Sớm hôm sau, mọi người tụ tập lại ở phòng khách.
Ngoài Nam Cung Cẩu Thặng ra thì mọi người đều không biết sẽ đi đâu cả, mọi người mờ mịt ngồi trên chiếc xe jeep. Lái xe vẫn là Xa Xà, lần này Nam Cung Cẩu Thặng đá Dư Ngư lên ghế trước, còn mình thì chen chúc ở hàng ghế sau với Lý Yêu Yêu, Tô Di và Kiều Du.
Gã quăng bản đồ cho Xa Xà, trên bản đồ có đánh dấu điểm đến bằng bút máy.
Lý Yêu Yêu mờ mịt hỏi: “Chúng ta đi đâu vậy?”
Nam Cung Cẩu Thặng cười híp mắt nói, không phải ta đã hứa sẽ đưa mấy đứa đi ngắm vương lăng Tây Hạ sao? (Vương lăng: mộ vua)
Mọi người lập tức hưng phấn. Tiểu Kiều vừa mong chờ lại vừa sợ sệt hỏi: “Cái này, di chỉ quan trọng như vậy, vẫn là không nên phá hỏng nó.”
Nam Cung Cẩu Thặng mở to đôi mắt hí, cam đoan nói: “Không phá, tôi xin thề với đảng nhà nước và nhân dân, tuyệt đối sẽ không phá hỏng! Chúng ta chỉ nhìn thôi.”
Thế là sáu người thực sự đi tới vương lăng Tây Hạ.
Xa Xà dừng xe trước lối vào, mặt không thay đổi quay đầu lại, dùng ánh mắt hỏi Nam Cung Cẩu Thặng.
Cẩu Thặng xuống xe mua sáu tấm vé vào cửa, ôm vai Kiều Du nói với mọi người: “Đi một chút, đi xem vương lăng Tây Hạ chân chính.”
Mọi người đều không nói gì.
Đã tới Ninh Hạ rồi, mọi người đều có hứng thú với vương lăng Tây Hạ và những câu chuyện lịch sử liên quan, lần này tuy đồng chí Cẩu Thặng nhận bao, nhưng cũng không tính là thua thiệt.
Vào trong, trước tiên mọi người đi xem qua các hội trường, triển lãm văn vật cổ của quốc gia Tây Hạ, phần lớn văn vật đều được lấy từ vương lăng.
Tô Di và Kiều Du nghiêm túc xem từng đồ vật triển lãm một, thi thoảng Kiều Du lấy máy ảnh ra quay chụp, Tô Di thì lấy quyển sổ kí họa ra vẽ qua.
“Ế?” Dư Ngư kéo sợi dây bảo vệ mà nhào tới một bia đá, vươn tay ra định chạm vào, bảo vệ gần đó còn chưa kịp xông lên thì Xa Xà đã kéo đại ca lại.
Dư Ngư phẫn nộ vuốt mũi: “Chữ thời này xấu như gà bới, ông nhìn qua còn tưởng chữ Hán.”
Nam Cung Cẩu Thặng chắp tay sau mông tiến lên trước: “Đây là chữ Tây Hạ.”
Chữ Tây Hạ thoạt nhìn khá giống chữ Hán, đều là chữ vuông. Nhưng so sánh kĩ hơn thì phần lớn chữ Tây Hạ được cấu tạo từ nét phẩy, rất hiếm thấy nét ngang. Qua hình dáng chữ có thể thấy chữ Tây Hạ phức tạp hơn chữ Hán nhiều.
Nam Cung Cẩu Thặng hé miệng định giải thích, nhưng lại nuốt lời bên miệng xuống, cười híp mắt vỗ vai Kiều Du: “Tiểu Kiều nè, có phải chữ Tây Hạ mô phỏng theo chữ Hán không?”
Lý Yêu Yêu trợn trắng mắt nhìn đến không thấy lòng đen đâu.
Kiều Du vội nói: “Là như này, chữ Tây Hạ do đại thần của Hạ Cảnh Tông Lý Nguyên Hạo là Dã Lợi Nhân Vinh phỏng theo kết cấu của chữ Hán để tạo ra. Tổng cộng có hơn năm ngàn chữ, hình dạng ngay ngắn như chữ Hán nhưng nét bút phức tạp và nhiều hơn giống như bộ Thiên Bằng của chữ Hán. Trước khi sáng tạo ra chữ Tây Hạ, tộc Đảng Hạng không có chữ riêng, vẫn phải sử dụng chữ Hán.”
Dư Ngư cười nhạo: “Thế khác quái nào gà rán chiên đi chiên lại, bắt chước chữ Hán để tạo ra loại chữ phức tạp này, thế xong lại phải mất công học tập phổ cập.”
Nam Cung Cẩu Thặng cảm khái nói: “Đây là lòng tự tôn dân tộc. Cái người Lý Nguyên Hạo này không chỉ có dã tâm mà cũng rất có khí phách.” Vừa nói vừa ôm vai Tiểu Kiều, dựng ngón cái lên: “Đồng chí khảo cổ học rộng biết nhiều ghê.”
Kiều Du thẹn thùng: “Không không không, tôi chỉ nghiên cứu sơ qua về cái này thôi.”
Thế là đồng chí Cẩu Thặng lại mặt dày khen đồng chí Tiểu Kiều thật khiêm tốn.
Trong nhà trưng bày còn có rất nhiều kiến trúc được khai quật từ vương lăng như gốm đỏ hoặc ngọc lưu ly được tạo hình Ca Lăng Tần Già, gốm xám, ngọc lưu ly có hình mặt thú, tranh vẽ trên ngói úp, đồ gốm được tạo hình mỏ diều hâu, và tượng đá người đang ngồi.
Tô Di cầm sổ kí họa không ngừng vẽ hình dáng cấu tạo của chúng vào, Lý Yêu Yêu vẫn luôn theo anh, chốc lát sau họ bị tụt lại phía sau cách mọi người một khoảng.
Lý Yêu Yêu không nhịn được nói: “Mấy thứ này thì có gì hay ho mà vẽ.”
Tô Di liếc mắt nhìn hắn, ôn hòa nói: “Cậu vội à?”
Nay còn dám đáp trả! Lý Yêu Yêu nâng mi: “Anh đúng là đồ phiền phức.”
Tô Di thản nhiên thu hồi ánh mắt, tiếp tục vẽ hình ảnh Ca Lăng Tần Già: “Tôi có cần cậu đi theo đâu.”
Lý Yêu Yêu bị con cừu nhỏ làm cho mắc nghẹn, lửa giận bùng lên, mắt thấy Kiều Du bị Nam Cung Cẩu Thặng ôm vai sắp đi tới nhà trưng bày tiếp theo, hắn vòng ra phía sau lưng Tô Di, bàn tay mò vào túi quần anh nắm chặt ‘hàng họ’, ghé vào tai anh cắn răng thấp giọng nói: “Mẹ kiếp, anh có tin tôi cường bạo anh ở ngay đây luôn không?”
Tô Di kêu đau một tiếng, eo hơi gập xuống một chút, quay đầu nhìn thẳng hắn, giọng vẫn bình thản không chút sợ hãi: “Tin thì sao, cởi quần áo làm ngay dưới đất à?”
Lý Yêu Yêu sửng sốt, cảm thấy câu này có vẻ quen tai, đột nhiên hắn biến sắc: “Con mẹ nó, tên khốn Kiều Du kia cho anh đọc tin nhắn à?”
Tô Di vẫn như trước bình tĩnh nhìn hắn.
Lý Yêu Yêu giận dữ rút tay về, ngồi chồm hổm một bên bực bội nói: “Anh vẽ đi, cứ từ từ mà vẽ!”
Ca Lăng Tần Già là từ được dịch từ tiếng Phạn, có nghĩa là “Diệu thanh điểu”, là một loại chim thần trong Phật giáo. Được biết đến với hình dạng đầu người thân chim, hai tay chắp trước ngực, phía sau lưng có đôi cánh chim, có phần giống như thiên sứ của các nước phương Tây. Ca Lăng Tần Già sớm nhất được tìm thấy là một tượng đá ở Bắc Ngụy.
Lý Yêu Yêu nhìn Tô Di chỉ trong mấy phút ngắn ngủi mà đã có thể vẽ xong Ca Lăng Tần Già, ngay cả lông vũ ở đôi cánh cũng như đúc pho tượng kia thì không khỏi bội phục, hỏi: “Nè, anh học vẽ từ ai vậy?”
Tô Di khép quyển sổ kí họa lại, đi về phía nhà trưng bày khác: “Hồi cấp hai đăng ký học lớp vẽ, học hai năm.” Bước chân anh dừng lại, quay đầu đưa mắt nhìn Lý Yêu Yêu: “Chín năm trước tôi thích một người, mỗi lần nhìn thấy người ấy tôi đều chụp rất nhiều ảnh, mỗi lần chụp là một lần vẽ lại, được vài năm thì thuần thục.”
Trước đây Lý Yêu Yêu từng nghe Tô Di kể qua anh đã thích mình được tám năm, vì vậy hắn cười ha hả, sống lưng vươn thẳng, nghênh ngang dẫn Tô Di đi tới phòng trưng bày kế tiếp.
Tô Di hỏi: “Trước đây cậu đã từng thấy tượng đá kia chưa?”
Lý Yêu Yêu: “Anh nói người chim kia á? Hồi trước sư phụ từng mang về văn vật tương tự. Hình như ở Bắc Ngụy.”
Tô Di như có điều suy nghĩ, nói: “Nghe nói Tây Hạ là hậu duệ đời sau của bộ Thác Bạt… Thác Bạt là một bộ của tộc Tiên Ti, nhưng tộc Đảng Hạng lại là một nhánh của dân tộc Khương…”
Lý Yêu Yêu thờ ơ nói: “Quan tâm mấy cái này làm gì chứ, bao nhiêu năm như vậy máu tộc này hòa tộc kia, trong người tôi còn chảy máu của năm mươi sáu dân tộc này. Vẽ xong rồi thì đi, chúng ta đi xem vương lăng.”
Sáu người ngồi xe du lịch ở đây đi tới vương lăng Tây Hạ.
Ngàn năm trước, các tượng đá được bố trí trong thành Nguyệt, các thành lăng được xây rất cao, trên thành được trang trí bởi các họa tiết như Tần Già, Yết Ma, Hải Sư… Ở mặt đông mỗi tháp có dựng một tấm bia, ghi lại công trạng của chủ nhân lăng lúc sinh thời. Men theo lối vào tượng đá san sát, có tượng đá của các văn thần võ tướng, các loài thú đem lại sự may mắn như kỳ lân, voi trắng… Theo lối vào đi sâu vào trong có ba gian hiến điện, là nơi tế cúng trong lăng. Kiến trúc đặc sắc nhất của lăng thành có lẽ là tháp lăng. Gạch hồng ngói đen, tháp bảy tầng hình bát giác theo kiến trúc Phật giáo, nhiêu đây có thể chứng minh Tây Hạ theo tín ngưỡng Phật giáo.
Nhưng tiếc là, bao nhiêu miêu tả đẹp đẽ kia chỉ là hình dáng lăng trước khi Tây Hạ bị diệt vong.
“Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tự mình dẫn quân Mông Cổ đi chinh phạt Tây Hạ, quân Mông Cổ đi tới núi Hạ Lan, đốt lăng Tây Hạ, đình, điện, đào lăng phơi thây..” Trong sổ tay du lịch nói như vậy.
Cho nên hôm nay những gì mọi người nhìn thấy chỉ là một bao đất vàng xấu xí.
“Thật ra trước đây kiến trúc nơi này rất đẹp mắt, nhưng quân Mông phá hủy hoàn toàn, chúng phá hết gạch tường, chỉ để lại bao đất bên trong. Nhưng ngay cả như vậy, vương lăng Tây Hạ vẫn được coi như “Kim tự tháp phương Đông”.” Tiểu Kiều tiếc nuối nói.
Dư Ngư vô cùng khinh thường nói: “Quân Mông Cổ chỉ biết phá hoại, phá tới châu Âu xong rồi sao, đến một nhà cũng không có. Thời Nguyên, quân Mông đánh phía Tây xong quay trở về Trung Nguyên chiếm đoạt một lần nữa, cứ có tiền là đánh. Như một máy chiến đấu không bằng, ha ha.” Nói đến đây cười ha hả không ngừng, “Cho nên mới nói ngu si tứ chi phát triển, có thằng cha nào muốn thống trị mà lại đi cướp tiền của bách tính không? Thật ra xưa giờ mấy vụ chiếm đoạt ngôi vị năm nào mà chẳng có, nhưng người ta cướp cũng phải cướp một cách nho nhã, chỉ có quân Mông chạy ào vào nhà người ta chiếm đoạt!”
Tiểu Kiều bị anh chọc cười, nói: “Thật ra người Mông rất hận Tây Hạ, bởi lúc Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ đang chết dần. Lý Hiển Nhất đầu hàng, người Mông liền vọt vào Tây Hạ đánh hết thành này tới thành khác. Cuối cùng tộc Đảng Hạng bị diệt vọng.”
Dư Ngư ngồi chồm hổm dưới đất, nhặt một nắm đất lên, cười nhạo: “Cũng may mà người Hán nhiều, bọn chúng không giết sạch được.”
Nam Cung Cẩu Thặng ngồi xuống bên cạnh anh, nói: “Biết vì sao ở đây không có cỏ không?” Những nơi gần lăng cỏ mọc um tùm xanh biếc, nhưng kì lạ là xung quanh lăng đất đai lại khô cằn như sa mạc, không có đến một cọng cỏ nào.
Dư Ngư nhìn gã.
Nam Cung Cẩu Thặng nói: “Để phòng ngừa vài trăm năm sau cỏ mọc um tùm phá hỏng vương lăng, người Tây Hạ chưng gạo nếp lên rồi tưới quanh mô đất xung quanh, tất cả cây cỏ đều bị diệt sạch.”
Dư Ngư đứng thẳng dậy, tiếp tục đi vào trong, Kiều Du không khỏi cảm khái: “Nam Cung tiên sinh, anh biết thật nhiều!”
Nam Cung Cẩu Thặng cười ha ha, vui vẻ nói: “Đâu có, chỉ là nghe người ta nói mò mà thôi, đồng chí Tiểu Kiều mới lợi hại nhất, cái gì cũng biết hết!”
Đi về phía trước, ngôi mộ của Hạ Cảnh Tông Lý Nguyên Hạo hướng về phía Tây, Nam Cung Cẩu Thặng nháy mắt tỏ vẻ ngây thơ hỏi Tiểu Kiều: “Sao lại thế?!”
Kiều Du giải thích: “Người Tây Hạ một lòng tin vào Phật giáo, bọn họ cho rằng như vậy có thể được đến gần Phật tổ hơn, mở đường tới Tây thiên mà tu hành đắc đạo.”
Cẩu Thặng giơ ngón cái lên: “Đúng là được mở mang kiến thức, đồng chí Tiểu Kiều học thức uyên bác ghê!”
Dưới ánh mặt trời, gò má trắng nõn của Kiều Du hơi phiếm hồng.
Mọi người đi tới gần lăng tháp, Dư Ngư và Lý Yêu Yêu thấy trên một tấm bia đá có viết hai chữ “Mộ đạo”, lập tức gào thét nhào tới. (Mộ đạo: Đường vào mộ).
Mộ đạo ở mấy chục thước trước lăng tháp, lối đi xuống mặt đất bị kính bảo vệ che lại, Dư Ngư và Lý Yêu Yêu tranh nhau thò đầu nhìn, mặt như muốn dán vào kính thủy tinh.
Mộ thất đã bị người Mông Cổ đi qua từ ngàn năm trước, bên trong không còn sót lại gì cả. Nam Cung Cẩu Thặng đi tới bên người hai đồ đệ, cười híp mắt nói: “Mộ thật ở mười lăm thước trước tháp lăng, đây là tục táng của người Tây Hạ, nhớ chứ?”
Hai người tranh nhau gật đầu: “Nhớ ạ!”
Lý Yêu Yêu đứng lên phủi đất đá trên người: “Sư phụ, sư phụ thật sự có thể dẫn bọn con đi xem sao?”
Nam Cung Cẩu Thặng gật đầu nói phải, không lừa mấy đứa, đi xem vương lăng thật mà. Không phải vội, cứ chơi vài ngày cái đã.
Sau đó lại thấp giọng nói bên tai Lý Yêu Yêu: “Để sư phụ bồi dưỡng tình cảm với sư nương trước đã.”
Lý Yêu Yêu đắc ý vỗ ngực đảm bảo: “Không thành vấn đề, con sẽ giúp sư phụ!”
Buổi tối quay trở lại khách sạn, Nam Cung Cẩu Thặng kêu ra ngoài chơi một chút, trước đấy không biết Dư Ngư và Xa Xà rủ rê nhau cái gì, chẳng thấy tăm hơi hai người đâu.
Nam Cung Cẩu Thặng lắc đầu cảm khái: “Đúng là hai thằng nhóc ham chơi.”
Lại đi được một đoạn, đồng chí Cẩu Thặng liếc mắt ra hiệu với tiểu đồ đệ, tiểu đồ đệ Tam Cẩu hiểu chuyện liền từ từ tiếp cận Tô Di, đột nhiên nắm chặt tay anh.
Tim Tô Di đập mạnh, kinh ngạc quay đầu lại nhìn Lý Yêu Yêu, Lý Yêu Yêu không chớp mắt nhìn anh mà đi tới, bước chân dần chậm lại.
Kiều Du thấy Tô Di càng ngày càng cách xa mình, không khỏi quay đầu nhìn, thấy Lý Yêu Yêu và Tô Di nắm chặt tay thì nhíu mày, ngực như bị ai đâm một đao mà khó chịu khôn xiết.
Trong bóng đêm, Tô Di rũ mi mắt, tránh được ánh nhìn của anh.
Kiều Du quay đầu lại, lòng lạnh lẽo, Nam Cung Cẩu Thặng nói gì bên tai cũng không nghe vào. Trong đầu không ngừng tự trách, bởi vì anh nhát gan không dám chủ động tranh thủ. Mà anh biết rõ, nếu lần này Tô Di và Lý Yêu Yêu quay lại với nhau, anh sẽ không còn cơ hội.
Đến khi anh lấy hết dũng khí quay đầu nhìn lại lần thứ hai, trong đám đông nhộn nhịp phía sau, đâu còn bóng Tô Di và Lý Yêu Yêu?
.o.
Chú thích: