Những kẻ lạ từ biển khơi
Có hai kẻ lạ mặt đã vào thành phố trong buổi chiều Chủ Nhật buốt giá hôm ấy. Họ đến bằng đường sông. Bỏ lại con thuyền neo dưới một cây cầu, họ leo bờ sông dốc lên đường cái. Họ di chuyển bằng những cử động chao đảo kỳ lạ như thể đang giữ thăng bằng trên boong tàu. Đi tới đâu họ kéo một màn sương mù theo đến đó: thứ sương mù giả tạo, đượm mùi muối, làm cho chim chóc im tiếng và khiến khách qua đường bật ho vào tận trong lồng ngực mà không cưỡng lại được.
Người nhỏ hơn trong hai người lạ là một thằng bé chừng 11 tuổi, mắt xanh biển trông như tảng băng trôi ngầm dưới nước. Mái tóc dài chấm vai của nó màu nâu lục, bết xỉn, hơi quăn một nếp. Dù cao đúng độ tuổi của mình, nhưng da nó tái nhợt, môi nó hầu như không có máu. Nó chòng chành đi qua những con đường rải sỏi, với vẻ quyết tâm, không gì lay chuyển trên bộ mặt mỏng quẹt.
Cha thằng bé có đôi mắt lạnh trơ giống như mắt nó, nhưng mái tóc dài của hắn ta điểm những vệt trắng. Tên hắn là Lord Grimwald.
Khi họ đến những bậc thang dẫn lên học viện Bloor, thằng bé dừng lại. Mắt nó dán vào những bức tường xám đồ sộ và đảo lên hai tòa tháp ở hai bên lối vào. “Đi từ biển tới đây xa quá,” nó nói bằng giọng du dương đến không ngờ.
“Con phải học cách sống không biển một thời gian.” Giọng người đàn ông có tiếng dội của hang động ẩm ướt.
“Được.” Thằng bé thọc một tay vào túi quần. Vẻ yên lòng hiện ra trên khuôn mặt nó trước sự tiếp xúc dễ chịu với những linh vật biển. Trong túi, nó mang theo một con cá vàng, một con nhím biển và mấy con cua vàng. Đó là quà tặng từ người mẹ quá cố, được làm từ vàng tìm thấy trong những con tàu đắm dưới biển sâu. “Dagbert, những linh vật biển này sẽ giúp con sống sót,” mẹ nó đã thì thầm với nó. “Nhưng con không bao giờ được cho cha con biết về chúng.”
Khi thằng bé bắt đầu lên cầu thang, cha nó nói, “Dagbert, nhớ lời ta dặn đấy. Phải cố tự kiềm chế.”
Dagbert dừng bước và quay lại nhìn cha. “Ngộ nhỡ con không thể thì sao?”
“Con buộc phải. Chúng ta ở đây giúp con.”
“Cha thì giúp. Còn con thì học.” Dagbert quay đầu và bước lên hết cầu thang. Cặp giò dài đưa nó băng qua mảnh sân gạch chỉ với vài sải chân liêu xiêu, tiếp theo, nó giật sợi dây xích treo cạnh cánh cửa đôi đồ sộ bằng gỗ sồi. Một tiếng chuông lanh lảnh cất lên đâu đó sâu thẳm bên trong tòa nhà. Dagbert săm soi những hình người bằng đồng khảm trên các cánh cửa.
“Họ xưa hơn cả tòa nhà.” Lord Grimwald rà ngón tay khắp hình một người đàn ông cầm cái gì trông như một tia chớp. “Tổ tiên của chúng ta đó, Dagbert. Nhớ đấy. Chúng ta đang nói về Petrello, người con thứ năm của Vua Đỏ.”
Một trong hai cánh cửa loảng xoảng mở ra và một người đàn ông xuất hiện. Đó là một gã lực lưỡng, đầu trọc lóc, mặt vuông bạnh và mắt nhỏ rí, vô hồn. “Gì hả?” Hắn hỏi.
“Chúng tôi có hẹn,” Lord Grimwald tuyên bố một cách ngạo mạn.
“Tên là Grimwald?” Mắt gã đàn ông híp lại.
“Chứ mi trông chờ ai khác à?”
Gã đàn ông lẩm bẩm “Chậc!” và mở cánh cửa rộng ra hơn. “Thế thì vô đi.”
Cha và con đi theo tấm phản thịt qua một tiền sảnh dài lát đá phiến tới một cánh cửa ăn vào một trong những bức tường ốp ván gỗ sồi. “Tháp nhạc,” kẻ dẫn đường thông báo, xoay một cái vòng sắt. Cánh cửa bật mở và hắn dẫn hai người khách vào một hành lang thắp sáng lù mù. Ở cuối hành lang họ đi vô một căn phòng hình tròn rồi leo một cầu thang xoáy trôn ốc. Lên hết quãng cầu thang thứ nhất, họ rẽ phải và bước vào một hành lang trải thảm dày.
“Văn phòng của tiến sĩ ở cửa thứ hai bên trái,” gã gác cổng đầu trọc nói. “Đúng như ông nói, ông có hẹn. Gia đình Bloor đang ở trong đó. Cả ba người.”
“Tên gì?” Lord Grimwald hạch sách. “Ta muốn biết những chi tiết này.”
“Weedon: gác cổng, lái xe, tạp vụ, làm vườn. Vậy đủ cho ông chưa?” Hắn nện gót trở lại cầu thang.
“Đồ láo xược.” Nước da xanh rêu của Lord Grimwald chuyển thành màu xìn xịt của đất nung. Khi tiến sát đến cửa văn phòng, hắn ta nện thẳng lên đó vài nắm đấm, thay vì gõ cửa lịch sự như ở trường hợp khác chắc hẳn hắn đã làm.
“Vô đi!” hai giọng vang lên cùng lúc, một trầm đục và ngạo mạn, còn giọng kia rít lên hăm hở.
Lord Grimwald và con trai bước vào phòng. Họ thấy mình ở trong một căn phòng u ám, xếp đầy sách, có một người đàn ông to cao đứng đằng sau bàn viết. Cạnh bên bàn là một sinh vật già khọm ngồi trong xe lăn. Toàn thân lão quấn tọt trong một tấm chăn ca-rô, đầu đội mũ đen hình tròn, ôm sát cái hộp sọ gồ xương. Từ đó lòi ra mấy dải tóc trắng thòng xuống tới vai, trông tưởng sợi sáp. Đằng sau lão, một lò sưởi đun củi cung cấp hơi ấm và chút màu sắc sinh động cho căn phòng.
“Lord Grimwald.” Tiến sĩ Bloor bước vòng qua bàn và bắt tay khách. “Hân hạnh gặp ông. Tôi là tiến sĩ Bloor, hiệu trưởng. Tôi tin là cuộc hành trình của ông không được thoải mái cho lắm.”
“Chúng tôi đến bằng đường biển.”
“Không thể nào. Chúng tôi cách biển nhiều dặm mà,” sinh vật trong xe lăn lên tiếng.
“Chúng tôi đã đi xa hết sức cho phép rồi sau đó chèo thuyền qua sông.” Lord Grimwald bắt bàn tay như móng vuốt thò ra khỏi tấm chăn ca-rô.
“Ta là ngài Ezekiel,” lão già cốc đế nói. “Ta một trăm lẻ một tuổi. Thế nào? Trông không tới tuổi đó, nhỉ?” Không chờ lời đáp lại, lão tiếp, “Ra đây là thằng bé.” Lão thộp lấy tay Dagbert.
“Tên nó là Dagbert,” Lord Grimwald bảo với lão khọm. “Nó có nhiều tên khác nữa, nhưng chúng tôi quyết định họ của nó là Endless1.”
“Bởi vì tên tôi vĩnh cửu như đại dương.” Dagbert không hề nao núng khi những ngón tay mình bị vò trong một bàn tay xương xẩu. Thật ra nó không nhìn lão Ezekiel. Ánh mắt nó bị hút vào một hình thù trong góc phòng, tùm hụp và sậm tối, ngoảnh mặt khỏi những vị khách, mặc dù nó tạo ấn tượng là đang chăm chú lắng nghe không sót lời nào. Dagbert mải chú mục tới hình thù sát khí đó đến nỗi quên kiểm soát bản thân.
Những lưỡi lửa trong vỉ lò hiu hắt rồi tắt ngỏm. Một màn sương nhớp nháp tràn vào phòng, và những quyển sách màu mốc giăng kín các bức tường bị tắm đẫm trong ánh sáng biển kỳ quái.
“Ma quỷ gì thế này?” Lão Ezekiel vọt miệng, kéo tấm chăn vô sát người hơn.
“Đó là phép của nó,” Lord Grimwald thản nhiên nói. “Chẳng bao lâu nữa Dagbert sẽ phát huy hết quyền năng, và tài phép của nó sẽ mạnh hơn ta.”
“Thật thế ư?” Tiến sĩ Bloor ước lượng thằng bé. “Một ý nghĩ chẳng thoải mái cho ông, ông Lord Grimwald à.”
“Không đâu. Dagbert sẽ không bất tuân. Nếu thế nó sẽ chết. Nó biết rõ điều này.” Lord Grimwald nói như thể con trai không hề có mặt trong phòng. “Ta không muốn có con,” hắn tiếp, “Nhưng rồi thì phép lạ này xảy đến,” hắn chỉ Dagbert, “và ta thấy mình không thể tách khỏi điều đó. Dòng họ của ta bị nguyền rủa, ông biết đấy. Hễ khi nào một đứa con trai đạt tới tối đa công lực, nó sẽ quay qua chống lại cha nó, rồi thì một trong hai cha con sẽ có người chết. Nhưng chúng tôi, ta và Dagbert, đã có một hiệp ước, sẽ luôn luôn hợp tác cùng nhau. Phải không, Dagbert?”
Dagbert gật đầu với cha một cái cụt lủn.
“Nào, Dagbert, hãy tự chủ!”
Dagbert mỉm cười. Ánh sáng biển nhạt đi, những khúc củi trong lò kêu lèo xèo và bùng cháy trở lại.
“Thú vị.” Tiến sĩ Bloor nhíu mày với thằng bé. “Miễn là nó sử dụng tài phép của nó đúng chỗ.”
“Hãy để mắt tới nó giùm ta,” Lord Grimwald nói, “Và ta sẽ làm những gì ông muốn.”
“Chúng tôi sẽ xếp nó vào phòng ngủ chung của Charlie Bone,” lão Ezekiel hả hê.
“Xin mời cả hai người ngồi xuống,” tiến sĩ Bloor nói. “Dagbert, lấy mấy chiếc ghế cạnh kệ sách lại đây.”
Thằng bé kéo hai chiếc ghế lại gần bàn trong khi tiến sĩ Bloor tiếp, “Charlie Bone đang trở nên mạnh ngoài tầm kiểm soát. Cần phải gò cương nó lại.”
“Cháu có thể làm điều đó, thưa ngài.” Dagbert ngồi xuống ghế cạnh cha nó.
Lần đầu tiên kể từ khi những vị khách tới, cái hình thù trong bóng tối day mặt ra ánh sáng. Lord Grimwald vô ý thở hốc lên, nhưng con trai hắn ta trố mắt nhìn gương mặt bị tàn phá của Manfred Bloor bằng vẻ hãi hùng pha lẫn khoái chí. Bốn vết sẹo lớn chạy từ đường ngôi tới cằm của người thanh niên. Mí mắt hắn nhúm nhíu những mũi khâu và môi trên bị xách ngược lên thành hai phần, khiến cho bộ mặt hắn mang vẻ quàu quạu vĩnh viễn.
“Khủng khiếp hả?” Lão Ezekiel ngó quành lại thằng chắt của mình. “Nhưng chúng ta sẽ trả thù chúng, Manfred.”
“Sao lại ra thế?” Lord Grimwald hỏi.
“Lũ mèo,” tiến sĩ Bloor đáp.
“Mèo?” Lord Grimwald lặp lại, không tin nổi.
“Những con báo,” một giọng đùng đục từ phòng vang vọng ra.
“Chúng xé toạc cổ họng nó,” tiến sĩ Bloor hạ thấp giọng. “Mỗi tiếng nói ra đều khiến nó đau đớn.”
“Những con báo.” Mắt Dagbert vẫn chưa rời khỏi bộ mặt bị hủy hoại.
“Những con báo của Vua Đỏ,” lại cái giọng ghê sợ đó.
Dagbert quay qua cha. “Chúng ta là con cháu của Vua Đỏ.”
Cha nó gật đầu. “Chính vì vậy chúng ta ở đây.”
“Vậy là mi biết câu chuyện về Vua Đỏ?” Lão Ezekiel lăn xe lại gần Dagbert. “Mi biết là khi vợ ngài mất, nhà vua vào rừng than khóc chỉ có lũ báo đi cùng. Nhưng mi có biết ngài đã biến lũ báo đó thành mèo không? Những con mèo bất tử, lông chúng sáng như lửa, lũ mèo đó xuất hiện trong mọi thế hệ để đồng hành với những đứa trẻ khước từ sự kiểm soát.” Giọng lão Ezekiel rú lên giận dữ. “Chính chúng. Những con mèo đó đã hủy hoại chắt của ta.”
“Tại sao?” Dagbert hỏi, rất can đảm trước nỗi cuồng điên của lão già.
“Charlie Bone,” cái giọng cay cú trong bóng tối trả lời.
“Đúng, Charlie Bone,” tiến sĩ Bloor thừa nhận. “Cứ cho là nó cố cứu cha nó, nhưng làm ra nông nỗi này...” ông hiệu trưởng vung tay về phía con trai.
“Ông đã tìm ra cách trừng phạt Charlie Bone chưa?” Lord Grimwald hỏi.
“Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi.” Tiến sĩ Bloor thở phùù ra. “Charlie có bạn bè, ông biết đấy, đám bạn có phép hùng mạnh. Chúng nó dính nhau như hồ.”
“Hồ có thể bị loãng,” Dagbert lẳng lặng nói.
Một bầu thinh lặng kinh ngạc theo sau lời nhận xét này. Gia đình Bloor đánh giá Dagbert bằng mối quan tâm mới. Nhưng ánh mắt thằng bé đang bị ghìm giữ trong đôi mắt sứt sẹo đang nhìn ra nó từ trong bóng tối, và tất cả mọi người trong phòng đều cảm nhận mối dây vô hình được hình thành tức tốc giữa Dagbert Endless và Manfred Bloor.
Ezekiel mỉm cười thỏa mãn. Từng có nhiều đứa trẻ được ban phép thuật học ở học viện Bloor; không thiếu đứa độc địa một cách đáng hài lòng, nhưng lão chắc chắn chưa đứa nào chết người như thằng bé phương Bắc có đôi mắt băng trôi này.
Lord Grimwald đứng dậy và bắt đầu di chuyển trong phòng bằng kiểu đi lảo đảo quái đản của mình. “Vậy là ông sẽ giáo dục con trai ta. Thế còn ta sẽ phải làm gì cho ông?”
“À, bây giờ chúng ta đi vào mấu chốt vấn đề,” lão Ezekiel hồ hởi. “Ông có thể điều khiển biển cả, Lord Grimwald. Một tài phép không ai bằng, nếu ta có thể nói thế.”
Lord Grimwald nghiêng đầu trong khi vẫn tiếp tục liêu xiêu trong phòng.
Tiến sĩ Bloor nói, “Cha của Charlie, Lyell Bone, hiện giờ đang ở ngoài biển. Hắn đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai với vợ là Amy. Và bọn chúng đã quyết định sẽ đi xem cá voi.”
“Xem cá voi!” lão Ezekiel cười lục cục. “Bọn ngớ ngẩn. Chúng đang ở trên một con thuyền bé tẹo, sóng sẽ đánh thuyền của chúng nghiêng ngả, đến khi một con sóng cao nhất, lớn nhất, rộng nhất sẽ dìm con thuyền xuống đáy đại dương, cho Lyell và Amy mãi mãi nằm lại dưới đấy. Ông nghĩ sao về điều đó, Lord Grimwald?”
“Ta có thể làm điều đó cho ông.” Lord Grimwald dừng bước và ngồi xuống. “Nhưng cho ta hỏi, ngoài trừng phạt Charlie Bone, còn có lý do nào khác mà ông muốn dìm chết Lyell Bone?”
“BẢN DI CHÚC!” cả tiến sĩ Bloor và lão Ezekiel cùng đồng thanh.
“Bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Nó xưa, xưa lắm rồi, nhưng vẫn còn hiệu lực,” lão Ezekiel nói. “Do ông tằng tổ của ta, Septimus Bloor, lập năm 1865, ngay trước khi chết. Lão ấy để lại mọi thứ: nhà, vườn, lâu đài trên bãi đổ nát, những tài sản vô giá, tất tật... tất tật cho con gái lão là Maybelle và bọn thừa kế của mụ. Nhưng bà dì của ta, Beatrice, là một phù thủy. Beatrice rất căm ghét Maybelle, nên đã đầu độc Maybelle và làm giả một bản di chúc khác. Bản di chúc này, bản giả đó, để lại tất cả mọi thứ cho ông nội ta, Bertram. Ông ấy để lại tất cả cho cha ta, sau đó cho ta. Beatrice không muốn gì cho mình cả – bà ấy thấy Maybelle chết và thấy con cái mụ bơ vơ sống nhờ trại tế bần là mãn nguyện rồi.”
“Thứ lỗi cho sự chậm hiểu của ta, ngài Bloor, nhưng đâu là vấn đề?” Lord Grimwald xòe tay ra. “Dường như bản di chúc thật không còn tồn tại nữa.”
“Nhưng có đấy, nó vẫn tồn tại,” lão Ezekiel thét gào. “Có kẻ đã tìm thấy nó, đó là Rufus Raven, chắt của Maybelle. Hắn đã trao cho vợ hắn, Ellen, ngay trong ngày cưới.”
“Trao bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Không, không chính xác là bản di chúc. Ellen được trao chiếc hộp đựng bản di chúc,” tiến sĩ Bloor giải thích. “Chìa khóa đã mất và cô ta không thể mở được chiếc hộp, nhưng Ellen được ban phép nhận biết... đồ vật. Cô ta đoán trong hộp chứa một thứ cực kỳ quan trọng.”
“Bọn ta tin rằng Rufus đã trao chiếc hộp cho Lyell Bone giữ cho an toàn,” lão Ezekiel nói. “Chúng là bạn nối khố của nhau, hắn và Rufus ấy. Bọn ta đã thương lượng, đã cố dọa nạt: ‘Đưa cái hộp cho bọn ta thì mi sẽ được một nửa gia tài’. Dĩ nhiên bọn ta dụ thế thôi.” Một nụ cười quỷ quyệt bệu ra khỏi cặp môi héo hắt của lão Ezekiel. “Nhưng Rufus không chịu nhả. Vì vậy bọn ta buộc phải khử hắn với con vợ khờ khạo của hắn. Một tai nạn thương tâm do một thợ máy xe được ta trả công bày bố. Thằng con của chúng sống sót, nhưng nó chẳng biết tí ti gì.”
“Tên nó là Billy,” tiến sĩ Bloor nói. “Bọn ta đang giữ nó ở đây. Nó 8 tuổi và có thể nói chuyện với thú vật.”
“Lợi hại ghê,” Dagbert thích thú.
Lão Ezekiel cười gằn. “Tài phép của Billy đến giờ chả có lợi lộc gì cho nó. Như Thương Hại này là ví dụ.” Lão bật ngón tay. “Thương Hại, lại đây.”
Một con chó già khú đế từ dưới gầm bàn hiện ra. Mắt nó bị khuất tịt trong mớ da bèo nhèo chảy xệ, bộ vó ngắn cũn cỡn hầu như không đỡ nổi thân hình ục ịch của nó. Môi Dagbert tớn lên ghê tởm khi con vật ự hự và dí vòm miệng nước dãi lòng ròng vào tấm chăn của lão Ezekiel.
“Billy gọi nó là May Phúc,” lão Ezekiel nói. “Có trời mới biết tại sao. Con chó này hiểu được mấy lời láo nháo của Billy nhưng lại chả hiểu những gì bọn ta nói. Bướm với lại,” lão Ezekiel huơ đôi tay còng queo lên khỏi đầu, “với lại... tiệc sinh nhật, là tất cả những gì nó biết. Vì vậy nó không thể mách lẻo Billy chút gì về cuộc chuyện trò của bọn ta, hay về sự thừa kế của nó.”
“Lão chắc không đó?” Dagbert nghi ngờ tia con chó.
“Hoàn toàn,” tiến sĩ Bloor nói. “Những từ duy nhất con chó đó biết là tên nó: Thương Hại hoặc May Phúc.”
Điều này không hẳn đúng. May Phúc không đủ khả năng để hiểu hết từng lời được nói ra, nhưng nó hiểu mạch cảm xúc ở trong phòng. Nó biết bọn họ đang nói về bạn của nó, Billy, và linh cảm hai kẻ lạ mặt kia mang đến tai họa. Họ phả mùi sương và gỗ mục. Da họ lạnh và trơn nhẫy, và trong giọng nói của họ có âm vang tiếng sóng đập vào bờ đá. Mắt thằng bé nhoang nhoáng như nước đóng băng, và mặt của người đàn ông kể về những con tàu đắm và những người bị chết đuối thương tâm. May Phúc sẽ mô tả tất cả những điều này cho Billy, sau đó Billy sẽ nói chuyện với bà bếp trưởng. Và bà bếp trưởng sẽ cho May Phúc một cục xương to, May Phúc hy vọng vậy. Con chó già hướng ra cửa, ngúc ngoắc cái đuôi trụi lủi và đánh một phát rắm khi nghĩ về cục xương hằng ao ước.
Có tiếng gõ cửa lớn và, khi cửa mở, May Phúc hấp tấp sượt qua Weedon ra hành lang.
“Bà bếp trưởng đã dọn xong bữa tối,” Weedon thông báo một cách cục cằn.
“À!” tiến sĩ Bloor đập hai bàn tay vào nhau. “Phòng ăn ở cuối hành lang. Đi hướng này, xin mời mọi người.”
Trong khi hai vị khách đi theo tiến sĩ Bloor, một phụ nữ nhỏ nhắn từ phòng ăn hiện ra. Bà bếp trưởng đã tròn trịa hơn ngày trước, mái tóc đen giờ hơi ngả xám, nhưng gương mặt hồng hào vẫn lưu lại những nét xinh đẹp thời trẻ. Trông thấy tiến sĩ Bloor và khách, bà đứng nép qua bên cho họ đi qua.
“Cảm ơn, bà bếp trưởng,” tiến sĩ Bloor nói.
Bà bếp trưởng gật đầu, bỗng bất giác rùng mình. Bà bụm chiếc khăn mùi xoa lên mặt và lật đật đi khỏi. Tim bà đập nhanh đến nỗi May Phúc cũng nghe thấy khi bà chạy theo sau nó xuống cầu thang.
“Ối, hãi hùng! Ối, kinh hoàng! Đó là hắn. Là hắn đấy. Ối, May Phúc, ta phải làm gì đây? Sao hắn lại ở đây? Sao lại là bây giờ?”
Bà bếp trưởng bươn vào căn tin xanh da trời, với May Phúc kè sát nút. Chiếc khăn mùi xoa vẫn bịt chặt miệng bà như thể từng luồng không khí bà hít vào đều bị đầu độc.
“Bà bếp trưởng, chuyện gì vậy ạ?”
Bà bếp trưởng đã không thấy thằng bé tóc trắng đang ngồi bên cái bàn trong góc.
“Ồ, Billy, cưng. Ta bàng hoàng quá.” Bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống cạnh nó. “Có một người đàn ông ở đây. Hắn... hắn...” bà lắc đầu. “Billy, ta cần phải nói với con. Chính hắn đã dìm chết cha mẹ ta, quét sạch nhà cửa của ta và giết hại vị hôn phu của ta, tất cả chỉ vì ta không cưới hắn.”
Đôi mắt màu rượu vang đỏ của Billy trợn tròn kinh hãi. “Ở đây? Nhưng tại sao?”
“Ta không lý giải được cho con hiểu. Có gì đó liên quan tới thằng bé mà hắn mang theo, ta nghĩ vậy.” Bà bếp trưởng hỉ mũi và giắt chiếc khăn mùi xoa vào tay áo. “Tên hắn là Grimwald. Chuyện đã bốn mươi năm rồi. Ta không biết hắn còn nhận ra ta không. Nhưng rủi hắn nhận ra...” bà nhắm mắt lại cố gạt đi những nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được. “Nếu hắn nhận ra, ta buộc phải rời khỏi đây.”
“Rời khỏi đây? Không thể được, bà bếp trưởng!” Billy bật dậy và vòng tay ôm cổ bà bếp trưởng. “Con sẽ ra sao nếu không có bà? Bà không thể đi được. Bà đừng đi. Làm ơn đừng đi, mà.”
Bà bếp trưởng lắc đầu. “Ta không biết, Billy. Đã từng có rất nhiều người khủng khiếp tới nơi này, nhưng hắn là kẻ kinh khủng nhất. Nếu thằng bé kia có chút gì giống hắn, chúng ta sẽ nguy khốn, tin ta đi.”
Bất thình lình May Phúc chồm hai chân lên đùi bà bếp trưởng và ngửa đầu ra sau, tru lên một tiếng thê lương đến nỗi Billy phải bịt tai lại.
“Nó biết,” Billy thì thầm. “Nó muốn nói với con điều gì đó, nhưng con không chắc mình có muốn nghe không.”