4.
Một tuần trôi đi, tưởng như dài vô tận. Alice đã dứt cơn sốt nhưng cô vẫn chưa thể bắt đầu làm việc trở lại, cô gần như không thấy thèm ăn. Daldry không xuất hiện nữa. Alice đã sang gõ cửa nhà anh nhiều lần, căn hộ của người hàng xóm luôn im lìm.
Carol vẫn ghé qua sau mỗi phiên trực, mang tới cho cô đồ ăn cùng mấy tờ báo nẫng được ở phòng chờ bệnh viện. Một tối, quá mệt mỏi để có thể băng qua ba con phố ngăn cách nhà cô với nhà Alice trong giá rét nên cô đã nán lại ngủ qua đêm.
Carol nằm chung giường với Alice và đã phải cố hết sức lay cô bạn dậy ngay giữa đêm hôm để kéo cô khỏi cơn ác mộng từ đó trở đi cứ ám ảnh giấc ngủ của cô hằng đêm.
Thứ Bảy, giữa lúc vui mừng vì được quay lại bàn làm việc, Alice nghe thấy có tiếng bước chân ngoài thềm nghỉ cầu thang. Cô đẩy ghế bành ra rồi lao nhanh tới cửa. Daldry vừa về tới nhà, trên tay xách một chiếc va li nhỏ.
- Chào cô, Alice, anh nói mà không quay người lại.
Anh xoay chìa trong ổ khoá nhưng lại ngập ngừng chưa bước vào.
- Tôi rất lấy làm tiếc, tôi không qua thăm cô được, tôi có việc phải vắng mặt vài ngày, anh nói thêm, vẫn không quay lưng lại.
- Anh không có gì mà phải xin lỗi cả, tôi chỉ lo lắng vì không nghe thấy tiếng anh nữa.
- Tôi đi nghỉ, lẽ ra tôi nên nhắn với cô vài lời, nhưng tôi lại không làm thế, anh nói, mắt vẫn dán chặt vào cửa ra vào.
- Tại sao anh không quay mặt lại? Alice hỏi.
Daldry từ từ quay lại, khuôn mặt anh nhợt nhạt, râu ria lởm chởm, mi mắt thâm quầng, hai mắt đỏ ngầu đẫm lệ.
- Có gì không ổn sao? Alice lo lắng hỏi.
- Không, tôi vẫn ổn, Daldry đáp, nhưng thứ Hai vừa rồi bố tôi lại có một ý tưởng tai hại là không bao giờ thức dậy nữa. Chúng tôi làm lễ mai táng cho ông được ba hôm rồi.
- Mời anh sang đây, Alice nói, tôi sẽ pha cho anh tách trà.
Daldry bỏ lại va li trước cửa nhà rồi theo chân cô hàng xóm. Anh nhăn nhó thả mình xuống ghế bành. Alice kéo ghế đẩu tới ngồi đối diện với anh.
Daldry ngắm nhìn tấm mái kính, ánh mắt xa xăm. Cô tôn trọng khoảng lặng của anh và cứ ngồi như thế suốt một tiếng đồng hồ, không nói lời nào. Rồi Daldry thở dài đứng dậy.
- Cảm ơn cô, anh nói, đây chính xác là thứ tôi cần. Giờ tôi sẽ về nhà, tắm rửa sạch sẽ và rồi, a lê hấp, lên giường.
- Ngay trước khi a lê hấp anh hãy qua đây ăn tối, tôi sẽ làm món trứng ốp la.
- Tôi không thấy đói lắm, anh trả lời.
- Dù sao anh cũng nên cố ăn lấy một chút, Alice đáp trả.
Lát sau thì Daldry quay trở lại, anh mặc một chiếc áo thun cao cổ cùng quần flanen, tóc tai vẫn bù xù mà mắt thâm quầng.
- Xin thứ lỗi cho vẻ ngoài của tôi, anh nói, tôi e là đã để quên dao cạo ở nhà bố mẹ mà giờ đi mua thì cũng hơi muộn rồi.
- Anh để râu khá hợp đấy chứ, Alice nói thay lời chào đón.
Họ ngồi ăn tối cạnh chỗ cái hòm, Alice đã mở một chai gin. Daldry sẵn lòng uống nhưng lại không muốn ăn chút nào. Anh cố ép mình ăn một chút trứng ốp la, chỉ vì lịch sự.
- Tôi đã tự thề với lòng mình, anh nói sau một lúc im lặng, là một ngày nào đó sẽ nói chuyện như hai người đàn ông với bố. Sẽ giải thích với ông rằng cuộc sống mà tôi đang có là thứ tôi lựa chọn. Tôi chưa bao giờ phán xét cuộc sống của ông dù cho có rất nhiều điều để nói về nó, và tôi mong chờ ông cũng làm như vậy.
- Ngay cả khi ông không cho phép mình được nói ra với anh nhưng tôi chắc rằng ông vẫn ngưỡng mộ anh.
- Cô không biết bố tôi đâu, Daldry thở dài.
- Dù anh có nghĩ gì thì anh vẫn là con trai ông.
- Tôi đã chịu đựng sự vắng mặt của ông suốt bốn mươi năm trời, tôi quyết tâm làm thế. Vậy mà giờ đây khi ông không còn nữa thì lạ thay nỗi đau dường như lại dữ dội hơn.
- Tôi hiểu, Alice thấp giọng nói.
- Tối qua, tôi đã vào phòng làm việc của ông. Mẹ tôi bắt gặp đúng lúc tôi đang lục lọi ngăn kéo bàn giấy. Bà tưởng tôi tìm di chúc của bố, tôi bảo bà rằng tôi chẳng quan tâm ông để lại gì cho tôi, tôi nhường kiểu bận tâm ấy cho các anh chị tôi. Thứ duy nhất tôi hy vọng tìm thấy là một vài dòng, một bức thư biết đâu đấy ông có để lại cho tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng rồi nói: “Con trai bé bỏng tội nghiệp của mẹ, ông ấy chẳng viết gì lại cho con đâu.” Tôi đã không thể khóc nổi lúc hạ huyệt ông, lần cuối cùng tôi khóc là vào mùa hè năm lên mười, khi ấy đầu gối tôi bị rách toác do ngã từ trên cây xuống. Nhưng sáng nay, khi ngôi nhà nơi tôi lớn lên xa dần trong kính chiếu hậu, tôi đã không cầm được nước mắt. Tôi phải tấp vào lề đường vì chẳng nhìn thấy gì cả. Tôi thấy mình thật nực cười khi cứ ngồi trong ô tô mà khóc như một đứa trẻ.
- Anh đã trở lại là một đứa trẻ, Daldry, anh vừa mới chôn cất bố mình.
- Thật buồn cười, cô thấy không, nếu tôi là nghệ sĩ dương cầm, ông ấy có lẽ sẽ thấy đôi chút tự hào về tôi, thậm chí có lẽ ông ấy sẽ tới xem tôi biểu diễn. Nhưng ông ấy lại không quan tâm tới hội hoạ. Với ông, đó không phải một nghề, mà chỉ là một thú tiêu khiển. Tóm lại, cái chết của ông đã tạo cho tôi cơ hội được gặp toàn thể gia đình.
- Anh nên vẽ chân dung ông, rồi mang về nhà bố mẹ anh, treo lên một chỗ thích hợp, ví như trong phòng làm việc của ông chẳng hạn. Tôi chắc rằng dù có đang ở đâu thì bố anh cũng sẽ thấy xúc động.
Daldry phá lên cười.
- Ý tưởng mới khủng khiếp làm sao! Tôi chưa ác đến mức khiến mẹ tôi phải chịu đựng một cú hiểm như thế. Thôi ngừng màn khóc lóc than vãn lại, tôi lợi dụng lòng hiếu khách của cô vậy là đủ rồi. Món trứng ốp la của cô ngon tuyệt, và rượu gin mà tôi đã lạm dụng hơi quá thì còn tuyệt hơn nữa. Vì cô đã khỏi bệnh nên tôi sẽ tiếp tục dạy cô lái xe ngay khi tôi, nói thế nào nhỉ, lấy lại phong độ.
- Rất sẵn lòng thôi, Alice đáp.
Daldry chào tạm biệt cô hàng xóm. Hằng ngày dáng người anh vốn thẳng là vậy mà giờ đây lưng lại hơi còng xuống, bước đi ngập ngừng. Đến giữa thềm nghỉ, anh đổi ý, quay bước, trở vào nhà Alice, cầm lấy chai rượu gin rồi về nhà mình.
Alice lên giường đi ngủ ngay sau khi Daldry ra về, cô thấy kiệt sức và cơn buồn ngủ kéo đến không lâu sau đó.
* * *
“Lại đây nào, giọng nói thì thầm với cô, phải khởi hành từ đây.”
Một cánh cửa mở ra màn đêm, ngoài phố không một ánh đèn, đèn đường đã tắt cả còn cửa sổ các nhà đều đóng im ỉm. Một phụ nữ nắm lấy tay dắt cô đi. Họ cùng nhau bước từng bước khẽ khàng dọc theo vỉa hè vắng ngắt, thận trọng không để ánh trăng rọi vào người vì sẽ bắt bóng khiến họ bị lộ. Hành lý của họ không nặng lắm. Chỉ là một chiếc va li nhỏ đựng vài thứ đồ dùng ít ỏi. Họ leo lên cầu thang lớn. Từ đó có thể thấy toàn cảnh thành phố. Phía xa, một đám cháy lớn đang nhuộm đỏ bầu trời. “Cả một khu phố đang cháy, người phụ nữ nói. Bọn chúng điên mất rồi. Tiến lên thôi. Ở dưới đó, con sẽ được an toàn, họ sẽ che chở cho chúng ta, ta chắc chắn thế. Nào, theo ta, con yêu.”
Alice chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Hai bàn chân bầm tím khiến cô đau nhói, cô không đi giày, mà cũng chẳng thể tìm nổi giày khi mọi thứ xung quanh đều hỗn độn bừa bãi. Có bóng người xuất hiện ở lỗ cửa trên một cánh đồng lớn. Một cụ già nhìn họ rồi ra hiệu cho họ quay ngược trở lại, cụ chỉ cho họ thấy một công sự nơi mấy thanh niên tay lăm lăm súng đang đi tuần tra.
Người phụ nữ lưỡng lự, quay người lại, bà địu một đứa bé trước ngực, khẽ xoa đầu nó dỗ dành. Hành trình điên cuồng lại bắt đầu.
Họ lê bước nặng nề khoảng chục bước thì lên đến đỉnh con đường dốc đứng. Họ đi ngang qua một đài phun nước, mặt nước tĩnh lặng khiến người ta thấy vững tâm hơn. Bên phải họ, một cánh cửa hé mở ra chỗ bức tường bao dài tít tắp. Người phụ nữ có vẻ biết rõ chỗ này, Alice theo chân bà. Họ băng qua một khu vườn bỏ hoang, từng đám cỏ cao ngất đứng bất động, mấy cây cúc gai cắm vào bắp chân Alice như muốn níu cô lại. Cô hét lên một tiếng rồi nín lặng ngay.
Phía cuối một vườn cây ăn quả đang say ngủ, cô thoáng thấy mặt tiền một nhà thờ bị phá tan hoang. Họ băng qua gian hậu cung. Tất cả chỉ là một đống đổ nát, những băng ghế cháy dở đang nằm ngổn ngang. Alice ngẩng đầu lên và thấy trên mái vòm những bức tranh ghép mảnh gợi lại chuyện từ những thế kỷ trước, từ thời xa xưa mà dấu vết đã bị xoá nhoà. Ở xa hơn chút nữa, khuôn mặt mờ xỉn của đức Chúa như đang nhìn cô. Một cánh cửa để mở. Alice bước vào gian hậu cung thứ hai. Ngay chính giữa phòng sừng sững một Lăng mộ được ốp sành, to lớn và đơn độc. Họ lặng lẽ băng qua đó. Rồi họ tới một phòng để quần áo cũ kỹ. Mùi đá chảy hăng hắc hoà lẫn với mùi húng tây và mùi hoa các vi. Alice vẫn chưa biết tên chúng, nhưng cô nhận ra mùi, những thứ mùi ấy rất thân thuộc với cô. Mấy loại cây cỏ này mọc đầy trên khoảng đất trống phía sau nhà cô. Ngay cả khi mùi hương ấy trộn lẫn vào nhau rồi được gió đưa tới cho cô, cô vẫn nhận ra được.
Nhà thờ bị thiêu rụi lùi lại phía sau, người phụ nữ dẫn đường dắt cô qua một hàng rào sắt, giờ đây họ đang chạy trong một con hẻm khác. Alice đã kiệt sức, hai chân cô nhũn ra, bàn tay vẫn giữ lấy tay cô lơi ra rồi buông hẳn. Cô ngồi bệt xuống mặt đường, người phụ nữ đi xa dần, không quay đầu lại.
Một cơn mưa nặng hạt bắt đầu trút xuống, Alice kêu cứu, nhưng cơn mưa rào quá to át cả tiếng gọi, rồi bóng dáng ấy nhanh chóng khuất hẳn. Alice còn lại một mình, quỳ gối giữa đường, tê dại đi. Cô thét lên một tiếng kêu dài, gần như tuyệt vọng.
* * *
Những hạt mưa đá nảy lia thia trên mái kính. Hơi thở gấp gáp hổn hển, Alice ngồi nhỏm dậy, với tay tìm công tắc đèn đầu giường. Khi đèn đã bật, cô đưa mắt nhìn lướt khắp phòng, quan sát từng thứ đồ vật thân thuộc với mình.
Cô thụi hai nắm đấm xuống giường, giận dữ vì lại một lần nữa để mình bị cuốn vào cơn ác mộng vẫn khiến cô khiếp sợ mỗi đêm. Cô đứng dậy đi tới chỗ bàn làm việc, mở cánh cửa sổ trông ra phía sau ngôi nhà rồi hít một hơi thật sâu. Căn hộ của Daldry vẫn sáng đèn và sự hiện diện, dù cho là vô hình, của người hàng xóm khiến cô thấy vững tâm. Ngày mai cô sẽ tới thăm Carol và xin cô bạn lời khuyên. Hẳn phải có một phương thuốc nào đó giúp cho giấc ngủ của cô êm ái hơn. Một đêm không bị ám ảnh bởi nỗi khiếp sợ tưởng tượng, không đầy những cuộc trốn chạy thục mạng trên những con phố xa lạ, một đêm trọn giấc và dịu ngọt, đó là tất cả những gì Alice mơ ước.
* * *
Alice dành trọn những ngày tiếp theo bên bàn làm việc. Mỗi tối, cô đi ngủ muộn hơn, cố gắng cưỡng lại cơn buồn ngủ như người ta chống lại nỗi sợ hãi, cái nỗi sợ vẫn xâm chiếm lấy cô khi ngày tàn. Đêm nào cô cũng gặp lại cơn ác mộng ấy, cơn ác mộng chấm dứt ngay giữa một con hẻm hoà đẫm nước mưa nơi cô lả đi trên mặt đường.
Cô tới thăm Carol vào giờ ăn trưa.
Alice trình tên họ ở quầy lễ tân bệnh viện rồi nhờ họ báo với bạn cô. Cô kiên nhẫn ngồi đợi gần nửa tiếng đồng hồ trong sảnh, giữa những chiếc băng ca được khiêng xuống từ mấy chiếc xe cứu thương vừa chạy tới vừa hú còi ầm ĩ. Một người phụ nữ cầu xin người ta hãy cứu lấy con mình. Một cụ già lẩn thẩn đi quanh mấy băng ghế nơi các bệnh nhân khác đang ngồi đợi tới lượt khám. Một anh chàng mỉm cười với cô, anh ta có nước da tái nhợt, cung mày rộng, một dòng máu đỏ thẫm chảy trên má. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi ôm chặt lấy bụng, dường như đang phải chịu đựng cơn đau đớn khủng khiếp. Ngồi giữa nỗi khốn cùng của đồng loại, Alice chợt cảm thấy tội lỗi. Nếu như cuộc sống về đêm của cô chìm trong ác mộng thì cuộc sống ban ngày của cô bạn cô cũng chẳng khá gì hơn. Carol xuất hiện, đang đẩy một chiếc băng ca mà bánh xe cứ rít lên trên thảm sàn.
- Cậu làm gì ở đây thế? cô hỏi khi trông thấy Alice. Cậu đau ở đâu à?
- Tớ tới chỉ để mời cậu đi ăn trưa.
- Ôi một điều ngạc nhiên dễ chịu đấy. Tớ sắp xếp cho bệnh nhân này xong, cô vừa nói vừa chỉ người bệnh của mình, rồi sẽ ra với cậu. Bộ phận lễ tân cũng cả gan thật đấy, lẽ ra họ phải báo với tớ chứ. Cậu tới đây lâu chưa?
Carol đẩy chiếc băng ca tới chỗ một đồng nghiệp, cởi áo bờ lu ra, lấy áo khoác và khăn quàng trong ngăn kéo tủ rồi rảo bước theo bạn. Cô dẫn Alice ra ngoài khuôn viên bệnh viện.
- Đi nào, cô nói, có một quán bar ở góc phố, đó là chỗ đỡ tồi nhất khu này và so với quầy cà phê trong viện thì đấy phải là một nhà hàng cỡ lớn.
- Thế tất cả những bệnh nhân kia sẽ phải đợi ư?
- Đại sảnh này chẳng bao giờ vắng bóng người bệnh cả, hai tư trên hai tư, ngày nào Chúa cũng tạo ra thế và Chúa cũng ban cho tớ một cái dạ dày mà thỉnh thoảng tớ phải bồi bổ cho nó nếu tớ muốn có đủ sức chăm sóc bệnh nhân. Nào đi ăn thôi.
Quán đầy chặt khách. Carol nở nụ cười lẳng lơ với anh chủ quán, anh này đang đứng ở quầy bar liền chỉ cho cô một bàn nằm phía cuối phòng. Hai cô gái diễu qua trước mặt tất cả thực khách.
- Cậu ngủ với anh chàng rồi à? Alice vừa hỏi vừa ngồi xuống băng ghế.
- Hè năm ngoái tớ đã chăm sóc cho anh ta, anh ta bị một cái nhọt lớn ở đúng chỗ cần kín đáo nhất. Kể từ đó, anh chàng trở thành người đầy tớ tận tuỵ của tớ, Carol mỉm cười đáp lại.
- Tớ chưa bao giờ tưởng tượng được là cuộc sống của cậu lại…
- … đầy mê hoặc đến thế? Carol tiếp lời bạn.
- … cam go đến thế, Alice đáp.
- Tớ yêu những gì mình làm, ngay cả khi không phải ngày nào công việc cũng dễ dàng. Từ khi còn nhỏ, tớ đã dành nhiều thời gian chơi trò băng bó cho đám búp bê. Chuyện ấy khiến mẹ tớ lo lắng khủng khiếp, và bà càng phật ý thì thiên hướng ấy càng lớn dần lên trong tớ. Thôi nào, vậy điều gì khiến cậu tới đây? Tớ không nghĩ rằng cậu tới tận phòng cấp cứu để tìm kiếm mùi hương gợi cảm hứng ột trong những loại nước hoa của cậu.
- Tớ tới ăn trưa với cậu, cậu cần một lý do khác nữa à?
- Cậu biết rồi đấy, một y tá giỏi không chỉ bằng lòng với việc chăm sóc nỗi đau thể xác cho bệnh nhân, chúng tớ còn thấy khi có điều gì đó không ổn trong tâm hồn họ.
- Nhưng tớ không phải là bệnh nhân của cậu.
- Vậy mà khi tớ trông thấy cậu ở sảnh thì cậu có vẻ thế lắm. Nói tớ nghe xem có gì không ổn vậy Alice.
- Cậu không ngó qua thực đơn à?
- Quên thực đơn đi, Carol ra lệnh rồi tước lấy tấm bìa khỏi tay Alice. Tớ chỉ có đủ thời gian xực món chính trong ngày thôi.
Một nhân viên phục vụ mang tới cho họ hai đĩa ragu cừu.
- Tớ biết, Carol nói, trông không có vẻ hấp dẫn lắm, nhưng rồi cậu sẽ thấy, ngon tuyệt đấy.
Alice gảy gảy mấy miếng thịt ra khỏi chỗ rau đẫm trong nước xốt.
- Có lẽ, Carol tiếp tục khi miệng đầy thức ăn, cậu sẽ thấy ngon miệng trở lại khi nói tớ nghe điều khiến cậu trăn trở.
Alice cắm dĩa vào một mẩu khoai tây rồi bĩu môi chán nản.
- Được thôi, Carol nói tiếp, có thể tớ là một kẻ cứng đầu cao ngạo nhưng lát nữa khi bắt xe điện quay về, cậu sẽ thấy mình thật ngu ngốc khi đã lãng phí cả nửa ngày trời mà thậm chí còn không nếm thử món ragu tồi tệ này, hơn nữa chính cậu lại là người trả tiền. Alice, nói tớ nghe xem có chuyện gì không ổn nào, cậu cứ im lặng như vậy khiến tớ sốt ruột lắm.
Alice quyết định kể về cơn ác mộng cứ ám ảnh cô hàng đêm, về nỗi khó ở cứ quấy rầy cô mỗi ngày.
Carol chăm chú lắng nghe hết mức.
- Tớ phải kể cậu nghe chuyện này, Carol nói. Vào buổi tối sau trận ném bom đầu tiên xuống Luân Đôn, tớ có phiên trực. Người bị thương nhanh chóng được chuyển đến; phần lớn là những người bị bỏng, và họ tới bằng chính những phương tiện tự có. Một vài nhân viên đã bỏ bệnh viện đi trú ẩn, nhưng phần lớn bọn tớ đều ở lại vị trí của mình. Bản thân tớ ở lại không phải vì anh hùng gì đâu mà chỉ là vì hèn nhát. Tớ sợ đến tái người nếu phải thò mặt ra ngoài, khiếp sợ trước ý nghĩ bị lửa thiêu rụi nếu ra phố. Sau khoảng một tiếng đồng hồ, làn sóng người bị thương ngừng đổ về. Hầu như không có thêm bệnh nhân nào vào nữa. Trưởng bộ phận cấp cứu, một tay bác sĩ Turner nào đó, đẹp trai, khá lịch lãm, với đôi mắt khiến bất kỳ cô nàng nào cũng phải đổ gục, đã tập trung bọn tớ lại rồi nói rằng: “Nếu người bị thương không tới đây nữa thì là do họ đang mắc dưới đống đổ nát, chúng ta phải tới tìm họ.” Tất cả bọn tớ đều nhìn anh ta, kinh hãi. Rồi anh ta lại nói thêm: “Tôi không ép buộc ai cả, nhưng ai có gan thì hãy cầm lấy băng ca và đi khắp các con phố. Giờ đây bên ngoài kia có nhiều sinh mệnh cần được cứu hơn là trong những bức tường của bệnh viện này.”
- Và cậu đã đi? Alice hỏi.
- Tớ lùi lại, từng bước một, cho đến tận chỗ phòng khám, lòng thầm cầu mong cho ánh mắt của bác sĩ Turner không chạm mắt tớ, mong anh ta không thấy tớ lẩn tránh và tớ đã thành công. Tớ đã trốn trong một tủ đựng quần áo suốt hai tiếng liền. Cậu đừng chế nhạo tớ không thì tớ chết mất. Co ro trong cái tủ ấy, tớ nhắm chặt hai mắt lại, mong sao ình biến mất. Cuối cùng tớ cũng tự thuyết phục được mình rằng tớ đang không ở đó, mà là ở phòng tớ, tại nhà bố mẹ ở St. Mawes, rằng tất cả những người đang gào thét quanh tớ chỉ là những con búp bê khủng khiếp mà ngay hôm sau tớ phải vứt hết đi để trước nhất không bao giờ trở thành y tá.
- Cậu không việc gì phải tự trách cứ như vậy cả. Carol, tớ cũng sẽ chẳng dũng cảm hơn cậu đâu.
- Không, chắc chắn là cậu sẽ hơn tớ! Hôm sau, tớ đã quay lại bệnh viện, lòng đầy hổ thẹn nhưng vẫn còn sống sót. Bốn ngày sau, tớ cứ lẩn quanh để tránh bác sĩ Turner. Nhưng cuộc đời chưa bao giờ thôi trêu ngươi tớ, tớ được phân vào kíp mổ mà trưởng kíp là…
- … bác sĩ Turner?
- Chính anh ta! Và như thể thế còn chưa đủ, cả hai chúng tớ còn cùng ở trong phòng chuẩn bị, chỉ có hai người với nhau. Trong lúc rửa tay, tớ đã thú nhận với anh ta tất cả, cuộc chạy trốn của tớ, cái cách tớ đã khốn khổ ẩn mình trong tủ đựng quần áo, nói tóm lại, tớ đã tự biến mình thành trò cười.
- Anh ta phản ứng thế nào?
- Anh ta nhờ tớ xỏ hộ găng tay rồi nói: “Sợ hãi mới đúng là con người, có lẽ cô nghĩ rằng tôi không sợ trước lúc vào mổ? Nếu cô nghĩ vậy thì tôi đã chọn nhầm nghề rồi, lẽ ra tôi nên là diễn viên.”
Carol đổi chiếc đĩa sạch trơn của mình lấy đĩa của Alice.
- Và rồi tớ thấy anh ta bước vào phòng mổ, đeo khẩu trang trên mặt, anh ta đã để nỗi sợ hãi lại phía sau lưng. Hôm sau tớ tìm cách lên giường với anh ta nhưng chàng ngốc đó đã có vợ mà lại chung thuỷ nữa. Ba ngày sau, thành phố lại phải chịu một trận bom mới. Chẳng có găng tay lẫn khẩu trang, tớ đã cùng nhóm đồng nghiệp lao ra phố. Tớ đào bới đống gạch vữa, ngồi gần đám cháy hơn cả gần cậu vào lúc này. Và nếu như cậu muốn biết mọi điều thì đêm ấy, giữa đống đổ nát, tớ đã tè lên tất cả. Giờ thì hãy nghe cho kỹ đây cô bé, kể từ đêm Giáng sinh ở Brighton ấy, cậu không còn là chính mình nữa. Có gì đó cứ gặm nhấm cậu từ bên trong, những ngọn lửa nhỏ cậu không trông thấy, nhưng chúng đốt cháy giấc ngủ của cậu. Vậy nên hãy làm như tớ, hãy bước ra khỏi ngăn tủ và xông lên. Tớ đã đi khắp các con phố Luân Đôn với nỗi sợ trong lòng, nhưng như thế còn dễ chịu hơn là cứ co ro trong cái ngăn tủ ấy mà nghĩ rằng mình sẽ phát điên mất.
- Cậu muốn tớ làm gì bây giờ?
- Cậu đang chết vì cô đơn, cậu luôn mơ ước có một tình yêu lớn nhưng không gì khiến cậu sợ hãi hơn là ngã lòng vào tình yêu. Ý nghĩ gắn bó với ai đó, phụ thuộc vào ai đó làm cậu kinh hoàng. Cậu có muốn chúng ta nhắc lại chuyện của cậu với Anton không? Có phải là kẻ bịp bợm hay không thì bà thầy bói đó cũng đã báo trước với cậu rằng người đàn ông của đời cậu đang đợi cậu ở đất nước xa lắc lơ nào đó mà tớ chẳng biết. Vậy thì lên đường thôi! Cậu có tiền tiết kiệm, hãy vay mượn thêm nếu cần và tự tặng ình chuyến đi này. Đi để tự mình khám phá ra người đang đợi cậu ở đó. Và ngay cả khi cậu không gặp được anh chàng xa lạ được hứa hẹn kia thì cậu cũng sẽ cảm thấy được giải thoát và sẽ không phải hối tiếc nữa.
- Nhưng cậu muốn tớ tới Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách nào cơ chứ?
- Nàng công chúa ơi, về điểm này thì tớ là y tá chứ không phải văn phòng du lịch. Tớ phải chuồn đây. Tớ không lấy tiền công tư vấn nhưng sẽ để cậu trả tiền ăn đấy.
Carol đứng dậy, mặc áo khoác, hôn tạm biệt cô bạn rồi rời đi. Alice chạy theo và bắt kịp khi cô vừa ra khỏi quán.
- Cậu nghiêm túc đấy chứ, có thực cậu nghĩ như những gì vừa nói không?
- Chứ cậu tưởng tớ vừa khoe thành tích với cậu đấy à? Quay vào trong cho ấm đi, tớ phải nhắc lại rằng cậu vừa bị ốm cách đây không lâu đấy, tớ còn những bệnh nhân khác, tớ không muốn phải chăm sóc cậu cả ngày đâu. Thôi, chuồn đi.
Carol chạy đi xa dần.
Alice quay trở lại bàn ăn rồi ngồi vào chỗ Carol vừa ngồi, cô mỉm cười lúc gọi người phục vụ mang tới ột cốc bia… cùng một suất món chính trong ngày.
* * *