Charlie Bone và sói hoang (Tập 6)

Lysander và Lauren
“Vua Đỏ!”Charlie dâng trào một niềm hi vọng khôn tả. “Dĩ nhiên rồi. Còn ai ngăn cây cầu khỏi dìm chết tụi mình? Còn ai cứu Hạt Đậu vô đây?”
Olivia nghi hoặc. “Nhà vua là một cái cây mà,Charlie. Tụi mình đã thấy ngài rồi. Bây giờ ngài vĩnh viễn là một cái cây.”
“Chúng ta không chắc chắn điều đó”. Charlie nhìn ông Onimous. “Phải không ạ,ông Onimous?”
Người đàn ông nhỏ bé xòe tay ra. “Chúng ta làm sao biết được,Charlie? Trong thành phố này bất kì điều gì cũng có thể xảy ra. Giờ ta phải chăm lo quán đây. Bà Pike,bà cứ ở đây nhé,chúng tôi sẽ thu xếp cho bà sau”. Ông phóng vù ra khỏi bếp,mang theo một khay đựng bánh quy dành cho chó và mấy tô hạt cho chim.
Bà Pike lắng nghe mọi người bàn luận với nếp nhăn mỗi khoảnh khắc mỗi hằn sâu thêm. Nhắc tới Vua Đỏ không làm bà khuây khỏa hơn. “Tôi nằm ngoài sự cứu vớt”,bà rầu rĩ. “Gia đình Bloor nhất định muốn tôi phải chết. Tôi đã không tìm được cái hộp,trong khi chỉ biết về nó thôi cũng đã đóng dấu số phận tôi rồi. Tôi đã không hề hó hé cho một mống nào cả. Rồi họ sẽ đoán ra tôi đã nói với các vị. Họ muốn dìm tôi chết đấy,Charlie,không phải là cậu hay bạn bè cậu đâu”.
“Đó chỉ tại dòng sông nó vậy thôi,bác Pike”,Olivia nói rất khoát. “Không ai chủ ý dìm bác chết đâu. Ý cháu muốn nói là,ai mà phát hiện ra tụi cháu vào lúc sớm bạch như vậy,lại trong sương mù nữa?”
Bà Pike không thể nguôi ngoai. “nếu Asa còn sống,họ sẽ lại rắp tâm hại nó. Dù gì nó cũng là người hóa thú”. Bà hỉ mũi một phát nghẹt thít khiến Hạt Đậu lùi phắt vô góc phòng và gừ hộc lên. ‘Trời ơi,con chó sợ tôi,mà trong đời mình tôi có làm hại một con thú nào bao giờ”.
“Không phải nó sợ đâu ạ,tại nó bối rối đấy”,Benjamin nói,cố ra vẻ lễ phép.
Nhưng tiếng sủa của Hạt Đậu từ trong quán vọt ra liền kéo theo hàng tràng tiếng mèo ngoao,một tiếng ngựa hí và một tiếng hét lặp đi lặp lại, “Bớ chó! Bớ chó!”
Không nghi ngờ gì về cái kiểu gọi quen thuộc ấy. Đó chính là tiếng của Homer,con vẹt của Lysander. Charlie,Benjamin và Olivia liền chào tạm biệt bà Pike,Charlie hứa với bà cho dù chuyện gì xảy ra thì Asa cũng sẽ được cứu sống.
“Bác sẽ an toàn ở đây,bác Pike”. Olivia ôm siết lấy người phụ nữ đau khổ. “Gia đình Onimous rất tuyệt vời”.
Ba đứa trẻ nối đuôi nhau ra khỏi nhà bếp,hiện ra ngay phía sau quầy của quán. Đứng đối diện bên quầy là Lysander và một cô gái tuyệt đẹp có một con vẹt đậu trên vai. Còn con vẹt của Lysander vắt vẻo trên đầu anh ấy.
“Chào,đám nhóc”,Lysander nói. “Đây là Lauren…ờ,còn đây là Cassandra”.
“Chị là Lauren,nó là Cassandra”,cô gái nói,đập đập vô chân con vẹt. “Các em ngồi chung với bọn chị chứ?”
Có vẻ là một ý thú vị đấy. Ba đứa bèn bước vòng qua quầy và ra xếp hàng.
“Bồ nợ tớ một thanh kẹo mềm sô-cô-la đó”,Olivia nhắc Charlie.
“Bồ xứng đáng được hai”,Charlie nói,kiểm tra túi coi có đủ tiền không.
Quán Cà Phê Thú Kiểng tấp nập người và thú. Chắc có lẽ trong những ngày u ám,lình xình,thú cưng cũng cần đàn đúm và giao tiếp xã hội hệt như chủ chúng vậy. Trước khi đến được cái bàn trống duy nhất,năm đứa phải nhảy qua vô số mèo,thỏ,phải ép mình lách qua một con chó khổng lồ,một con ngựa lùn bé tí tẹo và chui qua một con cú bay thấp.
“Phù ù!”Lysander thả phịch người xuống ghế đồng thời đưa tay lên vỗ trán. “Đông quá xá! Nơi này trở nên quá nổi tiếng rồi đó. Món Homer thích đã hết sạch”. Anh chuyền một khúc bánh nướng cho con vẹt. “Ăn đỡ cái này đi,Homer”.
Homer nhần miếng bánh vào mỏ,rồi lại thả xuống chân mà mổ một cách uể oải.
“Nơi này tuyệt quá”,Lauren xuýt xoa,nhìn quanh quán. “Ước gì anh đưa em đến đây thường xuyên,Sander”.
Charlie cố đáng giá cô gái này. Chị ấy quá đẹp. Với mái tóc đen lượn sóng và đôi má lúm đồng tiền thế này chắc chắn Charlie đã nhận ra chị nếu chị học ở Học viện Bloor. “Chị không học trường tụi em phải không?”nó hỏi.
Lysander cười phá lên. “Việc gì phải dè dặt thế,cô ấy học một trường rất bình thường,phải không,Lauren?”
“Em biết,chị học trường em”, Benjamin bẽn lẽn. “Nhưng em nghĩ là chị không để ý đến em”.
“Để coi”,Lauren nhìn kĩ Benjamin. “Á. Em là Benjamin Brown. Ba mẹ em là những thám tử tư nổi tiếng đây mà?”
“Ờm,không nổi tiếng lắm đâu”. Benjamin đỏ mặt và cúi xuống thảy cho Hạt Đậu một thanh bít-tết thứ hai.
Lysander muốn biết Charlie và đám bạn đã làm gì trong bếp nhà ông bà Onimous.
“Một câu chuyện dài lắm”,Charlie ngần ngại. Nó biết Lysander rất đáng tin cậy,nhưng không dám, chắc về Lauren.
Nhưng chẳng ai cản được Olivia. Hầu như không dừng lại để thở,con nhỏ thuật lại tỉ mỉ từng khoảnh khắc của buổi sáng suýt trở thành thảm họa của tụi nó,từ lúc chúng tiến vô vùng đồng hoang tới khi Benjamin tái xuất hiện cùng với Hạt Đậu và cọng lông chim màu đỏ.
Trong khi Lysander vẫn trầm ngâm im lặng thì Lauren trầm trồ khen Olivia có tài kể chuyện mới lôi cuốn làm sao.
“Chị không nghĩ chuyện đó có thật”,Lauren bảo Olivia, “mà nó không thể tin được,ý chị là,những người ở học viện Bloor rất là…là,thú vị,nhưng mà,hây”,chị hạ thấp giọng, “có một người không-hẳn-là-người ở ngay đây,trong nhà bếp này!”
“Thật ra,bác ấy là người”,Charlie nghiêm trang. “Chị Lauren,chị tuyệt đối không được nói cho bất cứ ai biết việc này. Đó là điều rất bí mật,rất riêng tư”.
“Cậu ấy nói đúng đấy”,Lysander nói,tựa như mộng du. “Lauren,em phải hứa là không bao giờ nhắc lại những gì em vừa nghe hôm nay,thậm chí với cả bạn thân nhất của em”.
Lauren nhìn anh ra điều hờn trách. “Lysander Sage,anh là bạn thân nhất của em. Và em hứa sẽ không bao giờ nói với một ai”.
Lauren có vẻ ngoài nồng nhiệt,không thể có gì nghi ngờ chị. Charlie thở phào nhẹ nhõm. “Anh có ý kiến gì không,Sander?” nó hỏi.
Lysander đưa một mẩu bánh khác lên cho Homer. “Em nói có thể ông Onimous biết Asa bị đưa đi đâu. Chúng ta phải chờ ông ấy nói ra cho tụi mình. Sau đó chúng ta sẽ kéo Tancred vào cuộc”.
“Tancred?”Olivia quắc mắt. “Anh ta có thể làm được gì?”
“Tancred sẽ rất quan trọng,cũng như con bướm của em vậy,Charlie”. Lysander liếc con bướm trắng đậu trên tai trái Charlie. “Nó đã cứu các em hôm nay,anh chắc chắn nó sẽ cứu chúng ta lần nữa”.
“Cả Hiệp Sĩ Đỏ”,Benjamin lặng lẽ nói. “Ngài cũng đã cứu bọn em”.
“Đúng,Hiệp Sĩ Đỏ”,Lysander tán thành.
Chúng quyết định là sẽ lại gặp nhau vào chiều hôm sau. Lysander bảo sẽ cố thuyết phục Tancred tới quán,nhưng anh không hi vọng lắm. Tracy Morsell không thích thú vật,trong khi Tancred chẳng muốn rời cô nàng phút nào.
Olivia nhận xét rằng nó thấy việc đó thật ngớ ngẩn. Lysander nhún vai và cười toét với bạn gái của mình.
Khi Lysander và Lauren rời quán,hai con vẹt của họ bổ đầu lên xuống nhịp nhàng vào nhau,như thể chúng cũng đang hẹn hò.
“Tớ tưởng Lysander lạnh lùng sắt đá cơ chứ”,Olivia rầu rầu nói.
Benjamin và Charlie bắt đầu trở về đường Filbert,trong khi Olivia hướng về phía tiệm sách cô Ingledew. Đang đi gần tới ngõ Nhà Thờ Lớn thì con nhỏ thấy một dáng người quen quen chạy thục mạng vô đường Piminy. Người khác chắc chỉ ghi nhận diện mạo đó rồi bỏ qua,nhưng Olivia thì không.
“Ế!”con nhỏ thét gọi. “Đằng ấy đi đâu đó,Dagbert Endless?”
Vài khách bộ hành ngoái nhìn Dagbert,thằng này dừng sững lại giữa đường,rồi từ từ quay lại nhìn thẳng mặt Olivia.
“Chào!”Olivia hét. “Đằng ấy sống ở đó à?”
Dagbert nhìn chòng chọc con nhỏ. Trong đôi mắt xanh biển của nó vằn lên ánh lạnh lẽo đến nỗi olivia bỗng nổi da gà.
“Thì thôi vậy”,con nhỏ tự nói,tự cáu kỉnh vì nghe giọng mình run run. “Ai quan tâm đằng ấy sống ở đâu?”đoạn đi tiếp tới quảng trường và vô tiệm sách cô Ingledew.
Đường thầy pháp
Cô Ingledew đang tiếp hai vị khách cùng mê thích một quyến sách hiếm. Cô mim cười với Olivia và chỉ tấm rèm ngăn cách phòng khách của cô.
Olivia thấy Emma bên bàn của dì nó, đang viết danh sách những tựa sách vào một quyển sổ bìa đen. Con nhỏ mừng sáng rỡ lên khi thấy Olivia. “Tớ đang lo cho bồ đi vô vùng đồng hoang trong khi trời còn tối mịt đất này, Liv.”
“Bồ mà có mặt ở đó chắc chắn bồ còn lo hơn nhiều,” Olivia ríu rít.
Cô Ingledew thò đầu qua tấm rèm và thông báo với chúng là cô vừa hoàn thành một vụ bán hàng hời nhất suốt bao năm nay. Hai vị khách thách nhau tới khi đẩy giá của cuốn sách hiếm đó lên cao ngất, và một vị phải bỏ cuộc. “Chúng ta ăn hãy mừng nào. Cô sẽ đóng cửa tiệm một lát.”
Khi cửa tiệm sách vừa đóng lại, dì của Emma rót ra ba ly rượu bổ lâu năm, và chuyền quanh. Cô Ingledew là một trong số rất ít người mà Emma và bạn bè của nó tin cậy, và ngay khi Olivia nốc hết ly rượu của mình, nó nấc cụt ba cái, xong xuôi liền sà vào câu chuyện vùng đồng hoang của nó.
Olivia có khuynh hướng thêm thắt màu mè cho câu chuyện mỗi lần con nhỏ kể lại, nhưng công bằng mà nói, câu chuyện ít nhiều vẫn chính xác.
Khi Olivia kể xong, cô Ingledew dằn ly rượu của mình xuống mà thốt lên. “Tai họa thật, Olivia. Bọn trẻ các con tự chuốc nguy hiểm vào thân. Cô thật sự mong các con không vô vùng đồng hoang nữa. Bất luận có chuyện gì xảy ra.”
“Chắc chắn tụi con sẽ không băng qua cây cầu sắt nữa đâu,” Olivia lảng tránh. “Với lại, con vừa gặp thằng Dagbert kẻ-dìm-chết-người í. Con biết, nghe thì quái đản, nhưng Charlie nghĩ chính thằng đó dính líu đến việc nước sông dâng lên quá nhanh.’
“Không quái đản đâu, Olivia. Tất cả chúng ta đều biết những gì có thể xảy ra ở nơi này.” Cô Ingledew rót thêm một ly rượu bổ nữa, chiết thêm một xíu rượu gin pha vào. “Cô không thích đường Piminy. Đã có quá nhiều biến cố xảy ra ở đó trong quá khứ.”
“Kể tụi con nghe đi, dì,” Emma nài.
Cô Ingledew nhìn đồng hồ đeo tay. “Dì phải mở cửa tiệm lại đây. Dì không muốn bỏ lỡ mối bán hàng nào hết.”
“Những chuyện gì đã xảy ra trên đường Piminy vậy? Làm ơn kể cho tụi con đi,” Olivia năn nỉ.
Cô Ingledew nhìn ly Rượu của mình. Cô cầm chai rượu bổ lên nhưng rồi lại đặt xuống. “Đó là con đường cổ nhất trong thành phố này,” co nói mà hơi rùng mình. “Trận hỏa hoạn thế kỷ 18 không bao giờ chạm tới nó. Có người nói đấy là vì có rất nhiều thầy pháp sông ở đó. Chẳng hạn như Feromel thợ rèn, Melmott thợ đá. Và có cả một thợ giày chuyên đóng những đôi giày thần kỳ, và nhiều người khác nữa với những tài phép mà dì không nhớ được. Thường ngày họ vốn hay chành chọe nhau, nhưng vụ hỏa hoạn đã kéo họ xích lại gần nhau, chỉ một ngày thôi, nhưng những cố gắng hợp tác của họ cũng đủ đẩy lùi ngọn lửa. Bây giờ tất cả họ chết rồi, dĩ nhiên.”
“Có một cửa hàng bán ấm đung nước,” Emma đăm chiêu nói. “Charlie được cho một cái ấm quái chiêu ở đó.”
“Vậy à?” cô Ingledew tỏ vẻ quan tâm, nhưng có người gõ cửa tiệm và cô tần ngần rời khỏi bọn con gái để đi ra tiếp khách hàng.
Olivia thường ở lại tiệm sách đêm thứ Bảy. Mẹ nó, một minh tinh lẫy lừng, không thể lúc nào cũng ở nhà trong khi đang đóng phim. Xem ra Olivia chẳng buồn việc đó tí nào. Nó khoái ngủ chung với Emma trong căn buồng nhỏ tẹo, mái xô nghiêng với những xà nhà thấp bằng gỗ sồi.
Đêm đó, hai đứa con gái lăn ra ngủ sớm, nhưng những biến cố khuấy động ban ngày cứ đột nhập những giấc mơ của Olivia, tới khi nó giật mình choàng tỉnh giấc, va bùm vô cái thành giường trống cảu nó.
“Gì thế?” Emma hoảng hồn, ngồi dậy.
“Chỉ là tớ thôi,” Olivia rên rỉ. “Tớ không sao ngủ yên được, Em. Tớ cứ nghĩ lan man đến những việc đã xảy ra hồi sáng. Trong đầu tớ biết rõ, đường Piminy sát đây vẫn đang có những trò phù thủy ếm bùa diễn ra.”
“Tớ hiểu ý bồ rồi.” Emma kéo tấm trải giường lên tận cằm. “Đặc biệt là nếu Dagbert-dìm-chết-người ở đó.”
“Tụi mình thử nhìn một cái xem sao, chỉ để thỏa trí tò mò thôi?”
Không muốn tỏ ra là kẻ hèn nhát, Emma miễn cưỡng lào thào. “Ừ.”
Có một ô cửa sổ nhỏ trổ giữa những thanh xà đằng sau giường Emma. Với người cao dưới mét tám, nó chỉ lộ ra một khoảng trời, nhưng khi Emma đứng lên đệm gối, nó có thể thấy mảng sau của những ngôi nhà trên đường Piminy.
Olivia leo lên giường của Emma và cả hai cùng kiễng chân trên gối.
Một ngõ hẹp chạy giữa sân sau của những ngôi nhà đường Piminy và ngõ Nhà Thờ Lớn. Một ngọn đèn đường đơn côi tỏa ánh sáng lù mù xuống những bức tường gạch, thùng rác, bịch rác và những bãi cỏ luôm nhuôm. Bọn con gái đang đảo mắt khắp khung cảnh rờn rợn xem có gì đáng lưu tâm thì có một vuông sân khiến chúng chú ý. Không gian nhỏ rải sỏi đó chen đầy những khối hình màu xám, hắt bóng quái rợn lên các bức tường.
“Có nhiều người,” Olivia nói thầm, “làm bằng đá.”
“Tất cả đều gãy bể,” Emma nhận xét.
“Hoặc chưa làm xong. Một người đàn ông không có đầu, và một phụ nữ không có cánh tay…”
“Cả thú nữa,” Emma hăng hái thêm. “Một cái đầu sư tử, một con ngựa trông như thật, ngoại trừ…”
“Nó không có đuôi. Tớ thích con chó khổng lồ chỉ có hai chân kia.”
“Nó đang ngồi, nhìn kìa, bồ có thể thấy một bàn chân sau của nó.”
“Ừ đúng rồi.” Olivia chụp cánh tay bạn. “Em, bồ có nghĩ chúng do cái ông thợ đá già đó làm ra không, tên ông ta là Melmott hay gì gì đó.”
“Ờm, nếu đúng vậy chăng nữa, ông ta cũng không thể ở đây để làm cho chúng sống dậy.” Tiếng cười của Emma hơi dối lòng, bởi vì con nhỏ không chắc điều này là thật.
Bất thình lình, một quầng sáng rực màu cam lóe lên, thắp sáng bức tường cách sân nhà ông thợ đá vài căn.
“Đó là gì vậy?” Olivia leo lên thành giường nhìn cho rõ hơn. “Tớ nghĩ ai đó vừa mới nhóm lửa. Ước gì tớ có thể thấy rõ hơn. Coi kìa, lại một chớp sáng nữa.” Olivia nhảy xuống gối. “Tụi mình đi xem đi?”
Emma lắc đầu. “Khuya lắc khuya lơ rồi. Tụi mình không thể đi rình mò đêm hôm được. Với lại có thể là lửa đốt củi nhà ai ấy mà. Đốt củi trong lò sưởi đâu phải là phạm pháp.
“Vào giờ này trong đêm? Nhỡ có hảo hoạn thì sao? Những căn nhà cũ này sẽ bị cháy rụi như gỗ diêm. Tụi mình phải đi tìm hiểu coi có chuyện gì đang diễn ra.”
“Để tớ tìm hiểu được rồi,” Emma nói.
Olivia chỉ thấy lờ nhờ nét mặt bạn. Trông Emma cực kì nôn nao.
“Ý bồ là … bay?” Olivia thì thầm.
“Phải. Bồ phải để cửa sổ mở toang ra.” Emma thế chỗ của Olivia trên thành giường. Đầu và vai nó lúc này nhô lên khỏi bệ cửa sổ. Nó hít một hơi thật sâu và tưởng tượng mình đang vút lên những vì sao. Tưởng tượng đôi cánh đen vỗ trên nền trời xanh thẫm như nhung… giờ nó đã cảm nhận chúng, mạnh mẽ và dễ điều khiển, đang nhấc bổng mình lên cao, cao, cao!
Đứng tì cả cánh tay vô cửa sổ mở rộng, Olivia nghe thấy tiếng lách rách khẽ khàng của lông mới hình thành. Nó cảm thấy một luồng khí quét qua mặt, sau đó thấy hai dải cánh đen quạt vào bầu trời khuya. “Chúc may mắn, Em,” nó nói.
Emma bay phía trên con hẻm cho đến khi nó tới mảnh sân sáng nhờ những chớp lửa lóe sáng lên từng chặp. Nó đậu trên một bức tường, nhìn xoáy vô cửa sổ nhỏ, rực những tia lửa và chớp sáng. Nếu muốn tìm nguồn phát ra thứ ánh sáng tựa pháo hoa đó thì Emma phải bay lại gần hơn.
Hít một hơi thật sâu, lúc này phải huy động lòng can đảm hơn bất kì thứ gì khác, Emma đâm bổ qua sân và đậu xuống cái gờ hẹp bên ngoài khung cửa sổ sáng choang. Ô kính cửa đọng chi chít những giọt nước. Phía bên kia những giọt nước lấp lánh, một cảnh tượng kì lạ trải ra trước mắt Emma.
Ở chính giữa phòng, một người cao lớn, đầu trùm nón bảo hộ bằng kim loại có kính che mắt. Người này mặc bộ áo liền quần màu xanh dương bẩn thỉu, đeo găng dài bằng da, nhưng nhìn dáng điệu có vẻ là một phụ nữ.
Một lò rèn cháy bùng, bốc ra khói mù mịt cùng với những lưỡi lửa khi người phụ nữ sọc mạnh cây kẹp khổng lồ vô giữa lò. Bà rút ra một vật dẹp, dài, mỗi xăng-ti-mét của nó đều rừng rực một tia lửa đỏ lóa. Cầm chặt cái kẹp, người phụ nữ đặt món đồ lên một khối sắt các cạnh lõm vào: một cái đe, Emma đoán vậy.
Đi tới một hàng kệ, người phụ nữ lấy một cái búa thật lớn và bắt đầu quai vào thanh kim loại lóe sáng. Chát, chát, chát! Tiếng búa dội âm vô tường, trong khi những cái bóng hiện ra rồi biến mất theo ngọn lửa lóe lên rồi tắt lịm.
Kim loại đập vô kim loại không phải âm thanh duy nhất Emma nghe thấy. Lồng dưới tiếng chan chát, một giọng ề a bắt đầu cất lên, không nhạc điệu, nhưng sau đó lại cùng nhịp với nhịp búa, nghe âm âm, trầm đặc, không thành lời, cơ hồ như đang ếm bùa.
Đến giờ thì Emma có thể thấy rõ vật gì nằm trên cái đe. Định hình bên dưới quai búa là một thanh gươm sáng chói. Lưỡi gươm mỏng như dao cạo, mũi gươm sắc đến nỗi hình như nó xuyên thủng bóng tối.
“Một thanh gươm,” Emma nín thở. Ai, vào ngày này và thời đại này, lại muốn một thanh gươm? Ai lại cần gươm? Người thợ rèn này rõ ràng không phải lag Feromel, vậy bà ấy là ai?
Emma lướt khỏi bậu cửa sổ và bay đến đậu trên một bức tường. Mừng quá, không có nguy hiểm đe dọa những ngôi nhà xung quanh. Lửa chỉ ở gọn trong lò rèn thôi. Mọi người đều có thể an tâm ngủ ngon trên giường của mình. Thế nhưng có rất nhiều điều phải suy ngẫm.
Emma thấy Olivia đang kiên nhẫn đợi bên cửa sổ, nó liền bay về kể cho bạn nghe về thanh gươm và người thợ rèn.
“Một thanh gươm?” trong cơn phấn khích, Olivia trượt khỏi thành giường. “Úi da!” Nó lại reo lên. “Giờ bồ sẽ vô nhà đó chứ, Em?”
“Tớ muốn xem mặt trước của những căn nhà kia thế nào,” Emma nói. “Tớ không có nhiều cơ hội là chim đâu. Tớ phải tận dụng nó.”
Olivia không chắc đó có phải là ý kiến hay. Nếu bọn thầy bùa vẫn còn sống ở đường Piminy thì rất có thể có kẻ sẽ nhận ra một con bé trong lốt chim. Nhưng đêm nay Emma đang nổi máu phiêu lưu. Trước khi Olivia kịp can ngăn, Emma đã vút lên, bay qua mái ngói uốn cong nhà người thợ rèn và tuôn vô đường Piminy.
Mặt trước xưởng rèn mới kinh ngạc làm sao. Trưng bày trong cửa sổ là đủ loại, đủ kiểu ấm đun nước trông giản dị, quê kệch- cái lớn nhất làm bằng đồng, sáng đến nỗi nó hắt ánh sáng màu nhạt xuống con đường rải sỏi. Không một dấu tích bào hiệu về một người thợ rèn đang kéo bễ bên lò rực cháy ở đằng sau tòa nhà.
Emma đậu trên một cột đèn đường và khảo sát dãy nhà cổ kính. Đường Piminy ôm giữ một bầu năng lượng kỳ bí. Không khí lạn rạn những âm thanh câm nín, khơi dậy lên những cảm xúc mãnh liệt. Emma chỉ muốn bay trở lại chốn an toàn nơi tiệm sách, nhưng nó thấy mình dấn sâu hơn vô con đường. Luồn qua những hàng cây, liếc nhìn những cửa sổ và thấy lũ chuột nhắt chạy nhốn nháo tìm chỗ núp. Khúc này một con mèo vồ mồi, quãng kia một con chó sủa ông ổng. Chẳng phải Olivia nói đã thấy Dagbert Endless chạy tới đây sao? Chắc là tiệm bán cá có tấm biển nham nhở treo trên tường kia chăng? Đậu trên tấm biển lôi thôi ấy, Emma ngó vô cửa sổ phía trên. Có một khe hở nhỏ giữa các tấm rèm giúp nó nìn được căn phòng. Emma nín thở, thật kỳ quái, mọi bức tường đều cuồn cuộn ánh lên những sắc màu thủy cung, và trên giường có ai đó, mặt phát sáng, đang nằm.
Cố kìm tiếng kêu kinh hãi, Emma lao tới đậu trên một cái cây gần đó, vừa rỉa lông vừa lắng nghe tim mình đập bưng bưng. “Dagbert. Dagbert kẻ-dìm-chết-người,” nó líu nhíu một mình.
Một con cú đậu trên cành cây bên đường đối diện rúc lên, ra điều muốn phàn nàn. Mi phải ngủ mới đúng, màn đêm là độc quyền của loài cú.
Emma im thít. Từ từ định thần lại. Nó đã thấy quá đủ cho một đêm. Nếu các nhà khác cũng chứa chấp bọn ma thuật hiểm độc thì nó cũng chẳng muốn biết về họ. Nó xồ ra khỏi cây … và rơi đuồn đuột trong nỗi kinh hoàng. Chắc hẳn nó đã rơi bẹp xuống đất rồi nếu như không cố bíu được một cành cây vào phút chót.
Đúng khoảnh khắc ấy, bên dưới Emma có một thằng bé đang đứng. Nó nhận ra thằng này, Eric Shellhorn. Thằng bé không đứng một mình. Khi Emma ngó xuống qua những cành cây, một bóng người xông ra khỏi bóng cây. Hắn đeo mặt nạ, lòi ra đôi mắt viền bạc lấp lánh.
“Làm đi!” chiếc mặt nạ ra lệnh.
“Đây!” Eric lặp lại ỉu xìu.
Thằng bé con bước về phía một trong những cửa hàng. Emma không thể thấy gì phía bên kia cửa sổ tối thui của cửa hàng đó. Eric dừng lại. Nó đang nhìn từng trừng vô cánh cửa. Tập trung cao độ đến mức có những làn sóng li ti gợn rập rờn trong không trung.
Thình lình, cánh cửa bật mở và một người đàn ông bằng đá bước ra. Dáng đi của người đá nặng nề và lập chập, chân nhấc thật cao và đầu gối gập lại, kêu rệu rạo. Mỗi bàn chân đá nện xuống, một tiếng thịch đơn điệu rung chuyển mặt đất, hệt như tiếng đại bác từ đằng xa vọng về.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui