlie ngoái nhìn lại nấm mồ.
“Cha của Asa.” Đôi mắt vàng của người phụ nữ trào đẫm lệ.
“Người ta đã giết ông ấy?” Charlie hỏi.
Người phụ nữ e ngại ngước nhìn lên khi Benjamin và Olivia nhích tới gần hơn. Không tiện đứng cao phía trên bà, bọn chúng ngồi quỳ gối xuống đằng sau Charlie.
“Cháu là Charlie Bone?” Người phụ nữ thở hắt ra não ruột. “Do cháu mà …” bà nhìn nấm mồ và đôi mắt lại đầm đìa.
“Cháu rất tiếc nếu cháu đã làm gì khiến bác gặp tai họa,” Charlie nói.
Bà lại thở dài. “Ờ, ờ. Nhưng cháu không thể làm khác được, phải không?”
Olivia bò lại gần hơn. “Asa chưa chết ạ?”
Người phụ nữ lắc đầu. “Tôi không biết. Bọn họ đã bắt nó, đã nhốt nó. Nó bị cầm tù trong một cái hang, không thể thay đổi hình dạng từ thú thành người, vì nơi đó tối tăm, vậy đấy. Chúng tôi mang đồ ăn cho nó và bảo nó đừng tru, nhưng nó không thể kìm nổi.
“Và sau đó đội đi săn tới,” Benjamin nói.
“Và rồi đội đi săn tới,” giọng bà thều thào đén nỗi chúng không nghe được.
Charlie e dè nói tiếp, “Vậy là đội đi săn đã giết chồng bác?”
Người phụ nữ bắt đầu run bần bật. Giọng bà líu ríu như chim, nức nở, bàn tay những ngón dài, xù lông che lấy mặt. “Họ đã giết ông ấy. Giết rồi. Ông ấy cố đánh lạc hướng họ ra khỏi con trai mình. Một phát súng nổ vang, ông ấy ngã xuống. Tôi đã kéo ông ấy vô bụi rậm, lấy cành, lá phủ lên để họ không tìm thấy ông ấy. Nhưng cái gã bắn ông ấy đã tận mắt thấy ông ấy ngã xuống, thấy mặt đất loang máu nơi ông chồng tội nghiệp của tôi gục ngã. Hắn nghĩ ông ấy lết đi chỗ khác rồi chết, cho nên họ đã bỏ đi rồi.”
“Vậy là họ không tìm thấy Asa,” Olivia nói.
“Đúng thế. Nhưng khi tôi tới, định báo với con trai là cha nó đã … chết,” bà nhắm mắt và gương mặt nhăn nhúm lại, “thì Asa đã đâu mất. Hang của nó trống trơn, cánh cửa chấn song để mở khóa. Bọn họ đã chuyển nó tới nơi sâu hơn trong lòng đất, tôi biết thế, để tiếng tru của nó không còn bị nghe thấy nữa.”
“Bọn họ là ai, bác Pike?” Olivia hỏi. “Phải bác là bà Pike không ạ?”
Người phụ nữ lộ vẻ ngạc nhiên. “Đúng, đó là tên tôi.”
“Gia đình Bloor bắt Asa phải không ạ? Charlie hỏi.
“Đúng, bọn chúng.” bà hằn học.
Bọn trẻ nhìn nhau. Chúng nó đi giải cứu Asa, nhưng hóa ra lại tìm thấy mẹ anh ta, người xem ra cần được giúp đỡ không kém gì Asa.
“Cháu nghĩ tụi cháu nên đưa bác tới nơi … đến nới an toàn nào đó, bác Pike ạ,” Charlie nói, “Để đề phòng đội đi săn trở lại. Nhà của bác ở đâu?”
“Xa, rất xa.” Bà Pike bỗng khật khà khật khưỡng. “Không thể trở về, khi mà con trai của tôi ở đây, bị nhốt đâu đó.”
Olivia đứng lên. “Bác Pike ạ, bác không thể ở trong vung đồng hoang được. Bác sẽ bị gió thổi chết mất. Và như Charlie nói, rất có thể đội đi săn sẽ trở lại.” Giờ đã biết tên người phụ nữ, Olivia nói như thể bà là một người bạn.
Bà Pike trả lời bằng một nụ cười thiểu não. “Tôi không thể bước nổi. Tôi bị ngã khi chuyển chồng tôi. Mắt cá chân của tôi bị trẹo rất nặng.”
“Càng lúc càng tệ hơn,” Benjamin lầm bầm.
Hạt Đậu tru lên thống thiết. Nó vẫn ở đầu kia trảng trống, không hiểu chuyện gì mà nhốn nháo vậy.
Charlie mải miết suy nghĩ. Chỉ có một nơi duy nhất chúng có thể đưa bà Pike tới: quán Cà Phê Thú Kiểng.
“Cháu biết người sẽ chăm sóc bác,” Charlie nói. “Tên ông ấy là Onimous. Giờ cháu sẽ đỡ bác dậy. Olivia, qua bên kia giúp bác Pike.”
Bà Pike không phản đối khi bọn chúng xốc bà đứng dậy trên cái chân lành lặn, nhưng bà rên thảm thiết khi chúng kéo bà ra xa khỏi nấm mồ.
Chúng quyết định không trở về lối cây cầu đá. Giờ này lối đi đó nhộn nhịp người qua lại. Chúng buộc phải dùng cây cầu sắt nguy hiểm. Không ai trong chúng nặng lắm, nếu cẩn thận thì có thể băng qua an toàn. Quán Cà Phê Thú Kiểng không xa cầu, và nếu may mắn chúng sẽ tới nơi trước khi ai đó nhận ra con người kỳ quái cà nhắc giữa chúng.
Chúng tìm lại được lối mòn, và chẳng bao lâu sau, khi rừng cây bắt đầu thưa đi, chúng thấy có hai hàng cột rào gỗ xù xì ở đằng trước. Charlie biết cả bọn đã tới ngôi nhà của ông Bartholomew Bloor. Khu bảo tồn thú hoang.
Dìu bà Pike, chúng lết vô mảnh sân từng có lần đầy ắp thú. Giờ đây vắng tanh vắng ngắt.
“Đây là đâu?” Olivia hỏi.
“Bạn tớ, Naren, sống ở đây,” Charlie nói. “Cha bạn ấy không giống như những người nhà Bloor khác. Ông ấy ghét hị. Ông ấy cảm thấy an toàn khi sống tách biệt thành phố, nhưng vẫn gần lâu đài của Vua Đỏ. Ông muốn giữ bí mật nơi này. Chắc ông đã cùng gia đình rời đi ngay sau khi nghe tiếng đội đi săn tiến vô vùng đồng hoang.”
“Tôi biết họ,” bà Pike nói khàn khàn. “Họ rất tốt với chúng tôi. Tới xem đi, cậu bé. Coi chừng họ đã đi thật chưa.” Bà giãy khỏi Charlie và dựa vô thanh hàng rào trên cùng.
Charlie chạy tới ngôi nhà và nhìn qua cửa sổ. Cái bàn còn đó, cả hai chiếc ghế, nhưng mọn thứ khác đều biến mất: Tranh ảnh treo trên tường, bóng đèn, ấm đun nước, nồi niêu xoong chảo, bộ tách sứ và đồ lưu niệm mà ông Bartholomew đã sưu tầm trong những chuyến chu du đây đó của mình. Tất cả đều không còn.
“Không còn ai ở đó,” Charlie nói, bước trở lại nhóm người.
Bà Pike lại rền rĩ. “Ôi, không, không. Rồi họ sẽ ra sao? Đây là nơi rất tốt, họ rất tử tế.”
Bất giác Charlie hiểu ra tại sao bà Pike lại quan tâm đến ông Bartholomew và gia đình ông đến thế. “Bà đã sông ở đây phải không?” nó nói.
Bà Pike gật đầu. “Ở trong nhà kho, một thời gian.” Từ sâu trong cuống họng bà bật ra một âm thanh kỳ cục, đầu bà bổ tới trước và bà bắt đầu tuột luốt xuống đất.
Olivia chụp lấy bà, vừa kịp lúc. “Bác ấy xỉu rồi. Ai đỡ tay bác ấy mau. Sẽ không dễ đâu.”
Đúng là không dễ. Làm sao có thể nhấc và kéo bà Pike đi tới tận cầu, Charlie không bao giờ biết. Người phụ nữ tội nghiệp hơi tỉnh lại, lết đi được một chút, sau đó xuội lơ trong cánh tay chungd như một xác chết. Cuối cùng khi chúng tới cây cầu, Charlie đau nhừ toàn thân, và nó thấy bọn bạn cũng nhừ tử hệt như mình. Thế nhưng nỗi khó khăn của chúng xem ra mới chỉ bắt đầu.
“Không an toàn,” Olivia tuyên bố, nhìn trân trối vô thanh sắt mỏng manh khuất lấp trong sương mù.
“Được mà, Liv. Mình đã đi qua nhiều lần rồi,” Charlie nói. “Benjamin cũng thế … cả Hạt Đậu luôn.”
“Mấy người điên rồi,” Olivia kêu lên.
“Đó là cách duy nhất,” Benjamin chỉ ra.
“Thế còn bác ấy thì sao?” Olivia nhìn bà Pike tựa oằn trên vai Charlie.
Làm như để trả lời con nhỏ, một màn sương giá cuộn về phía chúng, là đà trên sông. Giờ thì chúng không thể thấy gì đằng trước hơn một mét. Olivia huơ huơ cây đèn pin chặn màn sươngddang xồ tới. Chẳng xuyên thủng nó được tí naog. “Vô phương,” con nhỏ van vỉ.
“Tụi mình phải mò đường mà đi,” Charlie hăng hái nói. Rốt cuộc cần phải có người lạc quan chứ. “Đi đi. Benjamin, bồ đi trước, một tau vịn lan can, tay kia nắm đuôi áo mình để dẫn đường cho mình. Mình sẽ đi giật lùi và kéo bác Pike, còn Olivia đi cuối cùng để canh chừng bác Pike không ngã lộn qua bên …”
“Và kéo cả đám tụi mình theo luôn,” Olivia nói thẳng thừng.
Không đứa nào nghĩ ra kế hoạch nào hay hơn, thế là chúng bắt đầu đoạn đường cam gobanwg qua sông. Chúng chỉ nhích được vài mét thì Benjamin thét thất thanh. “Tay vịn mất rồi … tớ không thấy … không thể thấy gì hết. Sương quá dày và … và … có gì đó không biết.”
Charlie chộp lấy đoạn thanh vịn cuối cùng trước khi mắt xích bị gãy. Tiếng gầm rú xộc đầy tai nó, và nó kinh hoàng khi thấy nước dội lên chân mình. Không thể thế này được, nó nghĩ. Dòng sông ít nhất phải mười mét bên dưới cầu. Làm sao nó dâng lên tới tận đây được. Nó sực nghĩ tới trò dìm chết người của Dagbert.
Tiếng í ới chập chờn của Olivia vọng tới Charlie. “Chân tớ ướt sũng rồi nè. Sông này có thủy triều lên xuống không đó? Đằng ấy nghĩ, đây là thời điểm đặc biệt trong năm mà nước dâng cao hay không?”
Charlie thì phân vân liệu đây có phải là thời điểm để nói dối. Nó biết con sông này không có thủy triều, nhưng nó cần phải giữ vững tinh thần của cả bọn. “Có thể,” nó ậm ừ. “Tụi mình phải bò thôi. Vậy an toàn hơn.”
“Nhưng như vậy sẽ ướt hết. Có khi chết duối,” Benjamin rú rít. “Tớ không biết miếng tay vịn tiếp theo ở đâu, hoặc nếu có thì… Ối … Ố!”
Một quầng sáng bất ngờ tỏa rực khu vực xung quanh chúng.
“Con bướm của cậu đó,” Benjamin thét. “Coi kìa, Charlie! Trên đầu cậu í.”
Charlie ngước lên. Đúng thật, dập dờn không trung phía trên nó là con bướm trắng, dôi cánh bạc phóng ra những luồng sáng rực rỡ.
“Cảm ơn!” Charlie nín thờ. “Mình chẳng biết làm sao nếu không có bồ, Clearwen!”
“Tớ thấy tay vịn rồi,” Benjamin hét. “Ờ. Nắm được rồi. Đi nào, Charlie.”
Đến giờ, tất cả ba đứa đang bò bằng đầu gối. Vậy là tốt. Charlie cảm thấy mình bay về phía dòng nước. Một tay nó túm chặt bà Pike, còn tay kia, nó bấu chặt cạnh của cây cầu.
Sợ đông cứng người lại, Benjamin không thể nhích thêm bước nào. “Tụi mình chết đuối mất thôi,” nó thét gào.
“Đúng vậy nếu tụi mình không đi tiếp!” Olivia thét lên.
Đằng sau con nhỏ, Charlie nhận ra hình thù đen đen của Hạt Đậu, đang bò chậm rãi bằng bụng về phía chúng. Cây cầu bất thần nghiêng dữ dội. Cả đám thét rùm trời khi bị trôi tuột luốt trên cầu, quýnh quíu bám vô bất kì cái gì chộp được. Có tiếng tru hãi hùng, khi Charlie nhìn qua thân hình sóng sượt của bà Pike, nó thấy Olivia, một cánh tay quặp chặt vô thành cầu, tay kia vòng ôm chặt chân bà Pike. Bên kia con nhỏ, cây cầu trống trơn.
“Phải Hạt Đậu tru không?” Benjamin thét. “Nó có sao không?”
“Đi đi, Ben,” Charlie gầm gừ.
“Không thể. Mình rớt mất.”
Cả lũ sẽ rớt, Charlie nghĩ, rồi tất cả bọn sẽ rồi đời.Nó mường tượng Hạt Đậu đang vùng vẫy chống lại dòng nước hung dữ. Chú chàng sẽ chẳng cầm cự được lâu.
Từ từ, cây cầu chao trở lại, tới khi thẳng về như cũ. Cả bọn chờ một cú giật nữa. Không xảy ra. Bỗng nhiên, thanh sắt bên dưới chúng trở nên chắc chắn và vững chãi. Khi Charlie đứng lên, nó cảm tưởng chân mình bám vô cầu như có lực từ. Tuy vậy nó có thể di chuyển khá an toàn.
“Bồ có cảm thấy gì không?” Nó gọ Benjamin.
“Có. Có. Giờ mình thấy an toàn rồi,” Benjamin đáp. “Đã có thể thấy bờ bên kia, chỗ con bướm của bồ đang bay.”
“Oa!” Olivia đứng hơi dạng hai chân ra. “Kỳ diệu chưa. Nhìn này, chân bác Pike không còn lết dưới cầu nữa.”
“Tụi mình đi đi!” Charlie ngần ngại, rầu rĩ liếc nhìn khoảng trống trên cầu đằng sau Olivia. Nó thấy chếnh chaongd vì thương tiếc. Bây giờ cả bọn có cơ hội lớn để sống sót, nhưng Benjamin sẽ phản ứng thế nào khi nó phát hiện Hạt Đậu đã rơi xuống sông?
Vùng đồng hoang vẫn chìm lỉm trong sương giá dày đặc, nhưng màn sương đang lùi khỏi mặt nước, và Charlie có thể thấy đầu kia cây cầu, nó nheo mắt lại, ráng dõi ra xa. Liệu có tin được những gì nó đang nhìn thấy kia không?
“Đằng ấy nhìn gì thế, Charlie?” Olivia hỏi.
“Có ai ở đầu cầu đằng kia,” Charlie khẽ nói.
“Đâu?” Olivia quay lại. “Ố, oa!”
“Chẳng phải tớ nhìn lầm chứ?”
“Không, Charlie,” Olivia sợ sệt. “Tớ cũng thấy ông ấy.”
Hình ảnh đó rất mờ. Hầu như nhòa trong màn trời xám xịt, ngoài tấm áo đỏ chói, không nghi ngờ gì, hoặc chiếc mũ giáp viền bạc với chỏm mũ đỏ rực.
“Một hiệp sĩ,” Charlie lầm bầm.
Benjamin ngoái nhìn lại. Nó quá trễ để nhìn thấy hiệp sĩ, bởi vì ngài đã biến vô màn sương. Tất cả Benjamin thấy là cây cầu trống lỗng.
“Hạt Đậu đâu? NÓ RƠI RỒI!” Benjamin gào lên. Nó lao trên cây cầu, nhảy phóc tới mặt đất khô ráo và chạy dọc theo bờ sông, cạnh dòng nước xoáy trào.