11.
Căn hộ của ông Zemirli nằm ở tầng ba một tòa nhà bình dị trên phố Isklital. Cửa nhà mở ra một hành lang dẫn vào nơi những cuốn sách cũ chất đống dọc theo tường.
Ogür Zemirli mặc một chiếc quần flanen, áo sơ mi trắng, áo choàng ở nhà bằng lụa và đeo hai cặp kính. Một cặp được kéo vội lên trán, một nằm trên sống mũi. Ogür Zemirli đổi gọng kính luân phiên, tùy vào lúc ông phải đọc hay phải nhìn xa. Râu ria được cạo nhẵn nhụi, chỉ trừ một vài sợ hoa râm nằm ở chỏm cằm hẳn đã thoát khỏi bàn tay thợ cạo.
Ông dẫn các vị khách vào căn phòng khác bày biện đồ gỗ kiểu Pháp và Ottoman, rồi mất hút trong bếp sau đó trở ra cùng một phụ nữ dáng vẻ đẫy đà. Bà mang trà cùng bánh ngọt kiểu phương Đông ra, ông Zemirli cảm ơn rồi bà nhanh chóng rút lui.
- Đó là bà bếp của tôi, ông nói, bánh của bà ấy ngon tuyệt, các vị dùng đi.
Daldry không đợi phải nài.
- Vậy ra cô là con gái của Cömert Eczaci? ông hỏi.
- Không thưa ông, nố tôi mang họ Pendellbury, Alice đáp rồi đưa ánh mất tiếc nuối nhìn Daldry.
- Pendelbury sao? Tôi không nghĩ ông ấy đã bảo với tôi thế… Nhưng cũng có lẽ trí nhớ của tôi không còn được như trước nữa, người đàn ông tiếp tục.
Đến lượt Daldry nhìn Alice, và cũng giống cô, anh đang tự hỏi liệu vị chủ nhà của họ có còn minh mẫn hay không; anh oán giận Can vì đã dẫn họ tới đây, càng giận hơn nữa vì đã khơi dậy trong Alice niềm hy vọng được biết thêm chút ít về bố mẹ cô.
- Ở khu này, ông Zemirli nói tiếp, người ta không gọi ông ấy là Pendelbury, nhất là vào thời ấy, chúng tôi đặt cho ông ấy biệt danh Cömert Eczaci.
- Thế nghĩa là “vị dược sĩ tốt bụng”, Can dịch.
Khi nghe những từ ấy Alice thấy tim mình đập rộn.
- Đó có phải cha cô không? Người đàn ông hỏi.
- Rất có thể, thưa ông, bố tôi đều có hai phẩm chất ấy.
- Tôi vẫn nhớ rất rõ ông ấy, cả mẹ cô nữa, một người phụ nữ đặc biệt. Cả hai người đều làm việc ở bệnh viện trường đại học. Hãy theo tôi, ông Zemirli nói rồi khó nhọc đứng dậy.
Ông lại gần cửa sổ rồi chỉ căn hộ nằm ở tầng hai tòa nhà đối diện. Alice thấy dòng chữ “Cư xá Roumélie” khắc trên tấm biển treo phía trên cổng xe vào.
- Ở lãnh sự quán người ta nói rằng bố mẹ tôi sống ở tầng ba.
- Còn tôi, tôi nói với cô rằng họ đã sống ở kia, ông Zemirli vừa nhấn mạnh vừa chỉ vào những ô cửa sổ tầng hai. Cô có thể tin lãnh sự quán nước cô nhưng chính bà cô tôi đã cho họ thuê căn hộ nhỏ đó. Cô thấy không, kia, ở bên trái, đó là phòng khách của họ, còn cửa sổ còn lại là cửa sổ phòng ngủ, căn bếp nhỏ nhìn ra sân, cũng giống như ở tòa nhà này. Thôi nào, các vị tới đây ngồi đi, chân tôi đau quá. Vả lại chính nhờ cái chân này mà tôi quen cha mẹ cô. Tôi sẽ kể cô nghe mọi chuyện. Khi ấy tôi còn trẻ, và giống như bao thằng nhóc khác, trò chơi ưa thích của tôi sau khi tan trường cấp ba là nhảy xe điện…
Cụm từ ấy phải hiểu theo đúng nghĩa đen của nó bởi vì để được đi không mất tiền, các cậu thanh niên choai choai Istanbul phải nhảy lên xe điện lúc nó đang chạy rồi ngồi vắt vẻo trên cái đèn pha lớn nằm phía sau xe. Nhưng vào một ngày mưa Ogüz nhảy hụt nên bị móc vào giá chuyển hướng và bị lôi đi mấy mét. Các bác sĩ phẫu thuật đã gắng hết sức khâu vá các vết thương lại đồng thời vừa khéo tránh không phải cắt chân. Ogüz được miễn nghĩa vụ quân sự nhưng sau đó không có ngày mưa gió trở trời nào mà cái chân cậu lại không trở chứng đau nhức.
- Khi ấy thuốc men còn đắt đỏ, ông Zemirli giải thích, quá đắt nên người ta chẳng thể mua nổi ở hiệu thuốc. Cha cô đã mang thuốc từ bệnh viện về rồi cho tôi cũng như tất cả những người nghèo khó khác trong khu; trong thời gian chiến tranh, có thể nói ông ấy đã giúp rất nhiều người ở đây những lúc họ lâm bệnh. Trong căn hộ nhỏ ấy, bố mẹ cô đã dựng nên một dạng phòng khám bí mật. Ngay sau khi từ bệnh viện trường đại học về, mẹ cô liền bắt tay vào chăm sóc và băng bó cho bệnh nhân còn cha cô phát những loại thuốc ông ấy có thể kiếm được cũng như tự mình kê các đơn thuốc chữa bệnh. Vào mùa đông, khi bọn trẻ con mắc dịch sốt, đôi khi người ta thấy các bà mẹ xếp hàng dài ra đến tận phố. Nhà chức trách không dễ bị lừa nhưng do việc làm này hoàn toàn vì mục đích từ thiện và có lợi cho người dân nên cảnh sát cũng nhắm mắt làm ngơ. Bản thân con cái họ cũng tới khám chữa bệnh trong căn hộ nhỏ đó. Tôi không biết có anh cảnh sát nào lại dám đối mặt với vợ mình lúc về nhà nếu trước đó đã bắt bớ cha mẹ cô, và vì thời đó tôi còn trẻ nên quen biết tất tần tật đám cảnh sát. Nếu tôi nhớ không lầm thì cha mẹ cô đã lưu lại đây hai năm. Và rồi một buổi tối, cha cô phát thuốc nhiều hơn thường lệ, mỗi người được nhận gấp đôi so với thường lệ. Hôm sau, cha mẹ cô không còn ở đây nữa. Bà cô tôi đợi hơn hai tháng mới dám dùng chìa khóa riêng của mình mở cửa vào tìm hiểu sự tình. Căn hộ đã được xắp xếp gọn gàng, không thiếu lấy một chiếc đĩa, một bộ đồ ăn; trên bàn bếp, bà tìm thấy số tiền thuê nhà còn thiếu cùng một lá thư giải thích rằng họ phải trở lại nước Anh. Những dòng chữ viết tay của cha cô khiến mọi người ở đây trước đó đều rất lo lắng cho Cömert Eczaci cùng vợ đều thở phào nhẹ nhõm, cả đám cảnh sát trong khu vực cũng vậy, vì trước đó chúng tôi vẫn nghi ngờ họ. Cô biết không, ba mươi lăm năm sau, mỗi lần tới hiệu thuốc tìm mua thuốc để làm cái chân tệ hại này im đi, tôi thường ngẩng đầu lên khi ra khỏi nhà và tôi tưởng như mình đang thấy khuôn mặt tươi cười của Cömert Eczaci bên khung cửa sổ đối diện. Vậy nên tôi muốn nói với cô rằng tôi thật xúc động khi tối nay được gặp con gái ông ở nhà mình.
Phía sau cặp kính dày của ông Zemirli, Alice thấy đôi mắt của người đàn ông ấy ướt lệ và cô cảm thấy bớt bối rối hơn khi chính mình cũng không cầm được nước mắt.
Cảm xúc dâng trào cũng khiến cả Can lẫn Daldry đều ngạc nhiên, Ông Zemirli lấy khăn mùi soa từ trong túi ra chấm chấm đầu mũi. Ông nghiêng người rót thêm trà cho các vị khách.
- Chúng ta hãy nâng ly tưởng nhớ vị dược sĩ tốt bụng của Beyoğlu và chúc sức khỏe vợ ông.
Mọi người đều đứng dậy và cùng nhau cụng ly… trà bạc hà,
- Thế còn tôi, Alice hỏi, ông có nhớ gì về tôi không?
- Không, tôi không nhớ là đã nhìn thấy cô, tôi thực lòng muốn nói ngược lại nhưng như thế sẽ là dối cô. Khi ấy cô lên mấy?
- Năm tuổi.
- Vậy thì đúng rồi, cha mẹ cô làm việc cô hẳn phải đến trường.
- Rất hợp lý, Daldry nói.
- Theo ông thì tôi học trường nào? Alice tiếp lời.
- Cô không nhớ gì sao? Ông Zemirli hỏi.
- Không chút nào, một khoảng đen khổng lồ cho tới tận khi chúng tôi trở lại Luân Đôn.
- À, tuổi của những ký ức đầu tiên! Cô biết đấy, điều này tùy thuộc vào từng đứa trẻ. Một số đứa nhớ được nhiều thứ hơn bạn cùng trang lứa. Tuy nhiên, đó là những kỷ niệm thực sự hay lại được tạo từ những điều người ta kể cho chúng ta? Tôi thì tôi quên tất tật mọi thứ xảy ra trước năm lên bảy, hoặc hơn nữa có thể là lên tám. Khi tôi thổ lộ điều ấy với mẹ tôi, bà rất tức giận, bà bảo: “Bao năm tháng mẹ phải chăm bẵm con mà con quên hết rồi sao?” Nhưng cô đang hỏi về chuyện trường học cơ mà. Rất có thể bố mẹ cô đã đăng kí cho cô học tại Saint-Michel, không xa đây lắm và ở đó người ta dạy tiếng Anh, Đó là một ngôi trường nghiêm khắc và có tiếng; sổ sách của họ hẳn vẫn còn được lưu giữ, cô nên tới đó xem sao.
Đột nhiên ông Zemirli có vẻ mệt. Can húng hắng ho để mọi ngời hiểu là đã đến lúc rời đi. Alice đứng dậy cảm ơn người đàn ông đứng tuổi vì lòng hiếu khách của ông. Ông Zemirli đặt tay lên ngực.
- Cha mẹ cô là những người vừa khiêm nhường vừa đầy nghị lực, hành động của họ thật anh hùng. Tôi rất vui vì giờ đây đã chắc chắn được rằng họ đã hồi hương an toàn, và càn vui sướng hơn nữa khi được ưu ái làm quen với con gái của họ. Nếu họ không kể gì với cô về thời gian lưu lại tại Thổ Nhĩ Kỳ thì chắc chắn đó là vì họ khiêm tốn. Nếu cô ở lại Istanbul đủ lâu, cô sẽ hiểu tôi muốn nói gì. Hãy sáng suốt nhé, Cömert Eczaci’nin Kizi.
Sau khi họ ra đến phố, Can đã dịch lại ọi người hiểu cụm từ đó nghĩa là “con gái của vị dược sĩ tốt bụng”.
Giờ mà tới gõ cửa trường Saint-Michel thì quả là không tiện. Sáng mai Can sẽ tới đó xắp xếp một cuộc hẹn cho họ.
Alice và Daldry ăn tối ở phòng ăn của khách sạn. Suốt bữa ăn họ không chuyện trò mấy. Daldry tôn trọng khoảng lặng của Alice. Đôi lúc, anh cố làm cho cô vui bằng cách kể vài giai thoại tiếu lâm về thời trẻ của mình nhưng tâm trí Alice đang ở tận đẩu tận đâu và nụ cười của cô ấy đầy gượng ép.
Lúc họ tạm biệt nhau ở thềm nghỉ, Daldry nhắc Alice rằng cô có lý do chính đáng để vui mừng, Ogüz Zemirli chắc chắn là người thứ ba, nếu không thì cũng là người thứ tư trong số sáu người mà bà thầy bói ở Brighton đã nhắc đến.
Alice đóng cửa phòng rồi sau đó một lát, cô tới bên chiếc bàn viết kê cạnh cửa sổ.
Anton,
Mỗi tối khi băng qua sảnh khách sạn, em đều hy vọng rằng người gác cổng sẽ chuyển cho em lá thư của anh. Một mong đợi thật ngớ ngẩn, sao anh lại viết thư cho em chư?
Em đã có một quyết định, em phải rất can đảm mới dám hứa điều này và hẳn rồi còn phải can đảm nhiều hơn nữa mới giữ lời được. Ngày trở lại Luân Đôn, em sẽ tới gõ cửa nhà anh, em sẽ đặt ngày trước cửa một bó thư được để trong một chiếc tráp nhỏ mà trong tuần này em sẽ tới mua ở khu chợ lớn. Trong đó, em bỏ lại tất cả những lá thư đẵ viết cho anh nhưng không gửi.
Có lẽ anh sẽ đọc thư ngay trong đêm và rồi có lẽ hôm sau anh sẽ tới gõ cửa nhà em. Như thế thật là nhiều “có lẽ” nhưng từ lâu nay, “có lẽ” đã thành một phần cuộc sống hằng ngày của em.
Và để ví dụ cho anh thấy, có lẽ cuối cùng em đã tìm ra ý nghĩa của những cơn ác mộng vẫn ám ảnh em.
Bà thầy bói ở Brighton nói đúng, ít nhất là ở một điểm. Em đã trải qua tuổi thơ ở đây, trên tầng hai của một tòa nhà tại Istanbul. Em ở đây hai năm. Em hẳn đã chơi đùa trong một con hẻm mà ở đầu hẻm có một cầu thang lớn. Em không nhớ gì về thời kỳ này nhưng những hình ảnh về một cuộc sống khác cứ ùa về trong những giấc đêm của em. Để tìm ra điều bí ẩn phủ bóng lên một phần thời thơ ấu của em, em phải tiếp tục cuộc tìm kiếm. Em đoán ra lý do tại sao bố mẹ em không bao giờ kể chuyện này với em. Nếu là mẹ, em hẳn cũng làm như bà và tránh cho con gái em phải nghe những kỷ niệm quá mức nặng nề.
Chiều nay, một người đã chỉ cho em thấy khung cửa sổ của căn hộ nơi nhà em từng sống, nơi hẳn mẹ em đã ngó ra ngắm cảnh dưới phố. Em tưởng tượng ra căn bếp nhỏ nơi mẹ chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà, căn phòng khách nơi em hẳn đang ngồi trên đầu gối bố. Em cứ tưởng rằng thời gian rồi sữ làm liền viết thương do sự vắng mặt của họ gây ra, nhưng không phải thế.
Em ước một ngày nào đó được đưa anh đi khám phá thành phố này. Chúng ta hẳn sẽ cùng nhau dạo trên phố Isklital, và khi tới chân khu cư xá Roumélie, em sẽ chỉ cho anh nơi em từng sống lúc lên năm.
Một ngày nào đó chúng ta sẽ dạo bước dọc eo Bosphore, anh sẽ chơi kèn và ở tận những ngọn đồi Üsküdar người ta vẫn sẽ nghe thấy tiếng trompet của anh.
Hẹn gặp anh ngày mai, Anton.
Hôn anh.
Alice
* * *
Cô thức dậy cùng bình minh; ngắm nhìn ngày mới đang lên với những tia sáng màu xám bạc của buổi sớm rọi trên eo Bosphore khiến Alice muốn rời khỏi phòng.
Phòng ăn của khách sạn vẫn còn vắng vẻ, những người hầu bàn mặc chế phục có gù vai cầu kỳ đang hoàn tất việc dọn bàn. Alice chọn một bàn trong góc. Cô mượn một tờ báo số ra ngày hôm trước bị bỏ lại trên bàn thu dọn chén đĩa. Ngồi một mình trong phòng ăn của một khách sạn sang trọng ở Istanbul đọc tin tức về Luân Đôn, cô để tờ báo tuột khỏi tay trong khi tâm trí bay về phía đồi Primrose.
Cô hình dung ra Carol đang xuôi xuống phố Albermarle để tới Piccadilly nơi cô bắt xe buýt. Cô nhảy lên chỗ đứng giữa cuối chiếc xe buýt hai tầng và bắt chuyện ngay với người soát vé hòng khiến anh a quên luôn đục lỗ trên vé. Cô bảo trông anh ta có vẻ không được khỏe, rồi tự giới thiệu và khuyên anh ta hôm nào đó nên tới chỗ cô làm việc, và chắc chắn đến 50% là cô sẽ xuống xe trước cổng bệnh viện với tấm vé vẫn còn nguyên vẹn.
Cô nghĩ tới Anton đang bước đi, túi khoác trên vai, cổ áo khoác để mở, ngay cả trong tiết trời giá lạnh mùa đông, món tóc dựng đứng trên trán cùng đôi mắt vẫn còn ngái ngủ. Cô thấy anh băng qua sân xưởng mộc, ngồi vào chiếc ghế đẩu trước bàn thợ, tính toán những nhát dao cần chạm, vuốt vuốt núm quả táo trên cái bào, rồi liếc mắt sang chiếc kim ngắn trên đồng hồ quả lắc và vừa thở dài vừa bắt tay vào việc. Cô nhớ tới Sam, anh vừa bước vào hiệu sách Camden qua lối cửa sau, cởi áo khoác rồi xỏ chiếc áo bờ lu màu xám vào. Sau đó anh mới bước vào gian hàng, phủi bụi trên các giá sách hoặc kiểm kê sách trong lúc chờ khách tới. Cuối cùng, cô mường tượng ra cảnh Eddy đang nằm khoanh tay trên giường, gáy ro ro. Và hình ảnh ấy khiến cô mỉm cười.
- Tôi có làm phiền cô không?
Alice giật mình ngẩng lên. Daldry đang đứng trước mặt cô.
- Không, tôi đang đọc báo.
- Mắt cô tinh thật đấy!
- Sao anh lại nói thế? Alice hỏi.
- Vì tờ báo đang ở dưới gầm bàn, cạnh chân cô.
- Tôi đang nghĩ vẩn vơ, cô thú thật.
- Nếu không bí mật thì là nghĩ tới đâu vậy?
- Tới nhiều địa điểm khác nhau ở Luân Đôn.
Daldry quay về phía quầy bar với hy vọng khiến anh chàng phục vụ chú ý.
- Tối nay, tôi sẽ đưa cô tới dùng bữa tại một nơi đặc biệt, một trong những nhà hàng tuyệt vời nhất Istanbul.
- Chúng ta ăn mừng điều gì à?
- Có thể nói như vậy. Chuyến du hành của chúng ta đã bắt đầu tại một trong những nhà hàng tuyệt vời nhất Luân Đôn, tôi thấy vô cùng hợp lú nếu nó kết thúc với riêng tôi bằng cách tương tự.
- Nhưng anh sẽ không đi trước khi…
- … khi máy bay của tôi cất cánh!
- Nhưng nó sẽ không cất cánh trước…
- Cô có nghĩ tôi cần phải lăn ra đất thì người ta mới mang cà phê đến cho không? Như thế thật là quá lắm! Daldry thốt lên khi ngắt lời Alice lần thứ hai.
Anh giơ tay vẫy cho tới khi anh chàng phục vụ có mặt tại bàn, rồi gọi một bữa sáng thịnh soạn và năn nỉ họ mang ra sớm vì anh đang đói ngấu.
- Vì chúng ta có một buổi sáng rảnh rỗi, anh tiếp tục, nên cô nghĩ sao nếu chúng ta tới khu chợ lớn? Tôi muốn tìm mua ẹ một món quà và cô sẽ giúp đỡ tôi rất nhiều nếu tư vấn cho tôi, tôi không có mảy may ý tưởng nào về thứ hợp với sở thích của bà.
- Một kiểu đồ cổ xinh xắn?
- Kiểu thế nào?
- Tráp đựng nữ trang chẳng hạn, tôi đã thấy một cái được khảm trai tuyệt đẹp.
- Sao lại không nhỉ, nhưng bà từng nói với tôi là chỉ thích đồ gỗ dát của Anh.
- Một món đồ bạc thật đẹp?
- Bà chỉ thích đồ sứ.
Alice nghiêng người về phía Daldry.
- Anh nên nán lại thêm vài ngày rồi vẽ tặng bà một bức tranh, giả dụ anh có thể bắt đầu ở ngã tư lớn, ngay lối lên cầu Galata.
- Phải rồi, quả là một ý hay. Tôi sẽ phác thảo qua để ghi nhớ chỗ ấy rồi bắt tay vào việc khi đã trở lại Luân Đôn. Như thế không sợ bức tranh tổn hại gì khi đi lại.
- Vâng, Alice thở dài, chúng ta cũng có thể làm thế.
- Vậy thì, đồng ý, Daldry nói, chúng ta sẽ đi dạo trên cầu Galata.
Rồi ngay khi bữa sáng kết thúc, Alice cùng Daldry bắt xe điện tới Karaköy, xuống ở chỗ lối lên cây cầu bắc qua vịnh Sừng Vàng vươn mình trên mặt nước tới tận Eminönü.
Daldry lấy từ trong túi ra một cuốn sổ bìa giả da cùng cây bút chì đen. Anh vẽ tỉ mỉ từng chỗ, đánh dấu bến đỗ taxi, phác một nét vẽ bến tàu thủy nơi những con tàu hơi nước khởi hành tới Kadiköy, thảo hình dáng những người đi tàu về phía đảo Moda và bờ Üsküdar, rồi bến cảng nhỏ nơi những con thuyền qua lại giữa hai bời vẫn cập vào, quảng trường hình ovan là điểm dừng của tuyến xe điện từ Bebek và Beyoğlu. Anh kéo Alice tới chỗ một băng ghế.
Tiếp tục vẽ kín từng trang giấy trong cuôn sổ, giờ anh chuyển sang những khuôn mặt, khuôn mặt người bán dưa hấu phía sau sạp hàng, khuôn mặt người đánh giày đang ngồi trên một cái thùng gỗ, người mài dao kéo đang đạp bàn đạp để quay bánh mài. Sau đó tới một chiếc xe ba gác do con la bụng to thõng xuống kéo, một chiếc ô tô bị hỏng, hai bánh đỗ ghé lên vỉa hè, anh tài xế đang chúi nửa người dưới nắp ca pô.
- Xong rồi, anh vừa xếp lại vừa nói sau khoảng một giờ đồng hồ. Tôi đã ghi lại những chi tiết cơ bản, phần còn lại thì nhớ trong đầu. Dù sao chúng ta cũng làm một vòng quanh khu chợ lớn thôi.
Họ lên một chiếc dolmuş.
Họ sục sạo trong những con hẻm ở khu chợ lớn đến tận trưa. Alice mua một chiếc tráp bằng gỗ có viền khảm trai, Daldry tìm được một chiếc nhẫn đá xinh xắn. Mẹ anh thích màu xanh, có thể bà sẽ đeo nó.
Họ ăn trưa bằng kebab rồi trở về khách sạn lúc đầu giờ chiều.
Can đang đợi họ trong sảnh, khuôn mặt rầu rĩ.
- Tôi chán qua, công việc của tôi lật úp rồi.
- Anh ta nói cái quái gì vậy? Daldry làu bàu vào tai Alice.
- Rằng nhiệm vụ của anh ta đã thất bại.
- Phải rồi, nhưng tóm lại là không sáng sủa một tí nào, làm thế nào mà tôi hiểu được cơ chứ?
- Đấy là một câu hỏi quen thuộc rồi, Alice cười.
- Như đã hứa, sáng nay tôi đã hiện diện ở trường Saint-Michel để gặp hiệu trưởng. Ông ấy rất dễ giao du và đã cho tôi tra sổ sách. Chúng tôi xem hết lượt sổ của hai năm mà các vị đã nói, từng lớp một. Không dễ dàng cho lắm, chữ viết đã lâu rồi mà giấy thì đầy bụi. Chúng tôi đã hắt hơi nhiều lần nhưng vẫn xem kỹ từng trang, không bỏ qua bất cứ trường hợp nhập học nào. Vậy mà chúng tôi không được thưởng cho những nỗ lực của mình. Không gì cả! Chúng tôi không tìm được ai mang họ Pendelbury hay Eczaci. Chúng tôi chia tay nhau mà lòng đầy mừng hụt và tôi lấy làm buồn báo với cô rằng cô chưa từng học ở Saint-Michel. Ngài hiệu trưởng thì không thể chối cãi được rồi.