The Mark of Athena _ Chương 22
Leo
HỌ ĐỨNG TRONG SÂN TRONG CỦA MỘT KHU NHÀ KHÉP KÍN, như kiểu một tu viện. Những bức tường gạch đỏ được cây leo phủ kín. Những cây mộc lan mọc nứt cả gạch lát. Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang và độ ẩm thì khoảng hai trăm phần trăm, thậm chí còn ẩm ướt hơn cả Houston. Từ đâu đó gần đấy, Leo ngửi thấy mùi cá đang rán. Trên đầu, màn mây thấp và xám xịt, vằn vện như lông hổ.
Khoảnh sân lớn cỡ một sân bóng rổ. Một quả bóng đá cũ xì hơi nằm lăn lóc một góc, dưới chân một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.
Dọc theo những tòa nhà, các cửa sổ đều mở. Leo có thể thấy thấp thoáng những cử động bên trong, nhưng mọi thứ lại im lặng một cách kì quái. Cậu không thấy dấu hiệu gì của máy điều hòa không khí, có nghĩa là bên trong chắc phải nóng đến cả nghìn độ.
“Bọn mình đang ở chỗ nào đây?” Cậu hỏi.
“Trường cũ của em,” Hazel đứng bên cạnh cậu nói. “Học viện Thánh Agnes Cho Trẻ Em Da Màu Và Da Đỏ.”
“Tên kiểu gì...?”
Cậu quay sang Hazel và giật mình kêu lên. Cô là một bóng ma–chỉ là một cái bóng mờ sương trong không khí ẩm thấp. Leo nhìn xuống và nhận ra thân thể của chính cậu cũng biến thành sương khói.
Mọi thứ chung quanh cậu đều có vẻ rõ nét và rất thật, nhưng cậu lại là một linh hồn. Sau vụ bị eidolon nhập ba ngày trước, cậu không khoái cái cảm giác này tẹo nào.
Trước khi cậu kịp thắc mắc thêm, một hồi chuông vang lên từ bên trong: không phải tiếng chuông điện hiện đại, mà là âm thanh kiểu xưa của một chiếc búa gõ lên kim loại.
“Đây là một kí ức,” Hazel nói, “vậy nên sẽ không có ai trông thấy bọn mình cả. Nhìn kìa, bọn em đến rồi.”
“Bọn em á?”
Từ khắp các cánh cửa, từng tá từng tá học sinh ùa ra sân, hò hét và xô đẩy nhau. Hầu hết trong số chúng mang dòng máu Mĩ-Phi, với một nhúm rải rác những đứa trông như trẻ con Mĩ-Latin, bé bằng trẻ con mẫu giáo cũng có mà lớn cỡ học sinh cấp ba cũng có. Leo có thể nhận ra đây là quá khứ, vì tất cả đám con gái đều mặc váy và đi giày da cài khóa[1]. Đám con trai thì mặc áo sơ-mi trắng có cổ và quần tây có dây đeo. Nhiều đứa đội mũ lưỡi trai giống mũ của mấy tay đua ngựa[2]. Vài đứa mang theo đồ ăn trưa. Nhiều đứa khác thì không. Quần áo của bọn chúng sạch sẽ, nhưng sờn rách và bạc màu. Vài đứa có chỗ rách ở quần chỗ đầu gối hay giày bị há mõm.
[1] Buckled leather shoes.
[2] Mũ lưỡi trai kỵ sĩ.
Vài đứa con gái bắt đầu chơi nhảy dây bằng một đoạn dây phơi quần áo. Mấy đứa lớn hơn thì chuyền qua chuyền lại một quả bóng chày cũ mèm. Những đứa mang đồ ăn trưa thì ngồi túm tụm vừa ăn vừa tán dóc.
Chẳng ai để ý thấy Ma Hazel hay Ma Leo.
Rồi Hazel – Hazel của quá khứ – xuống sân. Leo nhận ra cô chẳng khó khăn gì, dù trông cô trẻ hơn bây giờ khoảng hai tuổi. Tóc cô được kẹp lại thành một túm. Đôi mắt vàng của cô bồn chồn đảo quanh khoảnh sân. Cô mặc một chiếc váy tối màu, không giống những đứa con gái khác mặc váy vải bông trắng hay màu nhạt in hoa, vì vậy cô nổi bật như một người khóc than giữa một đám cưới vậy.
Cô cầm một túi đựng đồ ăn trưa bằng vải bạt và đi men theo bức tường, như đang cố hết sức để không bị chú ý.
Cách đó không hiệu quả. Một thằng con trai kêu lên, “Đồ phù thủy!” Nó ì ạch đi đến chỗ cô, dồn cô vào một góc. Đứa con trai có lẽ mười bốn hay mười chín tuổi. Khó mà nói rõ được vì nó cực kì đô con, dễ chừng là đứa to xác nhất trong sân. Leo nhận thấy nó đã bị cản lại mấy lần. Đứa con trai mặc một cái áo sơ mi bẩn thỉu có màu của một cái giẻ lau dầu máy, quần sợi len mòn xơ (với cái nóng như thế này thì chẳng dễ chịu gì), và chẳng giày tất gì sất. Có lẽ các giáo viên quá kinh hãi để mà bắt thằng này đi giày, hay có lẽ nó chẳng có đôi giày nào.
“Đấy là Rufus,” Ma Hazel nói đầy vẻ chán ghét.
“Nghiêm túc đó hả? Không đời nào mà thằng đó lại tên là Rufus.” Leo nói.
“Đi nào,” Ma Hazel nói. Cô lướt về phía cuộc đối đầu. Leo lướt theo. Cậu không quen lướt đi, nhưng cậu từng đi xe Segway[3] một lần và nó cũng tương tự như vậy.
[3] Segway PT (viết tắt của Segway Personal Transporter – Xe cá nhân Segway), thường được gọi tắt là Segway là một phương tiện giao thông cá nhân có hai bánh, hoạt động trên cơ chế tự cân bằng do Dean Kamen phát minh. Loại xe này được sản xuất bởi công ty Segway Inc. ở bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Từ “Segway” phát âm gần giống với “segue” (một từ gốc tiếng Ý có nghĩa “di chuyển nhẹ nhàng”).
Thằng nhóc đô con Rufus có một khuôn mặt bèn bẹt, như thể nó dành phần lớn thời gian cắm mặt hôn vỉa hè. Tóc trên đỉnh đầu nó cũng được cắt bằng, đến nỗi máy bay mini có thể dùng chỏm đầu nó làm đường băng hạ cánh.
Rufus chìa tay ra. “Bữa trưa.”
Hazel trong quá khứ không nói gì. Cô đưa cái túi vải bạt ra như thể đó là chuyện cơm bữa hàng ngày.
Mấy đứa con gái lớn xúm đến xem trò vui. Một đứa cười khúc khích với Rufus. “Mày không muốn ăn thứ đấy đâu,” con bé cảnh báo. “Dám có độc trong đó lắm.”
“Mày nói đúng,” Rufus nói. “Con mẹ phù thủy của mày làm cái này hả, Levesque?”
“Mẹ không phải phù thủy,” Hazel lẩm bẩm.
Rufus ném cái túi xuống đất và dẫm lên nó, nghiền nát các thứ bên trong bằng bàn chân trần của nó. “Trả mày đấy. Nhưng tao muốn một viên kim cương. Tao nghe nói mẹ yêu của mày biến được ra mấy thứ đó từ không khí. Đưa tao một viên kim cương.”
“Tôi không có kim cương,” Hazel nói. “Cút đi.”
Rufus co tay lại thành nắm đấm. Leo đã ở nhiều trường học và nhà nhận nuôi khắc nghiệt đủ để nhận biết khi nào chuyện sắp thành ra tồi tệ. Cậu muốn bước tới và giúp Hazel, nhưng cậu là một bóng ma. Hơn nữa, tất cả những chuyện này đã xảy ra từ vài chục năm trước rồi.
Rồi một đứa khác loạng choạng bước ra dưới ánh mặt trời.
Leo hít sâu một hơi. Cậu nhóc đó trông y chang cậu.
“Anh thấy chưa?” Bóng Ma Hazel hỏi.
Leo Dỏm có chiều cao bằng Leo Thật – có nghĩa là lùn. Cậu ta cũng có cùng kiểu năng lượng bồn chồn đó – gõ gõ ngón tay lên quần mình, phủi phủi áo sơ mi, chỉnh chỉnh cái mũ lưỡi trai kỵ sĩ trên mái tóc nâu xoăn xoăn của mình. (Thật tình, Leo nghĩ, người thấp bé không nên đội mũ cưỡi ngựa, trừ phi họ là tay đua ngựa.) Leo Dỏm có nụ cười tinh quái tương tự như nụ cười vẫn cười với Leo Thật mỗi lần cậu nhìn vào gương - một vẻ mặt khiến các thầy cô giáo phải lập tức quát lên, “Đừng có hòng mà nghĩ đến chuyện đấy!” và xách cổ cậu lên hàng đầu.
Có vẻ như Leo Dỏm vừa bị một thầy cô nào đấy quở mắng. Cậu ta đang cầm một cái mũ lừa[4] – một cái mũ lừa hàng-thật-giá-thật bằng bìa cứng có viết chữ ĐẦN ĐỘN trên mặt. Leo cứ tưởng mấy thứ này chỉ có trong hoạt hình thôi chứ.
[4] Dunce cone: mũ làm bằng giấy đội vào đầu những học sinh học dốt hoặc có những hành vi không tốt như một hình phạt.
Leo có thể hiểu tại sao Leo Dỏm không đội cái mũ đó. Trông giống một tay đua ngựa là đã đủ tệ lắm rồi. Cái mũ đó mà ngồi trên đầu cậu ta thì cậu ta sẽ trông như một thần lùn giữ của[5] mất.
[5] Gnome: các bức tượng lùn thường để trước cửa hoặc trong vườn để giữ nhà giữ vườn.
Vài đứa lùi lại khi Leo Dỏm nhảy vào hiện trường. Những đứa khác thì huých nhau chạy về phía cậu ta như đang mong chờ một màn hay.
Trong lúc đó, Rufus Đầu Bẹt vẫn đang cố moi một viên kim cương từ Hazel, mù tịt về sự xuất hiện của Leo Dỏm.
“Nào, cô gái.” Rufus gườm gườm nhìn Hazel, nắm đấm siết chặt. “Đưa nó đây!”
Hazel nép sát vào bức tường phía sau. Đột nhiên mặt đất dưới chân cô kêu tạch một tiếng, như tiếng một nhánh cây gãy. Một viên kim cương hoàn hảo to cỡ hạt dẻ cười lấp lánh nằm giữa hai bàn chân cô.
“Ha!” Rufus rống lên khi nhìn thấy nó. Nó bắt đầu cúi xuống, nhưng Hazel kêu lên, “Làm ơn, đừng!” như thể cô đang lo lắng cho thằng đần to xác.
Đó cũng là lúc Leo Dỏm nhởn nha đi tới.
Đến rồi đây, Leo nghĩ. Leo Dỏm sẽ tung ra mấy đòn nhu thuật[6] kiểu HLV Hedge và lập chiến công.
[6] Jujitsu: Nhu Thuật (柔術; Jujitsu, Jiu-Jitsu) là một danh từ gọi chung cho nhiều môn phái võ thuật cổ truyền của người Nhật. Nhu Thuật xuất nguồn từ giai cấp võ sĩ samurai xưa ở Nhật Bản dùng tay không để tự vệ và chống cự lại đối thủ có võ trang hay không võ trang. Vì các samurai nhận thấy rằng phương pháp đấm đá của các bộ môn võ khác không có hiệu nghiệm khi chống lại địch thủ mặc áo giáp, họ phát minh ra phương pháp dùng quật ngã, đè, siết cổ, khóa tay, khóa chân,… để kháng cự địch thủ. Những phương pháp này nói chung là dựa trên lý thuyết dùng sức công của đối phương để kềm chế địch thủ, thay vì chống trả trực tiếp.
Thay vì vậy, Leo Dỏm đưa chóp của cái mũ lừa lên trước miệng mình như một cái loa và gào lên, “CẮT!”
Cậu ta nói câu đó với đầy quyền uy đến nỗi tất cả đám nhóc còn lại đứng hình trong giây lát. Ngay cả Rufus cũng đứng thẳng dậy và hoang mang lùi lại.
Một đứa con trai bé khúc khích cười thầm: “Hammy Sammy.”
Sammy… Leo rùng mình. Tên này là đứa quái quỷ nào vậy?
Sammy/Leo Dỏm lao tới chỗ Rufus với cái mũ lừa trên tay, vẻ mặt giận dữ. “Không, không, không!” Cậu ta phán, điên cuồng vẫy cái tay rảnh với những đứa khác đang xúm vào xem trò vui.
Sammy quay về phía Hazel. “Tiểu thư Lamarr, lời thoại của cô phải là…” Sammy bực dọc nhìn chung quanh. “Kịch bản đâu! Lời thoại của Hedy Lamarr là gì?”
“Không, làm ơn, đồ xấu xa.” Một đứa con trai đáp.
“Cám ơn!” Sammy nói. “Cô Lamarr, cô phải nói, không, làm ơn, đồ xấu xa! Còn cậu, Clark Gable…” [7]
[7] Hedy Lamarr và Clark Gable: hai diễn viên chính trong phim Comrade X (1940), bộ phim từng được đề cử giải Hàn Lâm cho Kịch Bản Xuất Sắc Nhất.
Cả sân chơi phá ra cười. Leo chỉ biết lơ mơ rằng Clark Gable là một diễn viên thời xưa, còn lại thì cậu mù tịt. Dù vậy, có vẻ như cái ý rưởng Rufus Đầu Bẹt có thể là Clark Gable là cực kì khôi hài với đám nhóc ở đây.
“Ngài Gable…”
“Không!” Một đứa con gái kêu lên. “Cho nó làm Gary Cooper[8] đi!”
[8] Gary Cooper: là một nam diễn viên điện ảnh Mỹ. Ông nổi tiếng với phong cách diễn nhẹ nhàng, trầm lặng và khảnăng tự chủ, kiềm chế cảm xúc nên được coi là hình mẫu hoàn hảo cho thể loại phim câm, nhưng bên cạnh đó, ông vẫn có thể thể hiện cá tính mạnh mẽ như trong một số bộ phim miền Tây ông tham gia. Sự nghiệp của Cooper kéo dài từ năm 1925 cho đến tận khi ông sắp qua đời, bao gồm hơn một trăm bộ phim.
Thêm nhiều tiếng cười nữa. Rufus trông như thể đang sắp nổi khùng. Nó siết chặt nắm đấm như muốn đánh ai đó, nhưng nó không thể tấn công cả trường được. Rõ ràng là nó ghét bị cười nhạo, nhưng đầu óc bé nhỏ chậm chạp của nó lại không thể ngộ ra Sammy đang định làm gì.
Leo gật đầu tán thưởng. Sammy đúng là rất giống cậu. Cậu đã làm những trò tương tự với đám ưa bắt nạt hàng nhiều năm trời.
“Rồi!” Sammy hống hách kêu lên. “Cậu Cooper, cậu nói, Ồ, nhưng viên kim cương này là của tôi, cô em gian trá của tôi ạ! Rồi cậu hãy lượm lấy viên kim cương như thế này này!”
“Sammy, đừng!” Hazel kêu lên, nhưng Sammy đã lượm viên đá lên và nhét nó vào túi cậu ta bằng một cử động mượt mà.
Cậu xoay về phía Rufus. “Tôi muốn cảm xúc! Tôi muốn các nữ khán giả ngất xỉu! Các quý cô, vừa rồi Ngài Cooper đã khiến các cô ngất xỉu chưa?”
“Chưa,” vài đứa con gái đáp lại.
“Đấy, cậu thấy chưa?” Sammy gào lên. “Nào, bắt đầu lại từ đầu!” cậu ta gào vào cái mũ lừa trên tay. “Diễn!”
Rufus vừa bước ra khỏi trạng thái mù mờ. Nó bước vềphía Sammy và nói, “Valdez, tao sẽ...”
Chuông kêu. Đám học sinh ùa về phía các cánh cửa. Sammy kéo Hazel tránh sang một bên trong khi những đứa bé – hành xử như thể bọn chúng có tên trong danh sách trả lương của Sammy – lùa Rufus đi cùng bọn chúng, khiến nó bị lôi vào trong bởi một cơn thủy triều toàn trẻ con mẫu giáo.
Chẳng mấy chốc, Sammy và Hazel chỉ còn lại một mình với nhau, không tính hai bóng ma.
Sammy lượm bữa trưa bẹp nát của Hazel lên, trình diễn động tác phủi bụi cho cái túi vải bạt của Hazel, rồi đưa nó cho cô với một cái cúi mình trịnh trọng, như thể đó là vương miện của cô. “Tiểu thư Lamarr.”
Hazel trong quá khứ nhận lấy túi đồ ăn trưa bị hỏng của cô. Trông cô giống như thể cô sắp khóc, nhưng Leo không đoán được đó là vì nhẹ nhõm hay khổ sở hay ngưỡng mộ. “Sammy… Rufus sẽ giết cậu mất.”
“À, nó đủ khôn để mà không chọc tới mình.” Sammy thả cái mũ lừa lên trên cái mũ cưỡi ngựa của cậu ta. Cậu đứng thẳng và ưỡn tấm ngực gầy gò. Cái mũ lừa rớt xuống.
Hazel cười. “Trông cậu thật lố bịch.”
“Ồ, cảm ơn, Tiểu thư Lamarr.”
“Có gì đâu, anh chàng xảo trá của tôi.”
Nụ cười của Sammy nao núng. Không khí trở nên trầm mặc một cách khó chịu. Hazel nìn chăm chăm xuống mặt đất. “Lẽ ra cậu không nên nhặt viên kim cương đó. Nó rất nguy hiểm.”
“A, thôi nào,” Sammy nói. “Không phải với mình!”
Hazel thận trọng quan sát cậu ta, như thể cô muốn tin điều đó. “Những chuyện xấu có thể xảy ra. Cậu không nên...”
“Mình sẽ không bán nó đâu,” Sammy nói. “Mình hứa đấy! Mình sẽ chỉ giữ nó làm bằng chứng cho mùi vị (flavor) của cậu thôi!”
Hazel nặn ra một nụ cười. “Mình nghĩ ý cậu là một bằng chứng cho tình cảm quý mến (favor) của mình.“
“Đấy đấy! Bọn mình nên đi thôi. Đến giờ cho cảnh tiếp theo của chúng ta: Hedy Lamar suýt chết vì chán trong lớp học Tiếng Anh rồi.”
Sammy đưa khuỷu tay ra như một quý ông lịch thiệp, nhưng Hazel tinh nghịch đẩy cậu ra. “Cảm ơn cậu vì đã ở đó, Sammy.”
“Tiểu thư Lamarr, tôi sẽ luôn ở bên cô khi cô cần!” Cậu tươi tỉnh nói. Hai người bọn họ chạy nhanh vào lớp.
Leo cảm thấy giống một hồn ma hơn bao giờ hết. Có lẽ cậu vẫn đã là một hồn ma eidolon suốt cả đời mình, bởi vì cậu nhóc cậu vừa thấy hẳn phải là Leo xịn. Cậu ta thông minh hơn, ngầu hơn và hài hước hơn. Cậu ta giỡn hớt với Hazel tài đến nỗi hiển nhiên cậu ta đã trộm được trái tim của cô.
Chẳng trách Hazel lại nhìn Leo theo cách kì lạ như thế lúc họ mới gặp lần đầu. Chẳng trách mà cô lại gọi cái tên Sammy với nhiều cảm xúc đến vậy. Nhưng Leo không phải là Sammy, cũng y như Rufus Đầu Bẹt không phải là Clark Gable vậy.
“Hazel,” cậu nói. “Anh... anh không...”
Sân trường nhòa đi thành một khung cảnh khác.
Hazel và Leo vẫn là những bóng ma, nhưng giờ họ lại đứng trước một ngôi nhà cũ nát bên một con mương mọc đầy cỏ dại. Một bụi chuối mọc ủ rũ trên khoảng sân. Trên bậc thang đặt một cái radio kiểu cổ đang phát nhạc conjunto[9], và trên hàng hiên râm mát, ngồi trên một cái ghế bập bênh, một ông già gầy gò đang nhìn về phía chân trời.
[9] Conjunto: một thể loại nhạc bắt nguồn từ phía Nam Texas từ cuối thế kỉ XIX, thường có đàn bajo sexto (ghi-ta của Tây Ban Nha) và đàn accordion là nhạc cụ chính.
“Bọn mình ở đâu thế này?” Hazel hỏi. Cô vẫn đang ở thể hơi, nhưng giọng nói của cô đầy hoảng hốt. “Cái này không có trong cuộc đời em!”
Leo cảm thấy như thể bóng ma của mình đang chắc lại, trở nên thật hơn. Nơi này có vẻ quen thuộc một cách kỳ lạ.
“Chỗ này là Houston,” cậu nhận ra. “Anh biết khung cảnh này. Con mương đó… Đây là chỗ ở cũ của mẹ anh, nơi mẹ lớn lên. Đằng kia là Sân bay Hobby.”
“Đây là kí ức của anh á?” Hazel nói. “Em không hiểu! Làm thế nào...?”
“Em hỏi anh á?” Leo vặn lại.
Bỗng ông lão lẩm bẩm, “A, Hazel…”
Cảm giác sững sờ chạy dọc xương sống Leo. Đôi mắt của ông lão vẫn nhìn đăm đăm về phía chân trời. Sao ông lại biết họ ở đây được?
“Mình đoán chúng ta đã hết thời gian rồi,” ông lão mơ màng nói tiếp. “Chà…”
Ông không nói nốt ý nghĩ đó ra.
Hazel và Leo đứng im như tượng. Ông lão không tỏ thêm dấu hiệu nào rằng ông nghe thấy hay nhìn thấy họ. Leo hiểu ra là ông lão chỉ đang nói chuyện một mình. Vậy thì sao ông lại gọi tên Hazel?
Ông lão có làn da nhăn nheo, tóc xoăn bạc trắng và đôi bàn tay sần sùi, như thể ông đã dành cả đời làm việc trong một xưởng cơ khí. Ông mặc một cái áo sơ mi màu vàng nhạt, sạch sẽ không một vết bẩn với quần tây xám có quai đeo và giày đen được đánh kĩ.
Bất chấp tuổi tác, đôi mắt ông vẫn tinh tường và sáng trong. Ông ngồi với một phong thái nghiêm trang tĩnh lặng. Trông ông rất thanh thản–thậm chí là khoái chí, như thể ông đang nghĩ, Bố khỉ, mình sống lâu đến ngần này cơ á? Oách thật!
Leo khá là chắc là mình chưa từng nhìn thấy ông lão này. Vậy mà sao ông lại có vẻ quen quen? Rồi cậu nhận ra ông lão đang gõ gõ ngón tay lên tay vịn chiếc ghế mà ông đang ngồi, nhưng không phải gõ linh tinh. Ông đang dùng mã Morse[10], hệt như cách mẹ Leo thường làm với cậu… và ông lão đang gõ đi gõ lại một thông điệp: Anh yêu em.
[10] Mã Morse hay mã Moóc-xơ, được phát minh vào năm 1835 bởi Samuel Morse, là một loại mã hóa ký tự dùng đểtruyền các thông tin điện báo. Mã Morse dùng một chuỗi đã được chuẩn hóa gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của một thông điệp. Các phần từ ngắn và dài có thể được thể hiện bằng âm thanh, các dấu hay gạch, hoặc các xung, hoặc các kí hiệu tường được gọi là “chấm” và “gạch” hay “dot” và “dash” trong tiếng Anh.
Cánh cửa chớp mở ra. Một người phụ nữ trẻ bước ra. Cô mặc quần jeans và một cái áo cánh màu xanh ngọc. Mái tóc đen của cô được cắt ngắn thành những lọn lỉa chỉa. Trông cô xinh xắn, nhưng không hề mong manh. Cô có hai cánh tay rắn chắc và đôi bàn tay chai sạn. Cặp mắt nâu của cô, giống như đôi mắt của ông lão, lấp lánh niềm vui thích. Trong tay cô ôm một đứa bé, được bọc trong một cái chăn màu xanh dương.
“Nhìn này, mijo[11],” cô nói với đứa bé. “Đây là bisabuelo của con đấy. Bisabuelo, ông có muốn bế bé không?”
[11] Tiếng Tây Ban Nha, ghép từ ‘mi’(của tôi) và ‘hijo’(con trai) thành ‘mijo’ là ‘con tai của tôi’.
Khi Leo nghe thấy giọng nói của người phụ nữ trẻ, cậu thổn thức.
Đó là mẹ cậu– trẻ hơn cậu nhớ, nhưng thực sự còn sống. Điều đó có nghĩa là đứa bé trong tay bà…
Ông lão nhe răng cười toe toét. Ông có những cái răng hoàn hảo, trắng tinh y như tóc ông vậy. Mặt ông đầy những nếp nhăn vì cười. “Một đứa bé trai! Mi bebito[12], Leo!”
“Leo?” Hazel thì thào. “Đấy– đấy là anh? Bisabuelo là gì?”
Leo không thể tìm được giọng nói của mình. Là ông cố [13], Leo muốn trả lời như vậy.
[12] Tiếng Tây Ban Nha, ‘mi bebito’ tương tự ‘my baby’ trong tiếng Anh, là ‘bé của tôi’.
[13] Được dịch nguyên văn theo bản gốc. Thực ra từ Bisabuelo có nghĩa là ông thôi, còn từ tatarabuelo mới có nghĩa là ông cố. Không biết tại sao lại có nhầm lẫm như vậy, có lẽ tại tác giả. Đây không phải lỗi của dịch giả=)))))
Ông lão đón lấy bé Leo, cười khùng khục thích thú và cù cù cái cằm của thằng bé – và cuối cùng thì Bóng Ma Leo cũng nhận ra cái mà mình đang nhìn thấy.
Bằng cách nào đó, khả năng về thăm lại quá khứ của Hazel đã tìm được sự kiên duy nhất kết nối cuộc đời hai bọn họ – nơi dòng thời gian của Leo và Hazel gặp nhau.
Người đàn ông này…
“Ôi…” Hazel có vẻ như cũng nhận ra ông là ai cùng thời điểm đó. Giọng của cô trở nên lí nhí, chực bật khóc. “Ôi, Sammy, không…”
“A, Leo bé bỏng,” Sammy Valdez, đã hơn bảy mươi tuổi, nói. “Cháu sẽ là diễn viên đóng thế của ta, hử? Người ta gọi thế thì phải, ta nghĩ vậy. Nói với cô ấy giùm ta. Ta hi vọng ta có thể sống tiếp, nhưng, ây, lời nguyền không cho ta làm vậy!”
Hazel nức nở. “Gaea… Gaea nói với em rằng cậu ấy chết vì đau tim, vào những năm 60. Nhưng đây không phải – đây không thể là…”
Sammy Valdez vẫn không ngừng nói chuyện với đứa bé, trong khi mẹ của Leo, Esperanza, nhìn họ với một nụ cười đau buồn – có lẽ là hơi lo lắng rằng bisabuelo của Leo đang lan man, hơi buồn vì ông đang nói lẩn thẩn.
“Quý cô đó, Doña Callida, đã cảnh báo ta.” Sammy buồn bã lắc đầu. “Cô ta nói mối hiểm nguy lớn với Hazel không xảy đến lúc ta sống. Nhưng ta đã hứa ta sẽ ở bên cô ấy. Cháu phải nói với cô ấy rằng ta xin lỗi, Leo ạ. Hãy giúp cô ấy nếu cháu có thể.”
“Bisabuelo,” Esperanza nói, “chắc ông mệt rồi.”
Bà giang tay ra định đón thằng bé, nhưng ông cụ ôm nó thêm một lúc nữa. Leo Bé có vẻ hoàn toàn ổn với điều đó.
“Nói với cô ấy là ta xin lỗi vì đã bán viên kim cương đi, nhé?” Sammy nói. “Ta đã thất hứa. Lúc cô ấy biến mất ở Alaska… à, đã lâu lắm rồi, cuối cùng ta cũng dùng viên kim cương đó, chuyển đến Texas như ta vẫn từng mơ. Ta mở xưởng cơ khí của ta. Tạo dựng gia đình của ta! Một cuộc đời tốt đẹp, nhưng Hazel đã đúng. Viên kim cương mang một lời nguyền. Ta không bao giờ được trông thấy cô ấy nữa.”
“Ôi, Sammy,” Hazel nói. “Không, lời nguyền không phải thứ ngăn trở mình. Mình đã muốn quay trở lại. Mình đã chết!”
Ông lão chẳng có vẻ gì là đã nghe thấy. Ông cười với đứa bé, và hôn đầu thằng bé. “Ta chúc phúc cho cháu, Leo. Chắt trai lớn! Ta có cảm giác cháu là đứa bé đặc biệt, giống như Hazel. Cháu còn hơn cả một đứa bé bình thường, nhỉ? Cháu sẽ bước tiếp thay ta. Cháu sẽ gặp cô ấy một ngày nào đó. Nói xin chào với cô ấy hộ ta nhé.”
“Bisabuelo,” Esperanza nói, hơi dứt khoát hơn.
“Ừ, ừ.” Sammy cười khùng khục. “El viejo loco[14] lảm nhảm suốt ngày. Ông mệt rồi, Esperanza. Cháu nói đúng. Nhưng ông sẽ nghỉ ngơi sớm thôi. Một cuộc đời tốt đẹp. Hãy nuôi dạy thằng bé cho tốt, nieta[15].”
[14] Tiếng Tây Ban Nha: ‘El viejo loco’ có nghĩa là ‘già rồi lẩm cẩm’.
[15] Tiếng Tây Ban Nha: ‘nieta’ là ‘cháu gái’.
Khung cảnh mờ đi.
Leo lại đang đứng trên boong tàu Argo III, nắm tay Hazel. Mặt trời đã lặn, và con tàu chỉ được thắp sáng bởi những lồng đèn bằng đồng. Mắt Hazel sưng húp vì khóc.
Những gì họ đã thấy là quá nhiều. Đại dương nhấp nhô bên dưới họ và lúc này, lần đầu tiên trong đời Leo cảm thấy họ như đang hoàn toàn lênh đênh.
“Xin chào, Hazel Levesque.” Cậu nói, giọng khàn khàn.
Cằm cô run rẩy. Cô quay đi và mở miệng muốn nói nhưng trước khi cô kịp làm vậy thì con tàu đã tròng trành nghiêng sang một bên.
“Leo!” HLV Hedge gào lên.
Festus kêu ù ù báo động và phun lửa vào bầu trời đêm. Chuông trên tàu rung lên.
“Đám quái vật mà trò lo sẽ đụng phải ấy mà?” Hedge hét lên. “Một con trong đám đấy tìm thấy chúng ta rồi!”