Ai đó hét vào ông ta:
- Sư phụ Tân, ông đến trễ đó!
Ông ta trả lời:
- Không phải ta! Chỉ vì chúng muốn chết sớm quá thôi. Hôm nay ta gả con gái mà.
Một người reo lên:
- Phải nấu rượu thôi! Sư phụ Tân là nhanh nhất! Từ khi ta theo xem những vụ ông làm, chưa bao giờ thấy phải dùng hai nhát! Một nhát là đủ.
- Đa tạ quá khen! Lát nữa đến làm một chén nhé huynh.
Một người khác cũng la lên:
- Sư phụ Tân, hôm nay có một nữ tu. Ông chặt thế nào? Từ phía sau hay từ phía trước?
- Ta để ả cho con trai ta. Phải dạy nó lạnh lùng với vẻ quyến rũ của đàn bà!
Đám đông phá lên cười rồi ai đó lại nói thêm:
- Cậu bé, hãy tập trung vào lưỡi đao! Lần trước cậu đã để cái đầu bay ra văng vào mặt một quan lớn đấy nhé!
Đứa con trả lời:
- Cú này tôi sẽ cho cái đầu bay tới ngoạm ông đấy!
Những tràng cười lại phá lên lần nữa. Xương sống Thẩm Phong gập lại, chân bủn rủn, tay run lẩy bẩy, cổ họng khô khốc. Chàng muốn buông bỏ hết đống tiền vàng, nhưng chẳng còn chút sức lực nào. Bất ngờ, ai đó đập vào vai chàng, làm chàng giật thót. Đó là tay đao phủ cha dẫn đứa con đi ngang qua chàng. Khi Thẩm Phong định thần lại, đôi mắt chàng chợt nhìn vào lưỡi đao mà người trẻ tuổi vác trên vai. Lưỡi đao buộc chặt trong cái bao da cá mập. Cán dài của nó có thắt dây tím tía vòng quanh dính những chấm đen bắn vào. Nhìn vào nó, Thẩm Phong bất thình lình điều khiển được chân mình. Chàng dùng tay dạt những người đàn ông ra rồi chạy qua đám đông như một mũi kim thêu.
Chàng đi. Chàng chạy. Những con đường dường như không bao giờ dứt. Đường dài, đường trắng xoá, đường làm lấp lánh ánh mặt trời đang đuổi theo chàng. Có thật ít bóng tối trong đô thành! Thẩm Phong ép vào tường, luồn dưới mái che, vụt đi ngay khi có ai đó nhìn thấy mình. Khi gặp ánh mắt dữ tợn của binh lính, chàng cúi đầu, bịt miệng lại và vọt ra cổng Bắc. Vừa ngoảnh lại để xem có ai theo sau mình không, chàng vừa băng qua những ngọn đồi và những cánh đồng lúa. Cuối cùng núi Bắc cũng hiện ra trên trời.
Chàng chui vào mê cung trong rừng.
Chàng chạy vòng quanh cây cối.
Chàng chạy về phía hồ nước mà làng của chàng dựa lưng vào.
Chàng lặn xuống.
Nước lạnh quấn lấy cơ thể nóng hầm hập của chàng. Nước giội vào vầng trán đang sốt của chàng và xoa lên gáy chàng đang nặng nề lo sợ. Nước vuốt ve ngực chàng, trôi tuột qua chân chàng, xoa bóp đùi chàng, áp vào những sợi gân cho đến khi đôi chân duỗi thẳng. Chàng mở mắt dưới nước.
Những con đường sáng sủa, đám đông người và binh lính đội nón giáp, lũ chim trong lồng biến mất như thể chàng vừa tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng. Quanh một cột ánh sáng chói loà, từng lớp tảo mỏng như lông vũ dập dềnh ùn tới. Những con cá bạc bơi như thể đang bay trong không trung. Lũ tôm giật bắn mình lùi lại. Một con ếch xăm hai vằn màu vàng trên lưng bung chân ra rồi lại khép chân vào, bơi qua cột ánh sáng. Thẩm Phong ló đầu lên khỏi mặt nước rồi bơi vào bờ. Chàng lắc người rồi nằm trên cỏ, mặt phơi dưới bầu trời.
Những chiếc lá tròn, bầu, răng cưa làm thành một bức tranh trên nền trời xanh thẫm. Chàng nháy mắt cho tới lúc cảm thấy đau để đón nhận cái nhìn yên bình này. Đâu đó có tiếng chim đang ca hót. Đó là một tiếng láy đơn độc giữa niềm vui và nỗi buồn. Một con bọ rùa bò lên thái dương chàng.Chàng đưa tay lên bắt nó rồi nhận ra đó hoá ra là nước mắt. Chàng ngạc nhiên há miệng to rồi nghiến răng lại để dập tắt tiếng nức nở đang giày vò mình. Một con bướm cánh đen vện hai vòng đỏ chót lả lơi trên chàng. Chàng giơ tay ra với nó. Con bướm đậu lên ngón tay chàng một chút rồi vỗ cánh biến mất. Chàng buông tay rơi xuống rồi khép mi mắt lại.
Một con chim cu đang gáy. Lũ côn trùng xào xạc. Tiếng nước vỗ ì oạp đánh lên một khúc đàn trong chàng. Lúc đầu nó yếu ớt và không rõ, sau thì dâng lên rồi thành dữ dội. Chàng run rẩy và cắn rứt. Nhưng bằng những âm rung động, thứ âm nhạc đó ghì chặt lấy chàng. Giọng một người phụ nữ át hết những nốt giữa quãng rồi thì thầm:
- Thế gian tối tăm nhưng âm nhạc là ánh sáng... Những người tìm đến âm nhạc sẽ được sủng ái... m nhạc đánh bại những quái vật gặm nhấm trong tim, làm xương tê lạnh và làm đôi chân nặng trĩu...
Giọng nói xoay vòng trong không khí rồi mang lại cho Thẩm Phong một cảm giác sảng khoái. Sợ rằng giọng nói đó sẽ biến mất nên chàng nằm im và nín thở.
- Cuối cùng Dương Tử, ở giữa đại dương có những hòn đảo trôi nổi. Chim chóc có cánh trong veo đến đậu trên những rặng san hô màu tía. Những cánh hoa mảnh khảnh và dợn sóng bừng nở, còn quả của chúng màu đỏ, vàng, xanh, lục, nuôi dưỡng những sinh vật nhẹ hơn lông hồng. Chúng bay qua bay lại như vô hình. Đó là những tia sáng óng ánh, sáng loáng lên, vụt tắt, rồi lại bừng lên. Tinh nghịch và tự do, chúng là những ảo vọng của con người...
Thẩm Phong nghe tiếng rì rầm của sóng và tiếng kêu sắc lảnh của chim mòng. Nhưng giọng nói bỗng nhỏ hơn:
- Đến với ta. Đến với ta...Chúng mình sẽ là gió, là ánh sáng, là sương mù, là những khúc nhạc buông... rồi chúng mình sẽ đi theo những con người không cần nghỉ ngơi và không bao giờ dừng lại... chúng mình sẽ khiêu vũ quay tròn bay lên chấp chới...
Những giọt nước mắt như từng bầy kiến bò trên thái dương Thẩm Phong rồi rớt xuống đất. Chàng nhấc cánh tay chùi phắt đi. Bất thình lình, chàng nhảy dựng lên rồi lục tìm trong túi áo. Túi bạc đầy tám đồng vàng đã biến mất. Chúng hẳn đã rơi mất khi chàng lặn qua hồ! Chàng lao đến bên bờ. Trước mặt chàng, nước hồ nhảy nhót ném ra hàng nghìn những ngọn lửa mù loà.
Chàng cởi hết đồ rồi lại lặn xuống.
Những tiếng cười của một cô bé vang lại. Cô bé đang bập bẹ tập đếm. Cô bé đếm nhẩm, ấp úng rồi đếm lại từ đầu. Giọng cô bé như chim oanh líu lo, lúng liếng. Thẩm Phong nhô đầu lên khỏi mặt nước. Đêm đang đổ xuống thung lũng. Trên mặt hồ một ngôi sao sáng rực. Mong ước ôm chặt được đêm, cánh rừng run rẩy thì thầm bứt rứt. Thẩm Phong vào bờ, vội vã mặc đồ rồi chạy không ngoảnh lại. Thấy chàng chạy qua, cây cối cười khẩy đồng thanh: “Vàng của thiên trả địa, vàng của thiên trả địa...”
Về đến cổng làng, chàng ngồi xuống tìm các dấu chân trên con đường mòn để chắc rằng binh lính của tổng đốc không đến bắt mình. Chàng lắng tai nghe. Sự im lặng chiếm ngự không gian. Lũ chó đánh hơi thấy chàng liền vẫy đuôi chạy ra. Chàng leo lên sườn núi rồi đẩy cửa vào vườn. Không một tiếng động trong ngôi nhà. Sư phụ không về. Không có người thợ đàn già, căn nhà tranh lạnh lẽo như hầm mộ.
Chàng thắt chặt dây lưng. Tay chàng tìm thấy trong bóng tối một hũ đồ ăn còn dư, chàng tìm vài cọng rau muối rồi uống ực một muôi nước. Một chút đồ ăn để làm cho cái bụng cồn cào của chàng bình ổn. Chàng ngồi xuống bên thềm nhà. Đêm phủ lấy núi Bắc, mang yên bình cho con người và sự bồn chồn cho lũ cọp. Cây cối cắt vào vô số các vì sao, những cây đinh mà thần Nữ Oa đã dùng để vá lại bầu trời bị đổ. Hơi nóng nhẹ nhàng của đất xông lên. Nhiệt độ đã lên cao bất thường từ trưa, ai cũng nghĩ đã là mùa hè. Đêm nay, nếu người thợ đàn già ngủ dưới trời sao, Thẩm Phong nghĩ, chắc ông sẽ không bị lạnh.
Chàng đứng dậy, trở vào nhà. Tay chàng tìm thấy hòn đá lửa, ánh lửa lại phát ra. Chàng thêm một bó rơm vào bếp. Trong ánh sáng của bếp, chàng đem tấm gốc mà chàng đã giấu giữa mái xà và cánh cửa xuống tấm nệm rơm của mình. Những mảnh vụn của quan tài thở ra một luồng gió lạnh từ vương quốc của những người đã chết. Nhưng tấm gỗ này lại rất thơm. Lấy tay vuốt ve nó, chàng có cảm giác gỗ ấm lên và vẫn còn đang thở chầm chậm. Gõ gõ vào nó, chàng lại nghe được tiếng trong trẻo. Điều đó cho thấy quan tài đã chống lại được tất cả hơi ẩm và tấm gỗ được đốn cách đây một nghìn năm khô như than. Tấm gỗ loé sáng theo nhịp lửa rồi bất thình lình, chàng thấy khuôn mặt trắng trẻo của người chết hiện ra. Chàng để nó lên giường rồi bước lùi lại. Sư phụ đã dạy rằng gỗ có một trí nhớ, rằng chúng lưu trong những đường vân dấu ấn của những thời đại mà chúng đã chứng kiến. Rằng âm nhạc của đàn cổ cầm là âm nhạc của Thời gian.
Chàng đến gần rồi chầm chậm cúi xuống. Được phủ một lớp sơn chất lượng tuyệt hảo, tấm gỗ bừng sáng như một tấm gương. Chàng thấy ở đó khuôn mặt của mình. Trong làng, chiếc gương là vật xa xỉ của phụ nữ. Họ dành dụm cả đời để được một túi đầy tiền đồng, đi vào thành và đổi lấy một tấm gương đồng tráng bạc. Tròn vành vạnh như cái đĩa, chiếc gương được truyền từ mẹ sang con gái cho đến ngày nó vỡ thì thôi. Thẩm Phong chải lại mái tóc đang rối bù rồi quấn lên. Tấm gỗ phản chiếu đôi môi mỏng, cái hàm tròn trĩnh và một vầng trán mịn màng. Chàng không biết phụ nữ có thích mình hay không. Phụ nữ? Chàng lắc đầu rồi ngáp.
Chàng nằm lên tấm gỗ rồi ép má lên nó. Khi nhắm mắt, chàng thấy một hang động hai bên vách vẽ đầy tranh. Những con ngựa được thắng yên tuyệt đẹp kéo những chiếc xe có đèn đỏ và rèm bằng tơ. Lính bộ binh cầm vũ khí theo sau lũ chó vện đi theo hàng ngũ. Những thái giám huơ quạt lông công và những chiếc dù thêu, dẫn theo những nàng hầu thon thả tóc vấn hoa Một số cầm chai, hũ, lọ, chậu vàng, số khác mang theo mèo, chó đuôi xoăn, lồng chim. Cơn gió thổi luồn dưới váy đủ màu sắc của họ rồi vén những nếp gấp có thêu bướm đang bay giữa ngàn hoa. Họ là ai? Các nàng đi đâu?
Thế giới vô tư, không bệnh tật đói khát này, thế giới xuân thì vĩnh cửu này, thế giới đang ca ngợi vẻ đẹp không phai tàn này là thế giới nào vậy?
Bỗng giọng nói một phụ nữ thổi vào:
- Sau những bức rèm ngọc trai là tiếng gầm thét của những kẻ mưu phản và những kẻ giết người đang huơ mũi kiếm... Những nụ cười, lụa là, vu khống, ta đã thoát khỏi chúng mãi mãi...
Thẩm Phong run rẩy mở mắt. Lửa trong bếp đã tắt. Một bóng trắng đi lại trong đêm, làm chàng nhớ tới những hạt bụi nhảy múa trong hầm mộ. Dần dần, cái bóng có hình thù một phụ nữ rồi dạo quanh chàng. Chàng đưa tay để chạm vào. Nàng vội lùi lại. Chàng chạy theo nàng, tay chới với. Nàng bắt chước hành động của chàng rồi dang tay ra. Nhưng chỉ có những chiếc cánh sáng rực tung ra ở nơi cánh tay. Nàng bay lên rồi hạ xuống gần chàng khi chàng đã dừng lại, rồi lại lẩn trốn khi chàng đến gần. Thẩm Phong thấy ngực thắt lại, đôi môi nhoẻn ra và một tràng âm thanh thoát ra từ cổ họng chàng. Chàng phá lên cười. Bị bất ngờ, cái bóng cúi xuống để nhìn chàng và nhảy thót ra sau, đôi cánh run rẩy. Thích thú với trò chơi làm người trong gương của mình, nàng cũng cười. Thẩm Phong nhảy vào không khí để bắt nàng, nàng cuộn người lại rồi biến thành một con mèo trèo lên tới mái nhà. Chàng vội vã huơ tay chạy theo. Nàng nhảy ra phía trước, quay lại nhìn chàng nhăn mặt. Trong một nỗ lực cuối cùng, chàng lao về phía nàng. Nàng biến ra phía cửa rồi biến mất trong ánh sáng ban ngày. Thẩm Phong quay lại giường, lượm chiếc áo mặc vào để đi ra ngoài. Một ánh sáng mờ mờ thắp lên. Cái bóng lại hiện ra dưới hình dạng một phụ nữ. Nàng bắt chước các hành động của chàng. Chàng làm ra vẻ không hề biết rồi ngồi xuống bãi rơm, nàng cũng vậy. Chàng quay đầu sang nhìn nàng, nàng cũng làm y vậy với chàng. Chàng nhìn nàng. Nàng quan sát chàng. Bỗng nàng tung cánh. Chàng đi vào một màn sương có những hoa tuyết cuộn tròn rồi lấp lánh. Giọng một phụ nữ vang lên:
- Chàng đã đến tìm em, em là của chàng!
- Nàng là ai?
Người thợ đàn trẻ quên mất rằng không được nói chuyện với hồn ma.
- Em không phải là Bồ Tát Quan m nghìn tay cầm roi và bánh xe lửa, mang bình nước trường sinh và nhành liễu. Em không phải là con rồng đại dương, thần của những cơn giận dữ làm bão tố và sấm sét. Em không phải là tiên nữ canh gác vườn đào của Tây Vương Mẫu. Em không phải là người phụ nữ bình thường mang những xúc cảm phàm trần. Em xuống mặt đất theo dấu trăng. Em thì thầm với rừng rậm. Em ở trong giấc mơ của những chú chim, trong hơi thở của thú hoang bắt mồi. Chàng, chàng làm em vui, và vì chàng, em muốn làm những điều kỳ diệu. Chàng, đứa trẻ bị bỏ rơi, em sẽ cho chàng mùa xuân vĩnh cửu...
Khi nghe sinh vật lạ lùng này nói, nỗi buồn bao phủ lấy Thẩm Phong. Chàng hỏi nàng:
- Nàng có thấy sư phụ của ta không? Ông ấy đi đâu rồi?
- Sư phụ chàng đã đi vào mùa đông vì em đến vào mùa xuân. Ông biết em đến, ông để lại cho chàng ngôi nhà mà chúng ta yêu mến.
Cái bóng quấn lấy Thẩm Phong. Tay nàng tựa như dòng nước nóng. Bị ngạt, chàng muốn vùng vẫy nhưng tay chân đã mất hết sức lực. Chàng há miệng để thở. Cái bóng lao vào đó như một chùm ánh sáng.
Một cảm giác run rẩy chưa từng biết đốt cháy bụng dưới của chàng.
Thẩm Phong rùng mình sung sướng rồi giật thót mình dậy. Ngày đã lên cao. Mặt trời chiếu qua khe cửa, vẽ lên tường những vệt dài, những đường xoắn ốc, những từ ngữ không thể giải mã.
Chàng đã dựng lên một cái khung gỗ trước nhà. Mặt trời chiếu vào nó chằm chặp qua những tàn cây và ném những mũi lao vào thân thể trần trụi của nó.
Cầm dao nạo trong tay, chàng sửng sốt với khám phá của mình. Khi lớp sơn bị nạo đi, tấm gỗ trở thành một phụ nữ khoả thân. Không còn quần áo điểm trang hay trang sức, nàng hé lộ nét đẹp tự nhiên lộng lẫy. Trước đây, khi lắng nghe âm thanh nàng phát ra lúc chàng gõ tay vào, chàng đã cho đó là một phiến gỗ thông cổ. Bây giờ, chàng lại đứng trước một loại gỗ chàng chưa hề biết đến có màu vàng nâu và những đường vân tinh tế. Vì nhiệt độ lên cao bất thường vào đầu xuân, tấm gỗ phả ra một mùi thơm lạ lùng.
Sư phụ xưa kia có nói tới một loại cây thần mọc trên những hòn đảo trôi nổi ngoài đại đương ở phía đông. Rễ của chúng trồi lên khỏi mặt đất và che đỡ cho những loài thú hoang. Thân của chúng đâm vào bầu trời. Lá của chúng uống mây và tái sinh trong ánh mặt trời. Từng đàn chim đến đó làm tổ vào buổi chiều tà rồi ra đi vào lúc bình minh. Mỗi sáng mỗi tỗi, chúng đều gõ vào đó, tạo ra những tiếng động mà ngư dân ngoài bờ biển còn nghe được. Người thợ đàn già nói rằng những cây thần không bao giờ chết và không sợ sấm sét. Ngược lại, những ngày mưa bão, khi những tiếng sét xé toạc những đám mây và làm nổi sóng, bóng của chúng, có hình những bông hoa khổng lồ, nghiêng vào bức rèm mưa và cuồn cuộn trên trời như bầy sứa. Mỗi một nghìn năm, chúng lại trổ cành. Những cành cây khô còn to hơn cả cành một cây tùng trăm tuổi sẽ rụng xuống biển và không bao giờ tan rã. Những ngư phủ vớt được đem bán ở chợ đắt như vàng, chỉ có những hoàng đế mới được dâng tặng để làm giường tủ, bức bình phong hay những xà nhà sơn thếp làm cho cung điện ngập một mùi hương quý phái gợi lại những hòn đảo thần tiên.
Nếu sư phụ đang ở đó, ông sẽ đi quanh tấm gỗ, sung sướng và kiêu hãnh lắm.
Thẩm Phong thở dài. Chàng đặt cái dao cạo xuống rồi ra khỏi vườn. Trong một đêm, khu làng đã thay hình đổi dạng vì cây cối đã trổ hoa. Những cây đào, cây ngâu, cây lê và cây táo, những bông hoa tú cầu và cây giáng nụ tuyết đã tô điểm cho sườn núi, nơi mọc lên những mái nhà tranh chạy dọc đến tận thung lũng. Lũ trẻ sung sướng với những gì đang thấy trước mắt, lăn tròn trên cỏ rồi chạy nhảy thả diều, những con diều theo gió lên đến tận trời cao.
Gần giếng nước, Thẩm Phong gặp một người hàng xóm đang lấy nước. Chàng vội đến giúp bà.
- Lần cuối cùng mà trời nóng như thế này đã cách đây hai mươi lăm năm, - bà lầm bầm. - Đợt đại hạn lúc đó đến làm người ta phải chờ mưa suốt hai năm. Sau đó, đã gặp phải nạn cào cào, nạn quân nổi loạn, nạn man di phương Bắc, rồi những kẻ sưu thuế… Sư phụ cậu biết thuật chiêm tinh, ông lão mà ở đây chắc báo được cho chúng ta xem có bị cạn nước không nhỉ?
Thẩm Phong tránh né:
- Con gánh xô nước về nhà bà luôn nhé?
- À, được! Cảm ơn chàng trai. Ta giờ đã già quá. Ngày xưa ta gánh hai xô hai đầu đòn gánh mà còn chạy được ấy chứ.
- Chờ con chút.
Đến lượt mình, Thẩm Phong kéo gầu nước lên rồi rảy nước từ đầu tới chân. Chàng sắp sửa kéo gầu thứ hai lên thì bà hàng xóm la lớn:
- Đủ rồi, Thẩm Phong! Nếu cậu muốn tắm thì ra hồ. Giả như năm nay đại hạn thì mình phải tiết kiệm nước đó!
Chàng nghiến răng thả gầu nước rơi tòm xuống giếng rồi theo bà hàng xóm về nhà.
- Cầm lấy cái bánh, ăn đi khi còn nóng, - bà nói với chàng. - Còn cái bánh này đem cho sư phụ nhé!
Cơ thể chàng lại hoạt bát nhờ hai cái bánh, Thẩm Phong cầm lấy cái rìu đến trước tấm gỗ. Chàng giạng chân, bóp bụng, lắc lắc hông, hít thở thật sâu rồi nhấc tay lên.
Chàng chưa bao giờ bị xây xẩm vì những nhát rìu. Cái rìu lao xuống, không run rẩy. Khúc gỗ rung lên nhưng không bật nảy. Lưỡi rìu gãy gọn và sắc ngọt cắm vào ba phần tư tấm gỗ.
Lúc nhỏ, Thẩm Phong chẻ củi mỗi ngày mà không biết người thợ đàn già đang rèn luyện chàng. Sau đó, sư phụ mới nói cho chàng biết:
“Sức mạnh của người làm đàn không phải là sự hung tàn của chiến binh. Người làm đàn phải cầm chặt công cụ của mình như một chiến binh không bao giờ buông gươm giữa trận chiến. Nhưng một chiến binh chặt đứt, đâm vào và lấy đi sự sống. Sức mạnh của chiến binh là lòng gan dạ, ông ta làm quân địch hoảng sợ trước khi giết chóc. Còn sức mạnh của người làm đàn là sự chính xác, người làm đàn phải làm chủ hoàn toàn đường đi của lưỡi rìu.”