Chương ba
Các Ryl đã tô màu đồ chơi như thế nào
Giờ thì im lặng bao trùm lên Thung lũng Cười. Tuyết phủ thung lũng như một tấm khăn trải giường màu trắng, những cái gối bông tuyết nhấp nhô phía trước ngôi nhà nơi Claus đang lo giữ lửa cho lò sưởi. Dòng suối chảy róc rách dưới lớp băng dày, và mọi loài cây cối cũng như côn trùng đều phải nép mình vào sát Đất Mẹ để giữ ấm. Mặt trăng bị che khuất sau những đám mây đen; và những cơn gió, vui thú trong trò tiêu khiển mùa đông của mình, xô đẩy và cuốn đi những bông tuyết theo bao nhiêu là hướng, khiến chúng không cách gì rơi được xuống đất.
Claus nghe tiếng gió thổi và rú rít trong lúc chơi đùa mà cảm ơn các bạn Knook một lần nữa vì đã giúp dựng lên ngôi nhà ấm cúng. Blinkie lười biếng rửa mặt và nhìn chằm chằm vào đám than trong lò sửa với vẻ cực kỳ mãn nguyện. Con mèo đồ chơi ngồi đối diện với con mèo nhìn thẳng về phía trước như mọi con mèo đồ chơi khác.
Đột nhiên Claus nghe thấy một âm thanh lạ, không phải là tiếng gió. Giống như một lời rên rỉ đau khổ và tuyệt vọng thì đúng hơn.
Chàng đứng dậy và lắng nghe, nhưng gió, càng ngày càng ầm ĩ, rung lắc cánh cửa lớn và gõ lạch cạch vào cửa sổ để phân tán sự chú ý của chàng. Chàng đợi cho đến khi gió mệt và cố lắng nghe thêm, để rồi một lần nữa lại nghe thấy tiếng kêu gào đau đớn ấy.
Claus nhanh chóng khoác áo choàng vào, kéo cao mũ trùm lên và mở cửa. Gió ập vào và rắc đám vụn than hồng khắp bệ lò, đồng thời thổi thẳng vào lớp lông của Blinkie, làm cho con mèo phải chui xuống dưới gầm bàn mà lẩn trốn. Thế rồi cửa được đóng lại và Claus đã ở bên ngoài, lo lắng soi mắt vào bóng đêm.
Gió phá lên cười, gắt gỏng và cố gắng xô Claus ngã, nhưng chàng vẫn đứng vững. Những bông tuyết bất lực rơi lơ lửng chặn trước mắt và làm khuất tầm nhìn, nhưng chàng xua chúng đi và lại nhìn ngó tiếp. Tuyết tràn khắp mọi nơi, trắng xóa và lấp lánh. Tuyết bao phủ cả mặt đất và lấp đầy không trung.
Không còn nghe tiếng khóc.
Claus quay người định trở vào nhà, nhưng gió bất ngờ xô tới khiến chàng ngã nhào vào một đống tuyết. Tay chàng cắm sâu vào trong tuyết và chạm phải một vật gì đó không phải là tuyết. Chàng nắm chặt lấy vật đó, từ từ kéo về phía mình, và phát hiện ra đó là một đứa trẻ. Ngay lập tức chàng nhấc đứa trẻ lên, ôm nó trong lòng và mang nó vào nhà.
Gió lùa theo Claus qua cửa, nhưng chàng nhanh tay đóng cửa lại. Chàng đặt đứa bé nằm trên bệ lò sưởi, và khi đã phủi lớp tuyết bám trên người em rồi, chàng nhận ra đó chính là Weekum, cậu bé sống trong ngôi nhà bên kia
Claus lấy chăn ấm bọc quanh người em và phủi sạch lớp sương giá trên chân tay em. Một lúc lâu sau Weekum mở mắt ra; khi nhìn thấy mình đang ở đâu, em mỉm cười hạnh phúc. Thế rồi Claus hâm nóng sữa và cho cậu bé uống thật từ từ, trong lúc đó, con mèo vẫn quan sát với vẻ tò mò đúng mực. Cuối cùng, cậu bé cuộn tròn trong vòng tay người bạn của mình, thở dài và ngủ thiếp; còn Claus, trong lòng ngập tràn vui sướng vì đã tìm được đứa trẻ lang thang, ôm chặt em vào lòng trong lúc em ngủ vùi.
Gió, thấy không còn trò nào để làm nữa, bèn leo lên đồi và đi về phương Bắc. Điều này giúp cho những bông tuyết mệt mỏi có thời gian hạ xuống mặt đất, và thung lũng cũng tĩnh lặng trở lại.
Cậu bé, sau khi đã ngủ đẫy giấc trong vòng tay người bạn của mình, giờ đã mở mắt và đứng dậy. Sau đó, giống như mọi đứa trẻ khác, em nhìn quanh phòng và quan sát tất cả những gì trong đó.
“Con mèo thật là dễ thương, Claus à,” cuối cùng em cũng nói. “Cho em ôm nó nào.”
Nhưng con mèo phản đối và chạy biến đi.
“Con mèo kia sẽ không chạy, Claus à,” cậu bé tiếp tục nói. “Cho em ôm con đó đi.” Claus đặt món đồ chơi này vào lòng cậu bé, em âu yếm ôm lấy nó và hôn lên hai cái tai gỗ.
“Làm sao mà em lại lạc trong cơn bão vậy, Weekum?” Claus hỏi.
“Em đi bộ đến nhà cô em và bị lạc đường,” Weekum trả lời.
“Em có sợ không?”
“Trời lạnh lắm,” Weekum nói, “tuyết chui vào mắt nên em không thấy gì cả. Em cứ thế mà đi cho đến khi ngã vào trong tuyết mà không biết mình đang ở đâu, thế rồi gió thổi bôtuyết lên người và phủ kín em.”
Claus nhẹ nhàng xoa đầu cậu bé, em ngước nhìn lên và mỉm cười.
“Giờ thì em ổn rồi,” Weekum nói.
“Ừ,” Claus vui vẻ trả lời. “Giờ ta sẽ đặt em xuống giường của ta, và em phải ngủ đến sáng, lúc đó ta sẽ đưa em về nhà gặp mẹ.”
“Cho em ngủ với con mèo này được không?” cậu bé hỏi.
“Được, nếu em muốn,” Claus trả lời.
“Con mèo thật là dễ thương!” Weekum nói, mỉm cười khi Claus kéo chăn phủ lên người em; và em ngủ thiếp đi với món đồ chơi bằng gỗ trong tay.
Đến sáng thì mặt trời đòi lại Thung lũng Cười và tỏa ánh sáng ngập tràn; Claus chuẩn bị đưa cậu bé bị lạc đường về nhà với mẹ.
“Em giữ con mèo này có được không, Claus?” Weekum hỏi. “Nó dễ thương hơn cả mèo thật. Nó không chạy đi, không cào, không cắn. Em giữ nó có được không?”
“Được, tất nhiên rồi,” Claus trả lời, hài lòng vì món đồ chơi chàng làm ra có thể đem lại niềm vui cho cậu bé. Chàng lấy một chiếc áo choàng ấm để bọc lấy cậu bé và con mèo gỗ, đặt cả hai lên vai mình và băng qua tuyết, vượt qua thung lũng, đi sang mãi phía bên kia đồng bằng về phía bên kia, đến mái tranh nghèo nơi mẹ của Weekum đang sống.
“Xem này, mẹ!” cậu bé reo lên ngay khi họ bước vào nhà. “Con có một con mèo!”
Người phụ nữ hiền lành kia òa khóc, mừng đứa con thân yêu được cứu sống, rồi cảm ơn đi cảm ơn lại vì hành động tử tế của Claus. Thế là Claus mang một trái tim ấm áp và hạnh phúc trên suốt quãng đường trở về thung lũng.
Đêm đó chàng nói với mèo Blinkie: “Ta tin trẻ con sẽ thích mèo gỗ cũng gần như mèo thật, và chúng sẽ không làm mèo đau khi kéo đuôi kéo tai mèo. Ta sẽ làm thêm một con nữa.”
Đó chính là một khởi đầu cho tác phẩm vĩ đại của chàng.
Con mèo tiếp theo đẹp hơn con đầu. Trong lúc Claus đang ngồi đẽo gọt thì Ryl Vàng ghé vào thăm chàng, quá hài lòng với tay nghề của chàng đến mức Ryl Vàng vội chạy đi và gọi thêm nhiều người khác tới.
Các Ryl Đỏ, Ryl Đen, Ryl Xanh Lục, Ryl Xanh Dương, và Ryl Vàng tụm thành một vòng tròn trên sàn nhà, trong khi Claus vừa đẽo gọt vừa huýt sáo, và con mèo gỗ hiện hình mỗi lúc một rõ ràng hơn.
“Nếu con này mà có màu giống như mèo thật thì không ai phân biệt nổi đâu,” Ryl Vàng trầm ngâm nói.
“Có thể lắm, bọn nhỏ sẽ chẳng thể biết được,” Claus đáp lời, hài lòng với ý tưởng đó.
“Ta sẽ mang đến cho cậu một ít màu đỏ ta vẫn dùng để tô cho những bông hồng và tulip,” Ryl Đỏ thốt lên; “và cậu có thể dùng để tô cho môi và lưỡi của con mèo.”
“Ta sẽ mang đến một ít màu xanh lục ta vẫn dùng để tô cho cỏ và lá cây,” Ryl Xanh Lục nói; “và cậu có thể tô cho cặp mắt của con mèo.”
“Mắt mèo cũng cần một ít màu vàng nữa,” Ryl Vàng nhận xét; “ta sẽ lấy đi một ít màu vàng ta vẫn dùng để tô cây mao lương và cây roi vàng.”
“Mèo thật màu đen,” Ryl Đen nói; “ta sẽ đem đến một ít màu đen ta vẫn dùng để tô màu mắt cho cây hoa bướm, và cậu có thể dùng tô đen con mèo gỗ của cậu.”
“Ta thấy có một dải ruy-băng màu xanh dương đeo trên cổ Blinkie,” Ryl Xanh Dương xen vào; “ta sẽ lấy một ít màu vẫn dùng để tô cho đám cây hoa chuông và lưu ly để cậu có thể khắc một cái ruy-băng gỗ lên cổ con mèo đồ chơi và tô xanh cái ruy-băng đó.”
Thế là các Ryl biến mất, và đúng lúc Claus vừa đẽo gọt xong con mèo gỗ thì họ quay trở lại với đầy đủ màu và cọ vẽ.
Họ cho Blinkie ngồi trên bàn làm mẫu để Claus tô màu con mèo gỗ cho chính xác, và khi xong việc, các Ryl tuyên bố rằng con mèo gỗ đã giống hệt một con mèo thật.
“Đúng vậy, xét về mọi mặt,” Ryl Đỏ thêm vào.
Blinkie dường như hơi cảm thấy bị xúc phạm khi mọi người chỉ chú ý đến con mèo đồ chơi, và vì dường như không chấp nhận con mèo bắt chước, nó bỏ tới góc bếp lửa và ngồi xuống với một dáng vẻ cao quý.
Nhưng Claus lại rất vui, và ngay khi trời hừng sáng, chàng đã ra ngoài và vượt tuyết băng qua thung lũng, băng qua đồng bằng, cho tới khi đến được một ngôi làng. Ở đó, trong một túp lều ổ chuột nằm gần những bức tường thành cung điện nguy nga của chúa Lerd, một bé gái nằm trong một chiếc cũi rách nát, đang rên rỉ vì đau đớn.
Claus lại gần em bé, hôn em và dỗ dành em, rồi chàng lấy con mèo đồ chơi từ trong áo choàng ra và đặt vào cánh tay em.
Chà, nhìn ánh mắt em bé sáng lấp lánh trong niềm vui, Claus thấy được trả công xứng đáng biết bao cho sự lao động và chuyến đi dài của mình. Em bé ôm chặt con mèo vào ngực như thể đó là một viên ngọc quí, và em sẽ không muốn rời nó một phút nào. Cơn sốt đã biến mất, đau đớn cũng giảm dần, em rơi vào một giấc ngủ ngọt ngào và dễ chịu.
Claus cười vang, huýt sáo và hát suốt đường về nhà. Chưa bao giờ chàng lại sung sướng như hôm đó.
Khi bước vào nhà, Claus thấy sư tử cái Shiegra đang đợi mình ở đó. Shiegra luôn yêu quí chàng ngay từ thuở nhỏ, và hồi chàng còn ở trong rừng, nó vẫn thường xuyên đến thăm chàng ở nhà của Necile. Sau khi Claus rời đến sống ở Thung lũng Cười, Shiegra trở nên cô độc và rất hay bị ốm, thế mà bây giờ nó đã dũng cảm vượt qua băng tuyết, thứ mà loài sư tử rất căm ghét, để đến thăm chàng một lần nữa. Shiegra đang bước vào tuổi già và bắt đầu rụng răng, bộ lông phủ từ đầu đến chân từ màu vàng nâu nay cũng đã trở nên bạc trắng.
Thấy Shiegra nằm trên bậu lò sưởi, Claus âu yếm vòng tay ôm quanh cổ con sư tử. Con mèo đã rút lui vào một góc xa. Nó không muốn dính dáng gì với Shiegra.
Claus kể cho người bạn già của chàng về những con mèo mà mình đã làm, về việc chúng đã mang lại niềm vui cho Weekum và bé gái bị bệnh kia ra sao. Shiegra không biết nhiều về trẻ con; thực vậy, nếu có gặp một em bé, khó có thể tin là nó lại không ngấu nghiến em bé đó cho bằng được. Nhưng Shiegra lại quan tâm đến những công việc mới của Claus, và nó nói:
“Những hình ảnh này với ta rất hấp dẫn. Nhưng ta không hiểu tại sao con lại chỉ làm có mỗi mèo, là cái thứ động vật chẳng hề quan trọng chút nào. Chẳng hạn như, giờ ta đang ở đây, con có thể tạo ra hình một con sư tử, nữ hoàng của tất cả các loài thú. Nhờ vậy lũ trẻ của con sẽ rất vui - và an toàn nữa!”
Claus thấy đây là một gợi ý rất hay. Chàng lấy một mẩu gỗ và bắt đầu mài dao, trong khi Shiegra trườn trên bậu lò sưởi, dưới chân chàng. Claus cẩn thận đẽo cái đầu sư tử sao cho giống y như thật, thậm chí còn tỉ mỉ khắc cả hai chiếc răng nanh dữ tợn thò ra ngoài cùng những nếp nhăn hằn sâu và nghiêm nghị quanh cặp mắt luôn mở to của nó.
Khi đã hoàn thành, chàng nói:
“Người có một dáng vẻ thật dữ tợn, Shiegra à.
“Thế thì giống ta rồi,” sư tử trả lời; “bởi vì thực sự ta rất dữ tợn đối với tất cả những kẻ nào không là bạn.”
Giờ Claus tạc tiếp đến phần thân, với cái đuôi dài giống như của Shiegra quết phía sau. Hình ảnh một con sư tử đang nằm trông quả là như thật.
“Ta rất hài lòng,” Shiegra nói, vừa ngáp vừa vươn mình thoải mái. “Giờ thì ta sẽ quan sát trong lúc con tô màu.”
Claus lấy ra từ cái chạn những loại màu vẽ mà các Ryl đã tặng, tô màu sao cho thật giống với Shiegra.
Shiegra đặt cặp chân to đầy lông lên cạnh bàn và nâng mình lên trong lúc quan sát kỹ lưỡng xem món đồ chơi có giống mình không.
“Con thực sự rất khéo tay!” Shiegra nói đầy tự hào. “Lũ trẻ sẽ thích món đồ chơi này hơn mèo, ta đảm bảo.”
Sau khi quay lại gầm gừ dọa dẫm Blinkie khiến con mèo phải cong lưng lại kinh hoàng và rên rỉ sợ hãi, Shiegra quay về với rừng thẳm bằng những sải chân dài oai vệ.
Chương bốn
Làm sao mà bé Mayrie lại sợ hãispan>Giờ thì mùa đông đã qua đi, và toàn Thung lũng Cười lại tràn ngập những háo hức vui tươi. Con suối quá mừng vì lại được tự do nên đã chảy róc rách huyên náo hơn bao giờ hết, và cứ thế liều lĩnh xô mình vào những tảng đá khiến cho màn nước bắn tung đến tận trời cao. Từ chỗ trú tuyết là lớp thảm thực vật chết, cỏ đâm lên những chiếc lá nhỏ sắc nhọn của mình, tuy nhiên những bông hoa vẫn còn quá rụt rè nên chưa dám xuất hiện, mặc dù các Ryl đang hối hả cho đám rễ của chúng ăn. Mặt trời đang cực kỳ vui tính, gửi những tia nắng tới nhảy múa vui vẻ khắp trên thung lũng.
Một ngày kia đang ăn tối, Claus nghe một tiếng gõ rụt rè lên cửa.
“Mời vào!” chàng gọi.
Không ai bước vào, nhưng sau đó một lúc lại có một tiếng gõ nhẹ nữa.
Claus nhảy lên và phóng tới mở cửa. Đứng trước mặt chàng là một bé gái đang giữ chặt một đứa em trai nhỏ trong tay.
“Có phải là người đó không, Tlaus?” bé gái hỏi đầy nhút nhát.
“Đúng rồi, là ta đây!” chàng trả lời, và cười vang, dang tay ra ôm lấy cả hai đứa trẻ và hôn chúng. “Xin mời, các em đã đến rất đúng lúc để cùng ăn bữa tối với ta.”
Chàng đưa chúng tới chiếc bàn ăn, cho chúng uống sữa tươi và ăn bánh hoa quả. Khi chúng đã no, chàng hỏi:
“Vì sao các em lại phải đi cả một chặng đường dài để tới gặp ta?”
“Em muốn có một con nghèo!” bé Mayrie đáp lời; và cậu em, vẫn chưa học nói được một câu dài, cũng gật đầu và thốt lên: “Nghèo!”
“Ồ, các em muốn mấy con mèo đồ chơi của ta phải không?” Claus hỏi, trong lòng rất vui vì phát hiện ra rằng lũ trẻ rất thích những thứ chàng làm ra.
Những vị khách bé nhỏ vội vàng gật đầu.
“Rất tiếc,” chàng tiếp tục nói, “là giờ ta chỉ còn mỗi một con mèo, vì hôm qua đã đem hai con tặng lũ trẻ trong thị trấn. Và ta sẽ tặng nó cho em trai của em, Mayrie, vì em ấy nhỏ hơn; và đến con tiếp theo ta sẽ tặng cho em.”
Gương mặt cậu bé sáng bừng với những nụ cười, nhìn chăm chú món đồ chơi quí giá mà Claus chìa ra; nhưng bé Mayrie thì úp mặt vào cánh tay và bắt đầu khóc nức nở.
“E... e... em muốn có một con nghèo... nghèo ngay bây giờ cơ!” bé rền rĩ.
Sự thất vọng của bé khiến cho Claus cảm thấy đau lòng. Rồi bất chợt chàng nhớ tới Shiegra.
“Đừng khóc nữa, bé yêu của ta!” Claus nói êm ái; “Ta có một món đồ chơi còn đẹp hơn mèo rất nhiều, và em sẽ có nó!”
Chàng đi tới cái chạn, lấy ra con sư tử rồi đặt lên bàn ngay trước mặt Mayrie.
Cô bé nhấc cánh tay lên, mắt liếc bộ răng dữ tợn và cặp mắt trợn trừng của con quái vật, và rồi sau đó, thét lên một tiếng kinh hãi, cô bé bỏ chạy ra khỏi nhà. Cậu bé bám theo chị, cũng kêu gào sợ hãi, và thậm chí trong lúc sợ còn đánh rơi cả con mèo gỗ quí giá của mình.
Mất một lúc Claus đứng bất động, ngạc nhiên và bối rối. Thế rồi chàng quăng tấm hình Shiegra vào trong chạn và chạy theo lũ trẻ, bảo chúng đừng có sợ.
Bé Mayrie dừng lại giữa cơn tháo chạy và cậu em trai bám chặt vào váy của chị; nhưng cả hai đều sợ hãi liế ngôi nhà, mãi cho đến khi Claus phải đảm bảo đi đảm bảo lại với chúng rằng con quái vật đó đã bị khóa trong chạn.
“Nhưng tại sao các em lại sợ khi nhìn thấy nó?” chàng hỏi. “Đó chỉ là một thứ đồ chơi để chơi thôi mà!”
“Nó xấu nhắm!” Mayrie nói, rất kiên quyết, “và... và... sợ nhắm..., không ngoan tí nào, không giống như nghèo!”
“Có lẽ em nói đúng,” Claus trầm ngâm đáp. “Nhưng nếu em quay về nhà với ta thì ta sẽ làm ngay cho em một con mèo xinh đẹp.”
Thế là lũ trẻ rón rén bước vào nhà lần nữa, tin tưởng vào lời nói của bạn mình; và sau đó chúng vui sướng ngồi quan sát Claus đẽo từ miếng gỗ ra một con mèo, rồi tô cho nó những màu sắc tự nhiên. Chàng không mất quá nhiều thời gian để làm việc này, vì bây giờ dùng dao đã rất thành thạo, còn bé Mayrie lại càng yêu món đồ chơi của mình hơn, vì đã tận mắt xem nó được làm ra như thế nào.
Sau khi những vị khách bé nhỏ đã quay về nhà, Claus ngồi suy nghĩ rất lâu. Cuối cùng chàng quyết định rằng những sinh vật dữ tợn như con sư tử bạn chàng sẽ không bao giờ làm mẫu cho những món đồ chơi của chàng nữa.
“Không được là bất cứ cái gì có thể làm cho các bé con sợ hãi,” chàng nghĩ thầm; “ta thì biết rõ và không sợ Shiegra đấy, nhưng trẻ con sợ hãi khi thấy hình ảnh của nó thì cũng bình thường thôi. Từ giờ về sau ta sẽ chọn những động vật dễ chịu hơn như sóc, thỏ, hươu và cừu non để làm mẫu đồ chơi, để các bé sẽ yêu quí thay vì sợ hãi chúng.”
Chàng bắt tay vào việc ngay từ hôm đấy, và trước khi đi ngủ đã làm xong một con thỏ và một con cừu gỗ. Chúng không hoàn toàn giống thật như mấy con mèo gỗ, bởi chúng được tạo nên từ ký ức, trong lúc đó Blinkie đến ngồi yên không động đậy làm mẫu cho Claus.
Tuy nhiên những món đồ chơi mới này cũng làm lũ trẻ hài lòng, và tiếng tăm của những món đồ do Claus là nhanh chóng lan khắp mọi túp lều trên cánh đồng và trong làng xóm. Chàng thường mang quà cho những em bị ốm hoặc bị tật nguyền, còn những trẻ khỏe mạnh thì phải tự đi bộ tới nhà chàng trong thung lũng để hỏi xin, thế là chẳng mấy chốc, từ cánh đồng dẫn tới cửa ngôi nhà của chàng đã mòn vẹt thành một lối đi nhỏ.
Đầu tiên là những đứa trẻ vốn là bạn của Claus trước khi chàng bắt đầu làm đồ chơi. Những trẻ này, chắc chắn rồi, luôn được chàng cấp đồ chơi đầy đủ. Sau đó là những trẻ sống ở xa, nghe tiếng những đồ chơi có hình thù tuyệt vời của chàng, đã cất công đi những đoạn đường dài tới thung lũng để xin. Tất cả trẻ con đều được chàng đón tiếp nồng hậu và chưa từng có đứa nào phải ra về tay không.
Việc bọn trẻ yêu cầu phải tự tay Claus làm đã khiến cho chàng luôn bận rộn, nhưng chàng hoàn toàn vui sướng khi biết rằng mình đã đem lại niềm vui cho rất nhiều đứa trẻ thân yêu. Những người bạn thần tiên của chàng cũng hài lòng với thành công của chàng và hăng hái giúp chàng.
Các Knook chọn riêng cho chàng những mẩu gỗ mềm nhất, nhờ thế lưỡi dao của chàng không bị cùn khi đẽo chúng; các Ryl cung cấp cho chàng đủ loại màu sơn và những bút vẽ làm từ chóp cỏ đuôi mèo; các nàng tiên phát hiện ra rằng cần phải có cưa, đục, búa, đinh, và cả dao nữa, nên đã đem đến cho chàng vô số những thứ dụng cụ ấy.
Chẳng mấy chốc Claus đã biến phòng khách thành một xưởng làm việc tuyệt vời nhất. Chàng xây một cái bệ ở trước cửa, sắp xếp đồ nghề ở đó, sao cho chàng có thể với tay lấy bất cứ công cụ nào khi đang ngồi trên ghế. Và khi hoàn tất hết món đồ chơi này đến món đồ chơi khác để làm vui lòng lũ trẻ, chàng thấy mình trở nên quá sức vui, quá sức hạnh phúc, tới mức không sao kìm được, cứ hát, cười và huýt sáo suốt cả ngày.
“Đó là tại vì ta sống ở Thung lũng Cười, nơi mà bất cứ vật gì cũng cười vui!” Claus nói.
Nhưng đó không phải là lý do.