Tượng thần lùn
Olivia bắt đầu khiến Charlie khó chịu. “Sao nó bỏ chạy như ma ám thế?” Nó thắc mắc.
Emma nhìn nó trách móc. “Chứ cậu nghĩ tại sao?”
Charlie bực tức. “Làm sao Olivia lại tin mình đã nói những điều ấy về nó. Dagbert bịa ra đó. Thằng đấy nói láo. Bồ đâu có tin, phải không Emma?”
“Ờm…” con nhỏ lúng túng. “Tớ luôn tin khi người ta bảo tớ… không đẹp, hay tớ ngu, hay…”
“Bồ không nên vậy, đồ…” Charlie kịp dừng lại. “Ý mình là bồ tuyệt đối không đc tin lung tung.”
“Dagbert luôn luôn dối trá,” Billy đỡ lời.
“Nó bảo Billy là đồ dị dạng,” Benjamin thêm.
“Mà Billy có bực mình đâu,” Charlie bảo.
“Đã bực,” Billy sửa lại.
Charlie giả bộ như không nghe thấy. “Và tớ thích các kiểu tóc của bồ, Em.”
Trông bộ Emma tươi lên. Con nhỏ suýt mỉm cười. “Để mình sẽ giải thích tất cả cho Liv. Nó rất nhạy cảm về diện mạo của mình. Nhưng, nói thật, mình nghĩ nó thích phóng đại mọi thứ lên cho kịch tính một chút. Chẳng bao lâu nó sẽ chán mang vẻ mặt cau có, và rồi nó sẽ lại hành xử như chưa từng có chuyện gì xảy ra ấy mà.”
“Mình hi vọng sẽ nhanh nhanh lên,” Charlie bảo.
Thằng bé con nãy giờ cứ dòm trừng trừng cái ấm đen. Thình lình nó hỏi. “Cái gì đó?”
“Cái này á?” Charlie giơ cái ấm lên với vẻ e dè. “Là cái ấm cũ anh mượn đó mà.”
“Cũ, cũ ơi là cũ,” thằng bé nhận xét.
Emma hét lên. “Xin lỗi, tớ quên mất. Đây là hai đứa em họ của bồ đó, Charlie.”
“Ý bồ nói chúng là … con của bà dì Venetia?” Charlie bắt đầu lư ý tới cặp đôi cầu bơ cầu bất. “Anh là Charlie,” nó cười toe toét với bọn trẻ. “Thì ra … bà cô của anh là mẹ mới của các em.”
“Tụi em biết rồi,” đứa con gái nói. “Em là Miranda và đây là Eric. Tụi em đi lấy con chó của tụi em.”
“Bồ không định đi với tụi này à, Charlie?” Emma mỉm cười đầy sức thuyết phục. “Tớ không thích Ngách Tối, mà Olivia thì về rồi.” Nó ôm lấy người và rùng mình.
“Đi chứ,” Charlie nói.
Nghách Tối không phải là nơi người ta thích đến một mình. Một ngõ hẹp tí,tối om om dẫn vào một khu toàn những tòa nhà cao, xám xịt bao quanh một mảnh sân lổm ngổm đá sỏi. Hầu hết nhà ở đó đều bịt kín mít – cửa lớn thì đóng đinh chết dí còn cửa sổ thì cài thanh chắn.
Ở cuối mảnh sân có một dãy nhà cắt ngang ngõ hẻm. Nhà nào cũng có những tháp nhọn cao nghệu, những lan can sắt, cửa sổ dài, trên trán tường trang trí những tượng đá hình thù quái đản: người khổng lồ, yêu tinh, thần lùn, quỷ sa tăng và những con thú gớm ghiếc.
Nhà của bà Cô Venetia ở bên phải, vừa lợp mái mới sáng chói, trông khang trang hơn nhà của bà cô Eustacia ở chính giữa, hay nhà của bà cô Lucretia ở bên trái.
“Bà cô Venetia vừa dựng lại nhà mới,” Charlie nhận xét. “ Sau vụ hỏa hoạn trông nó kinh khủng khiếp.”
“Hỏa hoạn?” Gương mặt quắt queo của Miranda rúm lại sợ hãi. “Chuyện xảy ra thế nào?”
“Ờ … è … à, một tai nạn,” Charlie lảng tránh.
Emma nhìn nó một cái, ra điều cảm ơn nó đã không miêu tả chi tiết. Ba cầu thang dẫn lên ba cánh cửa đen; mỗi cánh cửa gắn một con số 13 bằng đồng thau ở chính giữa.
“Ba số 13,” Billy thì thầm. (Đây là nơi khiến người ta phải nói thầm với nhau). “Chắc chú đưa thư sẽ rối tinh rối mù?”
“Chắc chắn,” Charlie thừa nhận.
Có tiếng rên tru tréo từ bên trong ngôi nhà số 13 thứ ba, và Miranda thét. “Chattypatra đó! Thấy chưa?”
Chúng chạy băng qua mảnh sân và dừng lại ở chân cầu thang. Hạt Đậu bắt đầu sủa phấn khích. Đuôi nó ngoáy tít hầu như không thấy đâu nữa.
“Ông của bồ bảo chìa khóa ở dưới bức tượng thần lùn,” Emma nói với Charlie.
“Thần gì?” Nhưng Charlie đã thấy nó: một khối đá lùn tùm hụp, trông như quỷ hiện hình ở góc tối mái hiên.
“Chị tới đây, Chattypatra,” Miranda gọi. “Tới đây.”
Tiếng tru càng dữ dội hơn, biến thành một tràng rú mê sảng, trong khi Hạt Đậu hòa theo bằng tiếng đặc trưng ắng ắng của mình.
“IM ĐI!” Charlie hét con chó to.
Benjamin bụm bàn tay quanh mũi Hạt Đậu. “Bồ không cần phải quát nó thế,” nó nói như bị xúc phạm.
“Xin lỗi, chỉ tại mình không suy nghĩ được,” Charlie nhìn trừng trừng bức tượng.
“Có gì phải suy nghĩ? Chìa khóa ở dưới bức tượng.” Emma bắt đầu bước lên cầu thang.
“Đừng, Em.” Charlie níu cánh tay con nhỏ. “Cầm cái này.” Nó trao cho con nhỏ cái ấm.
“Óa, nặng quá.” Emma chạm vào hông chiếc ấm đen. “Nó nóng thế.”
“Mình biết.” Charlie đã nhận thấy cái ấm đang nóng lên. Có gì nguy hiểm ở nhà bà cô Venetia? Nó bước lên cầu thang trong khi bọn kia vẫn ở dưới sân, nín khe nhìn nó. Nó cúi xuống bức tượng, chợt dừng lại. Bức tượng vừa mới chớp mắt. Lẽ nào đó là hiếu ứng ánh sáng? Hay là bóng của Charlie đổ khuôn xuống khối đá? Không phải. Charlie chắc chắn một mí mắt của bức tượng vừa mới bao lấy con mắt tròn ác nghiệt. Việc xảy ra rất nhanh, hầu như không kịp thời gian cho Charlie ghi nhận. Nhưng đúng là nó đã động đậy.
Charlie quay lại đám trẻ dưới kia, tất cả đang nhìn lên nó, chăm chú theo dõi, ngoại trừ Eric – thằng bé đang ngó đăm đăm bức tượng với vẻ xa xăm, quái lạ.
Charlie nín thở, cúi lẹ xuống và đẩy bức tượng ra sau. Chiếc chìa khóa cửa của bà cô Venetia lộ ra. Nó nhặt lên và vẫy vẫy xuống cho bọn kia.
Cả đám hò reo “ Uu-raa!” và chạy ùa lên cầu thang.
Charlie tra chìa kháo vào ổ, vặn, và cánh cửa mở ra mà không két lên, huống hồ là tiếng rít dựng gáy như nó đã e ngại.
Một con chó nhỏ màu trắng bắn ra khỏi ngôi nhà và nhảy gọn vào vòng tay Miranda.
“Ôi, Chatty, Chatty!” Mắt Miranda có nguy cơ tràn lệ đến nơi.
Eric mỉm cười, một cách không cưỡng lại được.
Hạt Đậu mừng quýnh hơn bao giờ hết. Nó giật khỏi tay Benjamin, lao bổ tới, hít ngửi con chó trong tay Miranda. Chattypatra không phản đối; mà thật ra cô nàng sục mõm hít lại và sủa ăng ẳng rất bình thản vào tai chú chàng.
“Cuộc hôn phối thần tiên,” Benjamin thở hắt ra toại nguyện. “Mình luôn biết một ngày nào đó Hạt Đậu sẽ tìm được bạn gái mà.”
Miranda nguýt Benkamin một cái.
Charlie trả chìa khóa vào chỗ cũ và cả đám tức tốc rút khỏi Ngách Tối. Charlie cảm thấy tội nghiệp hai đứa trẻ sẽ phải trở về, sống với bà cô Eustacia nghiệt ngã. Nó đắn đo liệu mình có nên đề nghị chúng tá túc ở ngôi nhà số 8 không, nhưng có điều gì đó ngăn nó lại, có lẽ là ánh mắt lạnh lùng của Eric và cái kiểu thằng bé cứ liếc trộm chiếc ấm.
“Này!” Emma trao lại cái ấm cho Charlie. “Ấm gì quái chưa từng thấy. Giờ nó nguội rồi.”
Ngón tay của Charlie nắm quanh quai ấm lạnh ngắt. Nó không hó hé gì tới lịch sử kì lạ của vật này.
Nhóm trẻ tách ra làm hai khi chúng tới đường Đồi Cao. Bọn con trai Charlie rẽ trái vô đường Filbert, trong khi đám còn lại đi về khu nhà thờ lớn.
Benjamin cần Charlie hỗ trợ mới kéo được Hạt Đậu khỏi Chattypatra, cô nàng ngoan ngoãn đi bên cạnh Miranda, chốc chốc lại dừng bước và ai oán nhìn về hướng Hạt Đậu.
“Vậy không công bằng,” Billy nói. “Hai con chó đáng ra phải đi cùng với chúng ta.”
“Em có tính cho tụi anh biết chúng nó đang nói gì không?” Charlie hỏi.
Billy đỏ mặt lên. “Trời, toàn tình yêu không à.”
Benjamin nhướng mày nhìn con chó của nó. “Chẳng hạn?”
Billy hắng giọng. “Đại khái… à, em là con chó đẹp nhất anh thấy kể từ bữa sáng.”
“Bữa sáng?” Charlie thắc mắc. “Em gọi đó mà là tình yêu?”
“Đó là thứ nó thích nhất,” Benjamin đăm chiêu. “Một miếng bánh nhân thịt bò hấp còn thừa.”
Charlie không hỏi Chattypatra nói gì nữa. Nó nghĩ mình sẽ thất vọng mất. Với lại Billy sẽ ém nhẹm nhiều. Đảm bảo thằng bé ngượng nên không nhắc lại những câu yêu thương ướt át đâu.
Rembrandt thẳng lên phòng Charlie. Nó không muốn Hạt Đậu đuổi con chuột của nó chạy lòng vòng quanh nhà.
Ngoại Maisie đã sẵn sàng một trong những bữa trưa hoành tráng nhất của bà. “Ra là các cháu đến nhà số 13?” Bà hỏi khi đám nhóc đang ngấu nghiến món bò rô-ti. “Ông Paton đã kể cho bà nghe tất cả rồi.”
“Tụi cháu đã tìm thấy con chó và Hạt Đậu mến cô nàng ngay.” Benjamin trìu mến liếc con chó đang ngồi trong góc, thậm chí không đụng tới cục xương mà ngoại Maisie đã đặt xuống trước mặt nó.
“Nó tương tư rồi,” ngoại Maisie quan sát. “Đó là tình yêu đích thực.” Bất thần bà trông thấy cái ấm đen dưới sàn, cạnh chân Charlie . “Gì thế này?”
“Nó là … ừm, cái ấm.” Charlie đáp. “Con nhận nó ở một tiệm trên đường Piminy, bà Kettle đưa.”
“Chả hiểu sao mà con muốn cái vật cũ mèm đó?” Ngoại Maisie hỏi. “Cái ấm điện của bà là tốt lắm rồi.”
“Cái ấm đó rất đặc biệt.” Billy nói.
“Ààà!” Ngoại Maisie vỡ lẽ ngay. “Ta nghĩ bà Kettle cũng là con cháu Vua Đỏ.”
“Tổ tiên bà ấy là một thợ rèn kiêm thầy pháp,” Charlie bảo. “Ông ấy đã làm cái ấm này. Nó có thể… ừm, hữu ích cho con.”
“Hừừ!” Dẫu tự hào về tài phép của Charlie nhưng nhiều khi ngoại Maisie cho đó là điều bất hạnh khùng khiếp. Nó đã bao phen dẫn Charlie tới nguy hiểm, rơi vào những tình huống mà chỉ nhờ may mắn Charlie mới toàn mạng.
Cửa trước xô đánh ầm rồi những bước chân huỳnh huỵch băng qua hành lang lát gạch bông. Charlie vội dùng chân đẩy cái ấm xa tít vô gầm bàn. Nhưng đã quá trễ. Một phút sau khi cửa mở tung, nội Bone đứng sựng đó, nhìn mọi người trừng trừng. Mắt bà ta lập tức hạ xuống chiếc ấm đen. Làm thế nào mà bà ta luôn nhìn thấy những vật mà Charlie muốn giấu thì quả là điềm bí hiểm.
“Cái gì đó?” Bà ta chất vấn.
“Đâu có gì,nội Bone,”Charlie làm mặt ngớ ngẩn.
“Đừng làm bộ ngu si. Tao thấy rõ mà đâu có gì. Một cái ấm bẩn thỉu. Vứt đi. Tao không muốn chứa nó trong nhà của tao.”
Ngoại Maisie kéo một chiếc ghế ra mời. “Bà muốn ăn trưa không, Grizelda?”
Không rời mắt khỏi cái ấm, nội Bone nói, “ Ta ăn rồi, đừng cố ý làm ta phân tâm.”
Charlie bất chợt hào hứng. “Để nộp cho trường đó, nội Bone. Tụi con bị bắt phải tìm đồ vật cổ xưa cho môn lịch sử. Con thấy tự hào về mình quá.”
Mặt nội Bone hơi hơi mềm đi. Việc ở trường là một ưu tiên trong sách lược của bà ta. Tuy nhiên bà ta vẫn không bị đánh lạc hướng hoàn toàn. “Nó để nộp cho trường sao mày dám bảo là đâu có gì?”
Charlie cứng hàm. Nó nhìn Billy và Benjamin, hy vọng sự ứng cứu. Bọn này im de trố mắt dòm lại nó, bất lực.
Nhưng Hạt Đậu đã kịp cứu Charlie. Con chó bự này ghét nội Bone không kể xiết. Chỉ cái mùi của bà ta thôi cũng đủ làm nó phọt ra một tiếng gừ tức giận.
“Tao đã bảo là không được mang con chó này vô đây kia mà,” nội Bone hướng hỏa lực về phía Benjamin.
“Phải, thưa bà Bone,” tiếng Benjamin hầu như tịt mít.
Ngoại Maisie không đời nào chịu để bữa trưa của mình bị gián đoạn kiểu này. “Lạy trời, Grizelda.” Bà dằn mạnh chiếc ghế không. “Nếu bà không muốn ăn thì làm ơn lặng lẽ đi. Bọn trẻ này đang lạnh và đói, và ta sẽ không để bà hoãn bữa ăn nóng sốt của chúng đâu. Con chó đó chẳng làm gì hại cả.”
“Bà coi chừng đấy, Maisie Jones.” Nội Bone trong cơn say kiếm chuyện. Có thể thấy rõ điều đó trong nụ cười nham hiểm trên mặt bà ta. “Nếu bà còn đối đầu với ta thì bà sẽ bị đuổi cổ. Đây là nhà của ta và bà được hạ cố cho ở nhờ mà thôi.”
Một giọng cất lên đằng sau bà ta. “Nhà của chúng ta, Grizelda.”
Nội Bone giật mình đánh thót. Bà ta đã không nghe thấy tiếng Ông cậu Paton từ đằng sau đi tới.
“Hãy thôi nói tào lao và để chúng tôi ăn yên lành.” Ông cậu Paton chộp lấy vai bá chị.
Bà ta vùng khỏi ông, làu bàu trong cổ họng rồi lủi vội lên cầu thang.
Ông cậu Paton bước vô bếp và ngồi vào chỗ đầu bàn. “Xin lỗi, tôi xuống trễ,” ông nói như không có gì xảy ra.
Bọn con trai phấn chấn hẳn lên, nhưng cố kìm chế, đề phòng nội Bone tìm cách trở xuống hoạch họe chúng. Benjamin bị chướng bụng. Điều đáng phàn nàn duy nhất khi đến nhà Charlie : hình ảnh gây lộn ruột của nội Bone.
Phần còn lại của bữa ăn trôi qua rất vui vẻ. Đến lúc cắt bánh pudding nho, Charlie đã kể xong cho ông cậu nghe về chuyến thăm bà Kettle và phi vụ giải cứu Chattypatra.
“Chúng ta hãy xem cái ấm nào,” Ông cậu Paton nói khi khi miếng bánh pudding cuối cùng đã biến mất.
Charlie lấy chiếc ấm đặt lên bàn.
“Dơ quá,” ngoại Maisie cự nự và chồng những cái đĩa không lại.
Ông cậu Paton đeo kính vào và kéo cái ấm về phía mình. Ông nhắc nắp ấm lên. “Ừm,” ông hít ngửi chất lỏng màu đen. “Chẳng có mùi gì,” ông nhận xét, “nhưng rõ ràng nó rất, rất, rất xưa rồi.” Ông gõ gõ thành ấm. “Sắt. Đúng. Rất lạnh.”
“Đó là vì không có nguy hiểm,” Billy nói.
“Cháu cá là nó vừa mới nóng lên,” Benjamin nói, nhìn vô chỗ nội Bone đứng vừa nãy.
“Bà ấy không nguy hiểm,” Charlie nói. “Bà ấy chỉ xấu tính thôi. Nhưng có gì đó rất nguy hiểm ở nhà cô Venetia, có lẽ là…” nó ngại ngần.
“Có lẽ là cái gì, Charlie?” Ông cậu Paton nhìn qua phía trên cặp kính nửa vầng trăng.
“Không ạ,” Charlie không biết giải thích thế nào về cái chớp mắt của bức tượng thần lùn. Rất có thể đó chẳng qua là nó tưởng tượng mà thôi.
Ông cậu Paton bảo nó để cái ấm ở trong phòng nó. “Để chỗ khuất ấy, nếu ta là con,” ông thêm. “Con không muốn làm mất nó đâu nhỉ.”
bình thường hẳn là Charlie đã tới quán Cà Phê Phú Kiểng vào chiều Chủ Nhật. Nhưng hôm nay không có vẻ bình thường. Nó không muốn tái đụng độ Olivia, vả lại, có tin đồn rằng Tancred và Lysander sẽ đưa bạn gái tới đó. Về mặt này mặt khác, Charlie thấy quán Cà Phê Thú Kiểng không phải là nơi thích hợp để dẫn bạn gái tới. Bầu không khí ở đó không thể gọi là lãng mạn được.
Vì vậy bọn con trai ở lại trong bếp coi tivi, đến khi ánh sáng rời bầu trời và màn đêm sao sa phủ trùm thành phố.
Đến lúc Benjamin ra về, Hạt Đậu vẫn đượm vẻ khao khát trong đôi mắt nâu to tròn.
“Chắc mình phải đưa nó trở lại gặp Chattypatra mất,” Benjamin nói từ bên kia đường. “Có lẽ cuối tuần sau.”
“Ừ,” Charlie đáp. Nó nghĩ đến hai đứa bé con ở Ngách Tối. Nó hi vọng Chattypatra được phép ngủ chung với bọn chúng.
Charlie nhìn Benjamin đi vô nhà nó xong rồi quay lại leo bậc cấp nhà số 9. Một chuyển động trên đường đập vào mắt nó. Có gì đó vọt ra khỏi một thân cây – vật đó thấp, không hình thù. Nó vội vàng lỉnh vô nhà và đóng sập cửa lại.
Đó là lúc thắp nến. Ngoại Maisie tắt đèn bếp, còn Charlie tắt đèn hành lang. Nội Bone là người duy nhất trong nhà đã quên mất nề nếp này. Ai nấy tưởng bà ta phải nhớ tài phép của Ông cậu Paton chứ, chỉ tính riêng bao lần bà ta bị tắm mưa thủy tinh.
“Em thích ánh nến lắm,” Billy nói, nó mang con chuột xuống để cho ăn. “Cả Rembrandt cũng thích.”’
“Anh cũng vậy,” Charlie nói.
Quả thật, khung cảnh ấm cúng, trên bếp lò khẽ reo và nến tắm đẫm căn phòng ấm áp trong ánh sáng vỗ về. Sau đó Charlie ra kéo rèm cửa lại, thì bỗng tâm trạng an bình, thoải mái của nó bị xóa tan tức khắc, bởi vì, có hai gương mặt đang nhìn lên cửa sổ - những con mắt vàng ệch lóe lên tia sắc của laoif thú và vầng trán thấp lộ những túm lông.
Charlie thét thất thanh.
“Gì đó?” Ông cậu Paton lật đật ùa vô nhà bếp.
“Là họ,” Charlie run rẩy. “Cái vật chúng ta đã thấy bên ngoài Góc Kim Cương.”
Hai hình thù đội mũ trùm liền lùi khỏi cửa sổ.
Những cặp mắt cháy chĩa về phía ông, rồi hai người lạ co giò chạy trên đường.
“Dừng lại,” Ông cậu Paton gọi. “Cho biết danh tính.”
Những người đội mũ trùm tăng tốc.
“Này, đừng chạy!!”
Charlie ra tới cửa vừa kịp thấy ông cậu lao xuống những bậc thang và đuổi theo hai kẻ lạ. Lúc này họ thụp cả bốn xuống mà chạy với tốc độ dữ dội. Nhưng Ông cậu Paton có đôi cẳng dài nhất thành phố. Chỉ với ba cú dướn, ông đã bắt kịp họ.
“Bắt được rồi!” ông hét, tóm gáy một trong hai kẻ lạ.
Charlie không rõ chuyện gì xảy ra tiếp theo, bởi vì đèn đường phía trên Ông cậu Paton bất thần nổ tung và thủy tinh xổ như làn mưa bạc xuống cả ba thân hình.
Một tiếng tru cuồng nộ dội vang phố phường, nối tiếp là tiếng thét đau đớn của Ông cậu Paton.
“Trời, nó cắn ta!”
“Không phải nó, thưa ông Yewbeam,” một giọng rít rú. “Chúng tôi là con người.”
“Ai…” Ông cậu Paton định nói.
Nhưng hai sinh vật đã tan biến vào bóng tối.