Tấm vải liệm teo rút
Billy hối hận về quyết định nghỉ cuối tuần trong trường của mình ngay sau khi những đứa trẻ khác ra về hết. Nhìn lão Weedon đóng rồi cài then cánh cửa nặng nề, nó liền bị nỗi cô đơn xâm lấn. Giờ nó thậm chí còn không có Rembrandt bầu bạn nữa.Có lẽ bà bếp trưởng đã tìm cách cho con chuột vô trường. Nghĩ vậy khiến Billy tươi lên tí chút và nó tức tốc đi tìm bà bếp trưởng.
Billy ngó vô mọi căng-tin và nhà bếp,kể cả nhà bếp xanh lá cây của mụ Weedon-mụ ta đang úp xoong nồi loảng xoảng xuống chỗ phơi bát đĩa cho ráo nước.
“Bà có thấy bà bếp trưởng đâu không?”Billy rụt rè hỏi.
“Không!”người đàn bà bị thịt quát.
Vào những ngày khác,lời đáp như thế có thể đuổi Billy lút cút chạy đi một nước.Mụ Weedon luôn khiến nó sợ hãi,nhưng hôm nay nó vẫn đứng chôn chân tại chỗ. “Bà có biết bà ấy ở đâu không?”
“Không biết. Hôm nay tao trực”.
Billy ho một tiếng thắc thỏm. “Ừm. Cháu sẽ đến đây ăn tối nhé?”
“Một trái trứng”,mụ ta hậm hực. “Ở đây.6 giờ đúng duýt. Tao không phải hầu mày. Không ai bảo tao cả”.
“Cháu xin lỗi”, Billy lùi ra.
Còn hơn một tiếng nữa mới tới bữa tối. Và sau đó là gì? Lên giường,nó nghĩ. Billy đi lên phòng ngủ chung và bắt đầu đọc lần thứ năm quyển Những đứa trẻ của khu rừng mới. Nó đang đọc tới đoạn ngôi nhà của bọn trẻ bị cháy rụi,thì chợt nghe có tiếng cào cửa.
“May Phúc!” Billy vùng ngay dậy và chạy ra mở cửa. Nó mừng húm khi thấy con chó già đến nỗi quỳ thụp xuống mà ôm chầm lấy con chó.
“Bà bếp trưởng đâu?” Billy hỏi,bằng tiếng ụt ịt trầm trầm.
“Sợ!”May Phúc sủa.
“Tao biết. Bà ấy sợ thằng người cá. Nhưng bà ấy đâu?”
Đầu May Phúc gục rũ.
“Bà ấy ở trong phòng của bà ở cánh Đông hả?”
Con chó già thở khò khè-hay là nó thở dài?Billy không chắc. “Đi,tụi mình đi tìm nào”.
Billy không bao giờ biết cửa nào,trong bao nhiêu cửa ở tầng bốn,là phòng của bà bếp trưởng,nhưng nó biết chắc May Phúc sẽ dẫn mình đến đúng cửa. Sau khi leo lên hai dãy cầu thang và đi lò mò qua mấy cái hành lang tối,dội âm,cuối cùng chúng tới một cánh cửa không sơn phết,có một đôi giày đi bộ nhỏ đặt bên ngoài.
Billy gõ cửa. Không lời đáp. Nó mở cửa kêu một cái két và ngó vô. Một chiếc tạp dề sạch sẽ nằm trên một cái giường ngăn nắp. Trong phòng có ghế,tủ ngăn kéo,và tủ đựng chén đĩa. Một tấm thảm mòn xơ xác bên cạnh giường là thứ duy nhất làm êm bàn chân trần dưới sàn lót ván nứt nẻ. Một đôi dép lê đặt ở cuối giường. Trông còn mới.
Billy nhìn May Phúc. “Tao không tin bà bếp trưởng sống trong căn phòng này”,nó nói bằng một tràng sủa nhẹ mà nó biết May Phúc hiểu.
Phản ứng duy nhất của May Phúc là nghiêng đầu.
“Gì đó? Trông mày lo lắng vậy,May Phúc. Có gì mày chưa nói với tao. Hay là tụi mình không còn là bạn nữa?”
“Bạn!Bạn!Đúng”,May Phúc sủa. “Trốn tìm”.
“Được. Tụi mình sẽ chơi sau”.
Trốn tìm là trò chơi May Phúc ưa thích nhất,bởi vì nó chơi trò này cực giỏi. Mũi nó luôn dẫn thẳng tới chỗ Billy núp. Mặc dù,thỉnh thoảng, để thêm phấn khích,nó giả bộ khứu giác của nó tạm thời không theo ý nó.
Billy và May Phúc chơi trong những hành lang vắng lặng và những phòng ngủ chung cho tới gần 6 giờ,khi Billy vội vã xuống căng-tin xanh lá cây.
Quả trứng đang đợi nó-một quả trứng luộc lại,chỏng chơ trên đĩa,bên cạnh một lát bánh mì mỏng dính. Một mẩu giấy trên bàn nhắc: “Ăn xong rửa đĩa”.
Billy bóc quả trứng lạnh ngắt mà nghĩ đến những quả trứng lòng đào nóng hổi ngoại Maisie dọn cho nó khi nó ở nhà Charlie. May Phúc rầu rĩ chầu chực nhìn Billy ăn quả trứng nguội và miếng bánh mỏng.
“Ngon?”con chó già nua hỏi.
“Kinh tởm”, Billy nói. Nó đi vô bếp,rửa đĩa xong rồi đặt lên chỗ úp bát.
“Gì tiếp?” Billy hỏi May Phúc.
“Trốn tìm”,May Phúc đáp
Thế vẫn hơn ngồi chóc ngóc một mình trong phòng ngủ chung.
May Phúc xí đi trốn trước. Chúng bắt đầu ở tiền sảnh. Billy nhắm mắt lại, đếm đến một trăm. Nó có thể nghe tiếng móng chân May Phúc lạch cạch đi lên cầu thang chính. Tới chiếu nghỉ Billy chắc chắn tiếng móng ấy quẹo trái,sau đó chúng hoà tan vào bầu tĩnh mịch bao trùm khắp toà nhà.
“Một trăm”,Billy nói trong lồng ngực,và nó bắt đầu đi lên cầu thang.
May Phúc không thể nào mở được cửa và nó cũng hiếm khi mất công đóng cửa lại, thế cho nên Billy bỏ qua những cánh cửa đóng im ỉm ở lầu hai và lầu ba. Chỉ có các buồng tắm là May Phúc có thể vô được, nhưng không buồng tắm nào có nó cả.
Trong khi ì ạch leo lên một trong rất nhiều cầu thang, Billy chợt nhận ra mình đang hướng lên gác mái, và lập tức tim nó thót lại. Lão Ezekiel đã từng hay cho nó sô-cô-la trong một căn phòng thắp đèn khí ở trên gác mái. Lão dùng sô-cô-la để phỉnh phờ Billy và hứa chẳng lâu nữa cha mẹ tử tế,tốt bụng sẽ đến nhận nó làm con nuôi. Có điều họ không bao giờ đến. Và sô-cô-la và những lời hứa cũng hết khi Billy kết bạn với Charlie Bone.
Billy lên tới đỉnh cầu thang và hít ngửi không khí. Mùi ô thiu và ẩm mốc. Những bóng đèn khí đặt trong lồng sắt toả ánh sáng lù mù,run rẩy xuống hành lang hẹp.
“Mình sẽ không tới đó đâu”,Billy tự nhủ. Nhưng rồi nó thấy một cái bóng vụt qua một cánh cửa khép hờ. Tao sẽ cho mày thêm một cơ hội nữa, May Phúc, nó nghĩ,và nó kiễng gót,rón rén hết sức,vô căn phòng tối thui đằng sau cánh cửa.
Thật ngạc nhiên, Billy nhận thấy sàn nhà của căn phòng được thắp sáng bằng những hàng ánh sáng mỏng mảnh. Thì ra là những khe nứt dưới ván sàn cũ đã để cho ánh sáng từ căn phòng phía dưới rọi lên. Tò mò muốn biết cái gì dưới ấy, Billy cẩn thận nằm sấp xuống sàn và hé một mắt vô một lỗ hổng lớn. Cảnh tượng trông thấy khiến nó thở hốc lên kinh hãi.
Thẳng ngay bên dưới nó,Manfred Bloor đang nằm trên ghế xô pha bọc nhung đỏ. Đầu hắn gối lên một cái gối lụa và mắt hắn phủ kín trong bầy bọ màu cam. Cố nén tiếng thở hốc nữa,Billy chong mắt ngó những sinh vật nhỏ li ti đang bò lúc nhúc. Bên dưới chuyển động oằn oại của chúng, bộ mặt tái mét cảu Manfred đang biến đổi. Nếu Billy có thể tin vào mắt mình, thì những vết sẹo của Manfred đang mờ đi.
“Bọ phép thuật”, Billy thì thầm một mình.
Lờ đờ, run lẩy bẩy,Billy ngóc đầu lên, nhưng trước khi nó kịp đứng dậy, có tiếng quát tháo ở cửa. “Chúng ta có gì ở đây thế này?”
“Một thằng do thám”, vẫn cái giọng lạnh buốt đó.
Bất thình lình một tấm vải liệm màu xám ma quái bay về phía Billy, đốt xém nó trong những nếp gấp xì khói, bóp nghẹt nó cho tới khi nó cảm thấy mình không bao giờ thở lại được nữa, dìm nó vô bóng tối không gì xuyên thủng, làm nó điếc bởi hàng ngàn bầu thinh lặng, ghim chặt nó xuống sàn trong một mạng lưới thép.
Một lát sau, khi Billy không chắc mình có, nó còn sống không, nó ngửi thấy, qua cái lồng xịt khói, một mùi chó không thể sai được.
“May Phúc”, Billy khọt khẹt, “Mày đó hả?”
Đáp lại chỉ là tiếng tru tuyệt vọng, chẳng có nghĩa gì đối với Billy. Tiếp theo là một tràng gừ, sủa và rống. Billy không hiểu lấy một từ nào.
“Cứu tao với,May Phúc”,nó nói khản đặc. “Kéo cái khủng khiếp này ra khỏi người tao”.
Nó chờ, không còn tiếng sủa, không tiếng tru, không tiếng ư ử luôn, và Billy biết con chó già khụ đã bỏ rơi mình.
Nó không thể hiểu mình, Billy nghĩ, và mình không thể hiểu nó. Bọn chúng đánh cắp tài phép của mình rồi, thứ duy nhất mình có, thứ duy nhất khiến cuộc đời mình đáng sống.
Trong căn phòng bí mật của mình bên dưới khu nhà bếp, bà bếp trưởng bừng tỉnh sau một giấc ngủ chập chờn. bà láng máng nghe thấy tiếng chó rên rỉ đằng xa. Bà liền ra khỏi giường, xỏ dép lê vô và mở cửa phòng ngủ ra. Tiếng rên rỉ vẫn tiếp diễn, gằn và khẩn cấp.
Bà bếp trưởng nhấn công tắc và ánh đèn dìu dịu soi rõ một phòng khách ấm cúng. Những chiếc ghế bành thoải mái có gối căng phồng quây quanh lò sưởi nhỏ. Các bức tường treo đầy những hình ảnh sinh động, và đồ gốm sứ viền vàng lấp la lấp lánh như an ủi từ trên các kệ của chiếc tủ li cố xưa bằng gỗ sồi.
Bà bếp trưởng băng qua phòng khách và mở cánh cửa nhỏ trong góc phòng. Một buồng tối hiện ra. Bà mở một cánh cửa nữa ở cuối buồng, thì thấy may Phúc ngồi dưới chân cầu thang. Quả là căn phòng của bà bếp trưởng cực kì bí mật.
“Ừm,gì đó?” bà bếp trưởng ngáp. “Chắc là mi đánh thức ta dậy chẳng vì cái gì hết”.
May Phúc sủa. Bà bếp trưởng không thể nói được ngôn ngữ của nó, nhưng bà nhận ra vẻ cấp bách trong tiếng sủa.
“Thế thì vô mau đi, đồ chó được ban phúc”.
May Phúc không muốn vô. Nó quay lưng lại và bắt đầu núng nính đi lên cầu thang.
“Ta không đi theo mi vào giờ này đêm hôm đâu”, bà bếp trưởng thì thào, hơi bực mình.
Con chó già ngoái lại nhìn bà và tru lên một tiếng nỉ non, bà bếp trưởng linh cảm có gì không ổn rồi.
“Thế thì chờ một phút”, bà trở lại phòng lấy áo choàng. Mặc áo xong, bà đút cây đèn pin vô túi và đi theo May Phúc qua hai cánh cửa, cẩn thận đóng lại từng cánh sau lưng. Khi leo lên cầu thang bà tự trách mình sao ngớ ngẩn quá. Chắc chắn có gì mờ ám đang diễn ra trong học viện Bloor. Bà đã thấy thằng người cá và Dorcas Loom băng qua chiếu nghỉ, vào lúc tất cả bọn trẻ đã về nhà từ lâu.
Có hai lối đi vô căn phòng bí mật của bà bếp trưởng. Một bắt đầu ở buồng để chổi trong nhà bếp, nhưng May Phúc tìm một lộ trình dễ lọt qua hơn. Lên tới đầu cầu thang, bà bếp trưởng đi theo nó qua một hành lang, dẫn vòng vèo, tới tận một cánh cửa cực nhỏ. Bên cánh cửa có một ô ván ốp tường bị bong bằng đúng kích thước một con chó để cho May Phúc chui ra chui vào. Bà bếp trưởng nhướn một bên mày. Bà đã lên kí kể từ giáng sinh và nhất định sẽ không để bị kẹt trong bất cứ ô cửa dành cho chó nào. Bà mở cánh cửa nhỏ ra và đẩy khẽ một cái tủ chẹn ngay trước nó. Ép mình lách qua giữa cái tủ và cánh cửa, bà bếp trưởng vô một hành lang trải thảm. May Phúc đang chờ bà sẵn.
“Giờ sao?” bà bếp trưởng hỏi con chó già.
May Phúc phóng vọt đi, ở tuổi tác và kích thước của nó thì không thể phi nhanh như thế được. Bà bếp trưởng vội vã theo sau. Khi May Phúc tới khu vực gác mái rợn người, bà bếp trưởng đi chậm lại. Bà bắt đầu cảm thấy lo sợ. Bất cứ phút nào, bà nghĩ, Lord Grimwald cũng sẽ xồ ra vồ lấy mình với những sải chân kinh hoàng trong đôi ủng không thấm nước của hắn. “May Phúc”,bà rón rén gọi, “Không đi nữa”.
Nhưng con chó già lại tăng tốc, vậy là bà bếp trưởng chắc chắn có một đứa trẻ đang gặp nguy, bà liền nhớ lại lời tự hứa của mình-giữ cân bằng giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lũ trẻ nghiêng về quỷ sứ và những đứa trẻ luôn ao ước điều tốt đẹp cho nhau. Tài phép của bà bếp trưởng là gìn giữ sự yên bình.
Cuối cùng họ tới hành lang thắp đèn khí. Gừ khẽ một tiếng, May Phúc đi vô căn phòng tối mò. Bà bếp trưởng đi vài bước vô phòng thì va trúng một cái đống nằm dưới sàn. Chiếu cây đèn pin của mình xuống sàn, bà bếp trưởng thấy cái đầu trắng của Billy Raven bên dưới một chiếc khăn quàng trông như tấm lưới xám.
“Billy!” bà bếp trưởng vội quỳ xuống và hối hả tháo tấm vải mềm bó sát thân ra.
Một giọng nói từ hành lang nổi lên. “Tôi sẽ không làm thế nếu tôi là bà”.
Bà bếp trưởng bật phắt dậy và quay ra. Ánh sáng từ câu đèn pin của bà chiếu rõ hai khuôn mặt quen thuộc:Dagbert Endless và Dorcas Loom.
“Tụi bay làm gì ở đây?” bà bếp trưởng nạt. “Tụi bay đã làm gì thằng nhỏ tội nghiệp này?”
“Cho đáng đời nó” Dorcas nói.
“Đáng đời? Đáng đời cái gì? Con bé độc ác”, bà bếp trưởng thét lên. Bà cảm nhận con mắt của Dagbert đang xoáy vô mình và thấy chân mình mủn ra như thạch. Bà hi vọng đèn khí leo lét, không đủ cho thằng đó thấy rõ gương mặt mình, nhưng rủi thay, chính điều đó khiến cho bà thêm trẻ hơn, và nó bắt đầu nhận ra những đặc điểm của bà.
“Tôi biết bà thì phải?” Dagbert rề rà.
“Tất nhiên, ta là bà bếp trưởng”, bà quát.
“Không, ý tôi là cách đây lâu lắm kia. Tôi đã nhìn thấy hình của bà ở đâu đó”. Nó cười. “Cha tôi có nó”.
“Đừng nói nhảm”, bà bếp trưởng la nó, rồi thêm, “Cha của mi đang làm gì?”
“Ông ấy đã trở về phương Bắc. Ông ấy không thích nơi này lắm”.
Bà bếp trưởng không tin nó. “Đi nhủ đi”, bà bảo nó, “trong khi ta chăm sóc thằng bé tội nghiệp này”.
“Cấm bà làm thế”, Dorcas nói một cách cay nghiệt.
“Đúng,bà bếp trưởng. Để mặc nó đó”. Dagbert xấn xổ tiến một bước về phía bà.
“Đi ngủ ngay lập tức”, bà ra lệnh.
“Đi ngủ”, bọn chúng giễu cợt. “KHÔNG. KHÔNG ĐI”.
Bất chợt, bà bếp trưởng thấy một bóng người lù lù đằng sau đám trẻ. Suýt nữa thì bà đánh rơi cây đèn pin vì sợ hãi. Chắc mẩm Lord Grimwald đang phăm phăm đi tới. Nhưng không phải.
“BỌN BAY HÃY LÀM NHƯ ĐƯỢC BẢO!” giọng người đó gầm vang.
Đồng thời hai đứa trẻ bị túm cổ áo và giật mạnh ra sau.
Bà bếp trưởng nhấc cây đèn pin lên một chút. Bà mỉm cười vừa ngạc nhiên vừa nhẹ nhõm cả người. “Giáo sư Saltweather!”
“Chào bà bếp trưởng!” giáo sư Saltweather giữ hai đứa trẻ quẫy đạp chỉ bằng một nắm tay vững chắc. “Đám trẻ này quấy rầy bà phải không?”
“Đúng thế. Bọn chúng đã làm cái gì khủng khiếp lắm với Billy Raven đáng thương này”.
“Thằng đó ớn xương”, Dagbert rống gào. “Ông không biết ông dây vào cái gì đâu, đồ ngốc già”. Nó co giờ đạp một phát thẳng cánh vô ống quyển giáo sư Saltweather.
“Thôi ngay!” ông thầy dạy nhạc gầm.
“Tôi sẽ làm điều tôi thích”, Dagbert the thé. “Chúng tôi được phép rồi”.
“Không phải với ta”, giáo sư Saltweather nói. “Nào,hãy trở lại cái giường khốn khổ của chúng mày đi”.
Thả Dagbert và Dorcas ra, ông đẩy cả hai đứa một phát về phía cầu thang.
Dagbert đứng lì lợm tại chỗ. Nó trừng đôi mắt thủy quái ra nhìn giáo sư Saltweather. Một làn mây luộn cuộn bao quanh vị giáo sư và bắt đầu tràn lấp hành lang. Thậm chí cả Dorcas cũng lảo đảo lùi lại,ho dữ dội.
Bà bếp trưởng thấy mình không thể thở nổi. Mây khói xộc xuống lấp đầy phổi bà và, nếu bà có thể tin vô mắt mình, có cá bơi xuyên qua tường và tảo biển lều phều trong dòng nước xanh lục khắp xung quanh bà. Lẽ nào nước dâng lên tận gác mái? bà tự hỏi.
“THÔI NGAY!” tiếng quát như sấm rền.
Giáo sư Saltweather xem ra không hề suy suyển trước làn mây ngạt thở và những hình ảnh nước.
Dagbert phọt ra cười ghê rợn. “Ông sẽ chết đuối”.
“Ta không thể chết đuối!”
Bà bếp trưởng không chắc những gì mình đã nghe. Những lời trầm sâu đó quay quay trong đầu bà. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Bà nhận thấy những con cá đang mờ đi, tảo biển héo quắt lại và làn mây tan loãng.
Dagbert đứng ở hành lang, trông hoang mang. Một con Dorcas khiếp đảm quặp chặt tay nó.
“Đi ngủ”, giáo sư Saltweather ra lệnh, lần này với giọng điềm tĩnh, rành rõ.
Hai đứa trẻ cung cúc quay đầu và chạy biến xuống cầu thang.
“Làm sao thầy làm thế được”, bà bếp trưởng ngờ vực hỏi.
“Không phải tự dưng mà tên tôi là Saltweather”, vị giáo sư cười đáp.
“Ờm”, bà bếp trưởng hít thật sâu và nhìn đăm đăm vô gương mặt phong trần và mái tóc trắng lọp phọp như bọt sóng của giáo sư. “Ông là một...một người trong chúng tôi?”
Giáo sư Saltweather mím miệng lại và đặt một ngón tay lên môi. “Tôi thích không ai biết hơn. Chính xác, tôi không phải là người được ban phép thuật, nhưng tôi có quyền năng ở những lĩnh vực nhất định”. Ông xoa hai tay vào nhau. “Nào,chúng ta hãy giải phóng chú bé này khỏi tình thế khó chịu của nó nào”.
Tấm vải liệm xám không dễ dàng bị gỡ đi. Nó cứ bám lấy những ngón tay của bà bếp trưởng và quấn quanh ống tay áo của giáo sư Saltweather. Nhiều lần họ bóc lớp sợi khỏi đầu Bily, để rồi lại thấy một lớp khác bò lên, lấp vùi thằng bé xuống nữa. Nhưng mãi giáo sư cũng gom được những lọn chỉ sau cùng và nắm chặt cái thứ xám ngoét kinh hoàng trong tay mình.
“Cái này, tôi tin là thứ mà người ta gọi là tấm vải liệm teo rút”, ông nói chắc như đinh đóng cột. “Nó teo rút ý nghĩ hơn là teo rút vật rắn”.
“Nó được dệt mà thành”, bà bếp trưởng quan sát. “Bằng kim loại rất lớn”.
“Một tài phép mà Dorcas thừa hưởng từ một trong những tổ tiên hiểm ác của nó, không nghi ngờ”. Giáo sư Saltweather vo tròn tấm vải lại như quả banh và đút vô túi quần. “Tôi sẽ tính sổ nó sau”.
Bà bếp trưởng quỳ xuống bên cạnh Billy. “Nó tỉnh rồi,con chuột con này”.
“Chuyện gì thế?” Billy rên rỉ. “Con đang tìm May Phúc thì...rồi thì...”
“Tốt nhất không nghĩ về nó nữa, Billy”, bà bếp trưởng dịu dàng.
Không một lời, giáo sư Saltweather cúi xuống và bồng Billy lên. “Chúng ta có thể mang nó đi đâu, bà bếp trưởng? Không nên để thằng bé một mình đêm nay”.
“Theo tôi”, bà bếp trưởng nói, “nhưng ông không bao giờ được nói với ai về nơi tôi sẽ dẫn ông tới”.
“Suốt đời, không bao giờ!” giáo sư nói.