Đô Thị Quỷ Ký


Dưới chân núi Cảnh Dương ở vùng Lưỡng Giang, có một thôn làng nhỏ tên là Ô Hợp.

Cấu trúc của thôn này được thiết kế theo đồ hình của bát quái tiên thiên.

Chín ngôi nhà xây thành hàng ngang liền nhau hình thành một hào dương.

Tám ngôi nhà xây thành hàng ngang liền nhau nhưng có một khoảng trống ở giữa, chia ra hai bên, mỗi bên bốn nhà, hình thành một hào âm.

Ba dãy nhà hào dương được xây song song với nhau hình thành quẻ Càn.

Ba dãy nhà hào âm được xây song song với nhau hình thành quẻ Khôn.

Lấy trung tâm ở giữa thôn là một hồ nước thái cực rộng, quẻ Càn và Khôn đối xứng nhau qua hồ nước này.

Cứ thế, dãy nhà quẻ Đoài đối xứng với dãy nhà quẻ Cấn, Khảm đối với Ly, Tốn đối với Chấn.

Hồ nước thái cực này một nửa là chứa nước, nửa kia là đá trắng.

Nửa phần chứa nước có một khối đá tròn làm mắt dương, nửa phần đá trắng có một giếng nước không có thành giếng làm mắt âm.

Nước ở nửa phần chứa nước và nước ở trong giếng nước mắt âm luôn chuyển động xoay tròn, tuy rằng rất chậm rãi nhưng đứng nhìn một lúc sẽ nhận ra là dòng nước đang chuyển động.

Cái hồ hình tròn này là hồ kín, không rõ có cấu tạo thế nào mà nước bên trong lại có thể chuyển động xoay tròn như vậy, nhưng chưa từng có ai trong thôn dám lặn xuống dưới để tìm hiểu.

Dân chúng ở đây cứ sống từ thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có điển tích hay sử sách gì ghi chép lại nguồn gốc, cũng như ai là người đã xây dựng nên nơi này.

Chỉ có một nguồn gốc vô cùng đơn giản được kể lại rằng, những thế hệ đầu tiên đến đây thì nơi này đã được xây dựng sẵn như vậy.

Lúc đó là thời kỳ loạn lạc, mỗi đợt người vô tình tìm đến nơi này đều có nguồn gốc và xuất xứ vô cùng khác nhau, vì thế họ tự đặt tên cho nơi này là thôn Ô Hợp.

Tuy cái tên vô cùng thô kệch, nhưng dần dần gọi quen miệng nên không thay đổi nữa.

Không hiểu có phải do cấu trúc đồ hình bát quái đặc biệt ở nơi đây hay không mà người nào sống ở đây cũng đều có tinh thần vô cùng thanh thản, vô lo vô nghĩ.

Dù trước đó từng mang những gánh nặng tâm tư thế nào chăng nữa, một khi đã chuyển tới thôn này sinh sống thì cũng như được gột rửa tất cả.

Có điều khi các căn nhà nơi đây đã được sử dụng hết thì không cách nào xây thêm được nữa, từng có người thử dựng lên một túp lều nhỏ, nhưng bị đổ sụp không rõ lý do, ngay cả một khu vực rộng lớn xung quanh thôn cũng không thể xây nhà hay dựng lều lên gì được.

Dường như bản thân vùng đất này có sự điều khiển nội tại của chính bản thân nó, không can thiệp gì vào được.


Nhân khẩu ở đây cũng là điều kỳ lạ, gia đình nào muốn sinh con thì phải đợi có một người già trong thôn qua đời, nếu không có ai qua đời thì tuyệt nhiên không gia đình nào có thể sinh con được.

Nhờ linh khí của đồ hình bát quái nên thôn dân chẳng có ai mắc phải bệnh tật gì, nên nếu có chết thì cũng chỉ là chết già.

Mà đời người sống tới già đâu phải là một sớm một chiều, đâu thể muốn chết là chết được, thế nên có những giai đoạn trong thôn chẳng hề có lấy một đứa trẻ con.

Vào một năm kia, có hai người già nhất trong thôn qua đời, từ đó có hai gia đình sinh ra được con nối dõi, mỗi nhà sinh một đứa.

Nhà họ Lữ sinh ra một đứa con trai.

Nhà họ Ly sinh ra một đứa con gái.

Hai đứa bé sinh ra cùng một ngày, cũng là ngày mà trong thôn xảy ra chuyện kỳ lạ.

Ngày đó, có người đi ngang qua hồ thái cực, trong khóe mắt đọng lại một hình ảnh gì đó.

Ban đầu không biết là việc gì, nhưng sau khi đứng lại quan sát, người đó bất thần nhận ra một chuyện kinh hoàng từ trước đến nay chưa từng xảy ra.

Nước trong hồ hoàn toàn đứng yên, không còn chuyển động nữa.

Dòng nước luôn chuyển động xoay tròn chậm rãi này, từ lâu đã được dân ở đây xem như là nơi sản sinh ra nguồn sống, thế mà nay nó đã không còn chuyển động nữa.

Ngay đêm đó, trời bỗng đổ mưa to, gió thổi như lũ cuốn, sét đánh ầm ĩ.

Giữa những tiếng sấm rền vang, có một tiếng sấm to nhất như muốn vỡ tung cả trời đất, tiếng sấm này mang một tia sét giáng thẳng xuống hồ thái cực, đánh cho cái hồ nứt ra làm đôi.

Đường nứt vỡ của hồ chạy vòng vèo, ngang qua khối đá làm mắt dương và cái giếng làm mắt âm trong hồ, khiến cả hai thứ này đều vỡ toác ra.

Lúc này thôn dân mới phát hiện ra cả hai thứ này đều ẩn giấu kỳ vật trong lòng nó.

Khối đá mắt dương vỡ ra, để lộ bên trong là một thanh kiếm tỏa hồng quang đỏ rực.

Chuôi kiếm được khảm chín viên hồng ngọc, được điêu khắc thành hình thân rồng uốn quanh từ chuôi đến gốc thân kiếm, hai đầu rồng há miệng khạc long châu hướng về mũi kiếm.

Còn trong giếng nước mắt âm sau khi vỡ ra thì chỉ thấy có một mái tóc dài, đen nhánh.

Còn đường nứt gãy chạy ngang qua hồ thái cực trên mặt đất cứ từ từ mở rộng dần, hình thành nên một con suối chạy xuyên cả thôn, từ đầu bên này băng qua tới đầu bên kia.

Khi tới hai đầu rìa của thôn thì chui tọt xuống lòng đất.


Nước trong hồ thái cực sau khi đổ vào làm thành nước của dòng suối cắt ngang này thì bắt đầu chuyển động trở lại, xoay tròn xung quanh thanh kiếm và mái tóc, càng ra xa lại chuyển động càng hỗn loạn, không theo một quy luật gì.

Từ mái tóc dài, bắt đầu trôi ra những sợi tóc dài trong nước, mới đầu chỉ là vài sợi lưa thưa, không ngờ càng ngày càng có nhiều tóc trôi theo dòng nước.

Vấn đề ở chỗ tóc không trôi đi hẳn, mà mắc lại hai bên bờ, khiến cho bờ suối toàn tóc là tóc.

Mọi người quyết định vớt tóc ra khỏi suối để duy trì nguồn nước sinh hoạt.

Nhưng vấn đề là tóc vớt lên thì phải xử lý như thế nào? Tóc người vô cùng dai và chắc, chôn xuống đất bao nhiêu năm cũng không phân hủy được, có người đề nghị đem đốt, thế là mọi người làm theo thử.

Không ngờ vừa đốt đống tóc đầu tiên thì có tiếng kêu thét đau đớn vang lên, sau đó là tiếng khóc rên rỉ ai oán, có máu đỏ chảy ra từ trong đống lửa.

Máu bị lửa đốt, bốc lên mùi tanh khét khó ngửi.

Thấy vậy mọi người vội vàng dùng nước dập tắt lửa, từ đó không dám đốt tóc nữa.

Chỉ dám vớt tóc lên rồi chất thành đồng ở rìa ngoài thôn.

Một thời gian sau, có người dân trong thôn đang ăn cơm thì cảm thấy trong miệng có dị vật, nhè ra thì thấy trên lưỡi mình vướng một sợi tóc.

Cho rằng là chuyện bình thường nên bỏ qua, không ngờ vài ngày sau lại gặp tình huống tương tự, có điều lần này nhè ra cả một nhúm tóc.

Chuyện này không chỉ xảy ra với một người, mà lần lượt hết người này đến người khác.

Không biết tóc từ đâu tới mà mọi người đều nhả ra tóc từ miệng.

Dần dần chuyện khạc ra tóc đã không còn là chuyện lạ, đi tới đâu cũng thấy tóc vương vãi do người dân nhổ ra.

Tóc trên mặt đất, tóc vướng trên cây, tóc bay trong gió.

Đi ra khỏi nhà, nếu không thấy có sợi tóc nào bay vướng vào mặt mình thì mới thấy lạ.

Càng ngày tóc càng nhiều, đến cả gió thổi cũng chứa đầy tóc.

Mà người ở càng gần lại càng không nhìn rõ, người ở càng xa thì dễ nhìn toàn cảnh.


Nếu đứng từ xa mà nhìn thì sẽ thấy cả thôn đang bị bao trùm bởi một bầu không khí đen ngòm, được hình thành bởi vô số tóc vất vưởng trong không khí.

Thấm thoát bốn năm trôi qua, hai đứa bé sinh ra vào cái ngày hình thành dòng suối tóc đều đã lên bốn tuổi.

Lúc này tóc đã được thôn dân vớt lên chất thành từng núi lớn, san sát nhau bao quanh nơi này.

Một ngày nọ, có một lão già chừng sáu mươi tuổi, rẽ tóc mà bước vào nơi ở của dân thôn Ô Hợp, có ai hỏi thì tự xưng là Tiêu Ảnh Tử.

Lão già này cứ thế bước theo con suối, đến trung tâm, nơi có mái tóc lững lờ trong nước và thanh kiếm vẫn đang cắm vào mặt đá trắng, nước chuyển động hỗn loạn xung quanh, lão đứng trâm tư một lúc lâu nhìn ngắm cảnh tượng này.

Lát sau, trưởng thôn nghe nói có người lạ vào thôn thì tiến đến hỏi chuyện.

Lão già Tiêu Ảnh Tử không thèm đáp lời, chỉ trầm giọng hỏi một câu không liên quan: “Dân trong thôn các ông, đã bao lâu rồi, không bước chân ra khỏi mấy cái núi tóc ngoài kia?”
Trưởng thôn ngơ ngác rồi đáp: “Cũng khoảng bốn năm rồi.”
Tiêu Ảnh Tử thở dài: “Bốn năm qua, hai đứa trẻ đã phải sống cô quạnh một thời gian khá dài.”
Trưởng thôn không hiểu: “Ông đang nói chuyện gì vậy?”
Tiêu Ảnh Tử vẫn không chú ý đến trưởng thôn, chỉ tay về phía thanh kiếm: “Thanh kiếm đó tên là Sát Đế, là thượng cổ thần kiếm, được sử dụng bởi Thánh Kiếm Uyển Kha.”
Rồi Tiêu Ảnh Tử chỉ tay về phía mái tóc: “Đó là mái tóc của đại yêu quái Ly Cơ, cách đây ba trăm năm, Uyển Kha và Ly Cơ đã quyết đấu một trận sinh tử ngay tại nơi này.

Cả hai đánh nhau bảy ngày bảy đêm không ngừng nghỉ, cuối cùng Uyển Kha dùng kiếm chặt phăng được mái tóc của Ly Cơ, là cội nguồn sức mạnh của đại yêu quái, nhưng bản thân ông cũng bị Ly Cơ moi tim ra.

Uyển Kha dù sao cũng là người thường, bị móc mất tim thì chết, còn Ly Cơ bị cắt mất mái tóc thì mất đi yêu lực nhưng không chết.

Có điều thần phách của Uyển Kha vẫn trú ngụ trong thanh kiếm của mình để trấn giữ Ly Cơ ở đây.

Về sau, có vị đại sư phong thủy đã bỏ công sức và tâm huyết xây dựng nên thôn này và đặt tên là Thôn Bát Quái.

Vị đại sư muốn dùng linh lực của trận đồ và dương khí của con người, cùng thanh kiếm Sát Đế làm mắt dương phong ấn mái tóc của Ly Cơ ở mắt âm.

Cách đây gần trăm năm, thổ phỉ lan tràn ở chân núi Cảnh Dương khiến Thôn Bát Quái trở nên hoang phế, nhưng sau đó thổ phỉ cũng dần bị dẹp loạn.

Các tiền bối của ông tình cờ đến thôn này, gọi nó là thôn Ô Hợp vì chứa nhiều loại người khác nhau, cùng sống cho đến tận bây giờ.”
Trưởng thôn lắng nghe mà không biết nói gì, vì thôn không có ghi chép gì về gốc gác, đây là lần đầu tiên ông được nghe một người lạ từ bên ngoài đến kể rõ ràng rành mạch như thế.

Tiêu Ảnh Tử ngừng một lúc để lấy hơi rồi nói tiếp: “Các linh vật trong thế gian thường cứ mỗi chu kỳ ba trăm năm sẽ sụt giảm linh khí về hư vô một giai đoạn, rồi sẽ tích tụ lại linh khí của trời đất để đạt lại sức mạnh như ban đầu.

Sát Đế đã tới giai đoạn của chu kỳ ba trăm năm, không còn trấn giữ được mái tóc của Ly Cơ nữa, nên yêu lực của Ly Cơ bắt đầu trỗi dậy tác oai tác quái.

Thần phách của Uyển Kha trong thanh kiếm đành đầu thai vào hậu kiếp để có thể tiếp tục tâm niệm đối phó với Ly Cơ, chính là đứa bé trai duy nhất trong thôn.

Còn Ly Cơ cũng làm hành động tương tự, chính là đứa bé gái duy nhất trong thôn.”
Trưởng thôn lắc đầu: “Ông nói con bé gái ấy là đại yêu quái à? Thường ngày tôi thấy nó vẫn chơi đùa như một đứa trẻ bình thường thôi mà.”
Tiêu Ảnh Tử chớp mắt một cái: “Ông đi gọi chúng tới đây.”
Trưởng thôn chạy đi một lúc thì quay lại dẫn theo một đứa bé trai tầm bốn tuổi, mặt mũi tinh anh sáng sủa, hấp tấp nói: “Không thấy con bé kia đâu.”
Tiêu Ảnh Tử cầm tay đứa bé trai, dẫn nó lội xuống nước, đến bên cạnh thanh kiếm, bảo nó: “Con rút ra đi, nó là kiếm của con.” Rồi phụ một tay, giúp đứa bé rút thanh kiếm lên.


Thật kỳ lạ, thanh kiếm này trước đây, từng có thôn dân liều lĩnh đến gần, muốn lấy nó ra khỏi đá mà không được, thế mà đứa bé trai có thể nhẹ nhàng nhấc nó lên.

Tiêu Ảnh Tử dẫn bé trai ra khỏi mặt nước, nói với trưởng thôn: “Ta phải dẫn nó đi, dạy dỗ nó, dù sao ở kiếp này nó chỉ là một đứa trẻ bình thường, cần phải được dạy dỗ nên người.”
Trưởng thôn xua tay: “Không được, chúng ta đâu biết ông là ai, hơn nữa phải đợi gặp cha mẹ của nó hỏi ý kiến đã.”
Tiêu Ảnh Tử gật đầu: “Được, vậy ông gọi cha mẹ nó và mọi người ra khỏi đầu thôn, tới đó ta sẽ kể tiếp một bí mật khác nữa.” Dứt lời Tiêu Ảnh Tử đã cất bước, nắm tay bé trai dẫn đi.

Trưởng thôn trở nên bối rối, không suy nghĩ được gì, chỉ có thể rảo bước theo sau, vừa đi vừa gọi mọi người trên đường đi theo.

Thấm thoát đã ra đến cổng thôn.

Trưởng thôn lúc này đã dẫn theo rất đông thôn dân, cất tiếng hỏi: “Ông muốn kể bí mật gì thì nói ra đi.”
Tiêu Ảnh Tử không đáp, chậm rãi băng qua khối núi tóc, ra đến bên ngoài thì cúi xuống, thắp lên một ngón nến đỏ trên nền đất, đoạn cắt ngón tay bé trai nhỏ một giọt máu đỏ chạy dọc xuống theo thân nến.

Lúc này cha mẹ của đứa trẻ cũng đã tới, hoảng hồn chạy về phía Tiêu Ảnh Tử, nét mặt giận dữ quát lên: “Ông già, ngươi điên rồi à?”
Nhưng vừa vượt qua khỏi núi tóc, đến gần Tiêu Ảnh Tử, thì hai người bỗng chốc hóa thành những vụn tóc, tan thành tro bụi.

Tiêu Ảnh Tử cất giọng nói lớn: “Tất cả các người từ cách đây bốn năm đã bị đại yêu quái Ly Cơ hấp thu da thịt xương cốt, rồi dùng tóc của ả để điều khiển thần phách, dùng yêu lực của mái tóc duy trì nhục thể con người của các ngươi.

Chỉ có hai đứa trẻ duy nhất trong thôn là chuyển kiếp của Thánh Kiếm Uyển Kha và đại yêu quái Ly Cơ là vẫn tồn tại dưới dạng chân thể thực sự của con người.

Trên mặt đất là Thuần Dương Đăng, chỉ cần các ngươi bước ra khỏi thôn, ngọn đèn này sẽ giúp các ngươi thoát khỏi yêu lực khống chế, đưa thần phách các ngươi về địa phủ để đầu thai qua một kiếp người mới, tất cả cùng tiến tới đây đi.”
Nói rồi, Tiêu Ảnh Tử hất mạnh tay, dùng kình lực cách không, kéo cả dòng người đông đúc về phía Thuần Dương Đăng.

Dòng người tràn tới đâu thì hóa thành tóc vụn tới đó, rồi cũng tan thành tro bụi.

Giữa chừng, dòng người đột nhiên khựng lại như bị một lực đối kháng rất mạnh giữ chặt.

Trong dòng người, thấp thoáng một bé gái chừng bốn tuổi, khuôn mặt không chút biểu cảm, nét mặt lạnh lùng, giơ bàn tay giữ trước mặt.

Chỉ thế thôi đã giữ yên được cả dòng người không động đậy.

Tiêu Ảnh Tử nhìn thấy đứa bé, thì quệt lấy một giọt máu từ vết thương vừa nãy của đứa bé trai, búng về phía bé gái.

Đứa bé gái không thèm tránh né, cứ đứng yên chờ đợi, nào ngờ khi giọt máu búng tới gần thì tăng vọt cả về tốc độ và kình lực, trong khóe mắt bé gái thoáng qua một nét kinh ngạc nhưng không thể tránh kịp, giọt máu bắn trúng ấn đường đứa bé, hất văng nó ra sau.

Mất đi sự khống chế, cả dòng người tiếp tục bị kéo về Thuần Dương Đăng, lần lượt hóa thành tro tóc vụn hết thảy.

Khi đã không còn ai, Tiêu Ảnh Tử nắm tay bé trai quay lưng bỏ đi, một tay kia hất Thuần Dương Đăng bay ngược vào trong thôn.

Ngọn lửa thuần dương gặp yêu lực tràn ngập thì bốc cháy mạnh mẽ, các sợi tóc trong không khí bén lửa nhanh chóng, cháy lan tràn khắp nơi, dần dần thiêu đốt cả một thôn làng rộng lớn.

Thôn Ô Hợp xem như đã không còn tồn tại nữa, chỉ là trong đám lửa cháy rừng rực, đứa bé gái lại hiện ra, nhìn theo lão già và đứa trẻ đang dần rời xa, trên mặt thoáng mỉm cười một cái, rất khẽ.




Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận