[HUNGARY]
Tới Budapest ngắm dòng sông Danube
Dòng sông Danube nhìn từ trên cao
TUY KHÔNG CÓ LỊCH chính thức là sẽ đi Budapest trong chuyến hành trình qua Áo của mình nhưng để “chuộc tội” vì đã không làm hướng dẫn viên cho tôi trong ngày ở Áo nên anh bạn quí hóa đã mua vé đưa tôi tới Budapest – thủ đô kiều diễm của Hungary và là viên ngọc quý của Danube, nơi có những cây cầu xinh xinh nối hai bờ Buda và Pest với nhau.
Chúng tôi tớt Budapest vào một ngày nắng đẹp và trong veo, khi vừa bước chân ra nhà ga và đi thẳng trục đường chính để tới cây cầu Erzsébet, tôi đã bị hớp hồn bởi vẻ đẹp cổ kính mà lộng lẫy của những tòa nhà hai bên đường. Toàn bộ kiến trúc của thành phố là sự kết hợp hài hòa giữa các tòa nhà hiện đại của một thành phố trẻ với những dinh thự lộng lẫy, những thánh đường nguy nga và những kiến trúc La Mã còn sót lại Những kiến trúc đẹp nhất của thành phố này đều nằm dọc theo hai bên dòng Danube. Có lẽ nhờ dòng sông xanh và những kiến trúc độc đáo này mà Budapest trở thành một điểm đến hấp dẫn nhiều du khách.
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến là đỉnh đồi Gellert với độ cao 235m, được gọi theo tên vị thánh tử vì đạo Gellert – người đã truyền bá đạo Thiên chúa vào Hungary ở thế kỷ X. Ở dưới chân đồi, những bức tường thành bằng đá kiên cố vẫn còn đọng lại lớp băng của những ngày mùa đông. Đường lên đỉnh đồi có những hàng cây rất đẹp và những tảng đá lớn nằm trơ trọi khiến khung cảnh nên thơ và lòng tôi bình yên hơn bao giờ hết. Phía trên đỉnh đồi là bức tượng Nữ thần Tự do đang giơ hai tay nâng cao cành cọ, đó cũng là biểu tượng của chiến thắng và tự do. Từ phía trên cao này, người ta có thể nhìn thấy Đồi Lâu đài (Castle Hill) và toàn bộ khung cảnh phía bên dưới dòng sông Danube.
Từ phía trên đỉnh đồi Gellert đi xuống, tôi ngước nhìn lên phía trên và thấy Đồi Lâu đài thật đẹp nên lại quyết định leo lên. Đây là nơi ở của các triều đại vua chúa Hungary. Tại đây, vẫn còn những di tích cổ xưa và rất nhiều đá gạch in đậm dấu vết thời gian. Khu di tích này gồm Cung điện Hoàng gia Hungary khởi công xây dựng vào giữa thế kỷ XIII, Nhà thờ Mátyás mang tên vị vua hùng mạnh và anh minh bậc nhất trong lịch sử đất nước này. Thư viện Quốc gia Hungary cùng hàng loạt bảo tàng và khu triển lãm.
Đứng ở phía trên này, người ta có thể nhìn ra ngã rẽ của dòng sông Danube khi chia thành hai nhánh. Là con sông dài thứ hai của Châu Âu và chảy qua nhiều nước khác nhau như Đức, Slovakia, Áo… nhưng có lẽ không khúc sông nào có thể sánh với đoạn chảy qua Budapest.
Trời đã xế chiều, chúng tôi băng qua cây cầu Széchenyi với tên gọi tiếng Việt là cầu Xích. Đây cũng là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Danube, đồng thời cũng là cây cầu nổi tiếng và đẹp nhất ở Budapest. Với những dải treo bằng sắt tựa như chuỗi xích khổng lồ, Széchenyi nối Quảng trường Roosevelt của Pest với Quảng trường Adam Clark của Buda. Ngay ở đầu cầu, người ta đã thấy bức tượng con sư tử không có lưỡi, anh chụp cho tôi bức hình làm kỉ niệm và trêu: “Sau này xem lại ảnh, xem sư tử và em, ai xinh hơn” rồi sau đó bế tôi lên trên thành cầu để chụp hình làm kỉ niệm trong khi tôi xấu hổ đỏ cả mặt khi thấy người đi đường cứ nhìn qua nhìn lại. Có lẽ trông mặt tôi lúc đó ngố kinh khủng nhưng anh thì mặc kệ, miễn sao anh có thể chộp được những tấm hình đẹp nhất để tôi có “của hồi môn” cho con cháu sau này.
Khi đứng trên cây cầu và nhìn ra phía xa, tôi bảo anh: “Ở đây, ai muốn tự tử thì chỉ cần nhảy xuống dòng sông, dòng nước xoáy rất mạnh.” Lời nói vô tình ấy của tôi khi đó không hề có dụng ý nào, nhưng khi về và kể cho cô bạn đồng nghiệp nghe, tôi mới biết rằng, khi xưa, người khắc bức tượng sư tử ở trên cây cầu này cũng đã nhảy xuống sông Danube tự tử khi người ta chế giễu ông rằng con sư tử không có lưỡi (thật ra nếu để ý kĩ thì sư tử vẫn có lưỡi, chỉ có điều bức tượng này được đặt rất cao nên người ta khó có thể nhìn thấy lưỡi của nó).
Khi chúng tôi băng qua cây cầu, hoàng hôn đã bắt đầu buông xuống. Ngước nhìn lên tòa lâu đài và ngắm nhìn ánh đèn điện phía trên cao, tôi thấy một Budapest lung linh huyền ảo. Chúng tôi dừng lại ở Tòa nhà Quốc hội bên sông Danube. Đây là một trong những tòa nhà cổ kính nhất Châu Âu và lớn nhất thế giới với chiều dài 268m được xây theo kiến trúc Gothic. Tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy tòa nhà này chẳng khác gì nhiều so với Tòa nhà Quốc hội ở London mà tôi đã tới cách đó vài tháng. Mãi sau này, tôi mới biết rằng tòa nhà này được phỏng theo nguyên bản của Tòa nhà Quốc hội ở London. Trên dòng sông Danube, người ta thấy bóng của tòa nhà soi trên mặt nước, nhưng lối đi chính thì không nằm ở đó mà nằm ở bên hông quảng trường. Tôi chiêm ngưỡng vẻ đẹp về đêm của một công trình kiến trúc đặc trưng của mọi thời đại và đã trở thành một trong những Di sản văn hóa của nhân loại. Chắc hẳn, người dân Hungary phải rất hãnh diện vì đã lưu giữ được một kiến trúc kiêu hãnh, hùng vĩ mà vẫn mang đậm phong cách cổ xưa như thế này.
Một góc kiến trúc của lâu đài Castle Hill
Trời đã bắt đầu tối, hai anh em đi dạo trên những đại lộ rộng lớn và sạch sẽ với những cửa hàng lớn nhỏ nằm hai bên đường. Mà nói đến phố xá Budapest, phải nhắc đến đại lộ Andrássy nằm ở trung tâm thủ đô (phía bên Pest). Hai bên đại lộ này là những quán cà phê, những viện bảo tàng, còn phía cuối đại lộ là Quảng trường “Những người anh hùng” được xây dựng đầu thế kỷ XX với những bức tượng của các thủ lĩnh lập quốc Hungary và các anh hùng, các vị vua lớn trong lịch sử đất nước này. Tôi ghé vào một cửa hiệu bán đồ lưu niệm nhỏ bên đường và được anh tặng luôn một chiếc khung ảnh một bên là hình chiếc cầu Xích và một bên tôi có thể gắn bức hình của tôi vào để làm kỉ niệm trong chuyến đi này. Chúng tôi lang thang trong cái lạnh ban đêm và những cơn gió mát lành thổi từ sông vào. Dù có lạnh đến đâu, tôi vẫn muốn ra sông để ngắm lại đồi Lâu đài và những cây cầu lung linh huyền ảo giữa màn đêm. Anh lấy chiếc máy ảnh của mình và cố chụp lại những khoảnh khắc đẹp trong đêm của Budapest nhưng những tấm hình vẫn không được ưng ý. Tôi đã nói với anh rằng có những khoảnh khắc mà người ta chỉ có thể ghi lại vào kí ức mỗi khi nhớ về nó chứ không thể lưu hết lại vào trong máy ảnh hay trong những bức hình được. Dường như hiểu được điều đó nên anh cũng buông máy và tận hưởng khoảnh khắc dịu dàng đó.
Tôi không quá khó khăn khi nói lời tạm biệt Hungary bởi tôi biết hành trang tôi mang trở về là rất nhiều kỉ niệm về một hòn ngọc của dòng sông Danube xanh ngắt, một thành phố yêu kiều mà cổ điển, mang trong mình vẻ đẹp của cả phương Đông và phương Tây. Có lẽ, người ta đã không quá lời khi gọi Budapest là Paris Phía Đông, còn tôi, tôi gọi Budapest bằng một cái tên thật trìu mến: Dòng sông xanh.
Sau này trong lá thư gửi cho một nửa yêu thương của mình, tôi đã viết: “Nếu được chọn một nơi nào đó để cùng anh ngắm hoàng hôn châu Âu, em sẽ chọn Budapest. Có thể Budapest không đẹp so với Paris, London, Vienna hay bất cứ một nơi nào khác mà em đã từng đặt chân qua, nhưng Budapest đã cho em những khoảnh khắc rất riêng trong cuộc đời mà em biết có lẽ sẽ còn rất lâu sau nữa em mới có thể tìm lại được… Em yêu Budapest không phải bằng thứ ‘tình yêu sét đánh’, càng không phải bằng thứ tình yêu đã được thời gian trải nghiệm… Em yêu Budapest bằng một tình yêu không lời…”
[LUXEMBOURG]
Lang thang Luxembourg
Khu phố mua sắm trong trung tâm thành phố
KHI ĐỌC TRÊN MỘT TỜ BÁO mạng, người ta liệt kê ra 10 lý do nên đến Luxembourg, trong đó có lý do Luxembourg là thủ đô văn hóa, có lâu đài ở khắp mọi nơi, có Echternacht – thành phố cổ kính, có rượu ngon, có những nhà hàng đẳng cấp thế giới… Đọc đến đó, tôi đã dừng lại và nghĩ tới chuyến đi của mình hồi cuối tháng Sáu năm 2010.
Có lẽ, nên bắt đầu bằng việc “chê” một cái gì đó ở Đại Công Quốc này trước chăng? Đó là lần đầu tiên Jean Paul lái xe đưa tôi và Quỳnh Nga tới Luxembourg. Xuất phát từ Cologne, đi qua Bỉ và dừng lại ở Luxembourg. Việc đầu tiên chúng tôi làm là đi ăn vì bụng đã sôi sùng sục. Nhìn thấy một nhà hàng châu Á, chúng tôi bước vào. Tôi thề tôi không phải là người nấu ăn ngon nhưng tôi cũng chưa bao giờ ăn món phở nào dở như ở đây, không có rau, chỉ có một cọng hành và ba miếng thịt lõm bõm, nước phở chắc chắn là nước luộc thịt gì đó. Nga ngửi xong liền đẩy sang trước mặt tôi và bảo: “Chị ăn đi, em không ăn đâu”, tôi nuốt mãi cũng chỉ được vài ba miếng rồi bỏ đó, anh bạn Jean Paul gọi món thịt vịt thì chủ nhà hàng mang ra món tôm. Nhìn thấy hai đứa chúng tôi không ăn, Jean Paul bảo: “Đưa đây anh thử, có khi bọn em được ăn ngon quá rồi nên giờ chê”. Jean Paul đã về Việt Nam mấy lần và còn là dân ăn phở sành điệu hơn tôi nữa ấy chứ nên khi Nga đẩy bát phở sang, anh chàng vội vàng đẩy ra và bảo “mùi gì mà ghê thế” làm tôi đang đói và tức cũng phải cười ngặt ngẽo. Ông bà chủ nhà người miền Nam thấy chúng tôi bỏ mứa thì hỏi tại sao, nhưng tôi không đủ can đảm nói ra sự thật. Khi rời khỏi nhà hàng tôi thề là sẽ không bao giờ ăn đồ Châu Á ngoài tiệm nữa, sau đó tiến thẳng đến McDonalds ăn lót dạ.
Luxembourg nhỏ bé
Luxembourg là một đất nước nhỏ nhưng giàu có với thu nhập đầu người luôn ở mức cao nhất thế giới. Diện tích chỉ vẻn vẹn 2.568km2, từ Bắc tới Nam chừng 80km, từ Đông sang Tây chừng 50km nhưng đất nước này lại có rất nhiều cơ quan nước ngoài đặt trụ sở và sử dụng cả hai thứ tiếng Đức và Pháp.
Chúng tôi tới Luxembourg vào một ngày đẹp trời và quyết định đi dạo quanh thành phố bằng cách… đi bộ. Bởi lẽ Luxembourg nhỏ bé nên đi bộ là cách tốt nhất để chúng tôi có thể khám phá thành phố.
Do đã đi và được ngắm khá nhiều công trình nổi tiếng ở Châu Âu rồi nên khi tới Luxembourg, tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi ở ngay giữa trung tâm Luxembourg mà lúc nào cũng phải leo lên leo xuống chẳng khác gì… leo núi. Sau một ngày đi bộ rã rời, tôi mới phát hiện ra rằng thành phố này tuy nhỏ nhưng lại được chia ra tới 24 quận, trong đó có những khu vực mà khách du lịch thường xuyên lui tới là khu phố cổ Ville Haute (phố cao), Ville Basse (phố thấp) và khu phố Kirchberg. Tôi cũng bất ngờ không kém khi kiến trúc ở đây không có gì đặc sắc, từ văn phòng thủ tướng cho đến trụ sở của bộ Ngoại giao đều trang trí một cách rất bình thường. Tôi không nhận ra được sự giàu sang ở đất nước này hay bởi Luxembourg quá khiêm tốn? Bởi theo thống kê thì Luxembourg là trung tâm kinh tế của Châu Âu và luôn nằm trong danh sách những đất nước giàu nhất thế giới với tổng thu nhập bình quân đầu người là 80.000 USD mỗi năm.
Cầu đá Đại công tước Adolphe
Luxembourg dường như cố tình “giấu” vẻ đẹp của mình để khách du lịch tự kiếm tìm và phám phá. Khi đứng ở Quảng trường Guillaume nhìn xuống phía dưới, người ta có thể nhìn thấy thung lũng Petusse xanh ngắt với cây, hoa và cỏ, xen kẽ đâu đó là những giọt nắng mùa hạ lấp lánh. Bắc ngang qua thung lũng là cây cầu đá Adolphe khổng lồ với cấu trúc vòm khá đẹp. Cây cầu này nằm giữa trung tâm Luxembourg, là Di sản văn hóa thế giới và từ lâu đã trở thành niềm kiêu hãnh của người dân Luxembourg. Cầu Adolphe được xây dựng từ năm 1900 đến năm 1903, cao 84m do kiến trúc sư Séjourné (người Pháp) và Paul Rodange (người Luxembourg) thiết kế. Từ trên cây cầu này, người ta có thể thấy một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, tôi tưởng tượng ra mùa thu ở đây phải đẹp và lãng mạn lắm khi những chiếc lá xanh, vàng, đỏ hòa quyện vào nhau. Chúng tôi đi xuống phía dưới thung lũng và cảm nhận được sự yên bình toát ra từ thành phố này, cuộc sống thật mộc mạc và dịu dàng, khác xa bầu không khí ồn ào của khách du lịch ở bên trên.
Nhắc đến Luxembourg, lẽ dĩ nhiên người ta không được phép bỏ qua Place d’Armes. Đây là quảng trường chính ở Đại Công quốc Luxembourg, quảng trường này được gọi là nhà khách thành phố. Khác hẳn sự trầm lặng ở thung lũng Petusse, quảng trường này luôn nhộn nhịp bởi khách du lịch với rất nhiều nhà hàng và quán cà phê san sát nhau, người người ngồi uống bia và rượu vang, khung cảnh thành phố nhộn nhịp nhưng dường như tất cả vẫn tuân theo một trật tự vốn đã có sẵn từ lâu. Chúng tôi đến đây đúng vào dịp lễ hội mùa hè của thành phố nên tiếng nhạc được vang lên khắp mọi nơi. Luxembourg lúc ấy trong tôi không bé nhỏ chút nào.
Lang thang ở Luxembourg trong một ngày ngắn ngủi – nơi sự giàu sang được khéo léo giấu nhẹm đi, tôi đã biết được nhiều điều về đất nước nhỏ bé mà không hề bé nhỏ này. Đã đôi lần, tôi tự hỏi tại sao đất nước này nhỏ bé như thế, cũng từng bị xâm chiếm suốt bao nhiêu thế kỉ, cho đến tận Chiến tranh Thế giới lần thứ hai vẫn còn bị xâm chiếm, mà lại có thể hồi phục nhanh và có một tiếng nói quan trọng không chỉ ở Châu Âu mà cả trên toàn thế giới đến vậy. Để lý giải được điều này sẽ mất rất nhiều thời gian nhưng có lẽ những quyết định đúng đắn của chính phủ Luxembourg cũng như phong cách giáo dục và làm việc chính là yếu tố đưa đất nước này đi lên từ nghèo khó. Theo một thống kê về số lượng người nói được hai ngôn ngữ ở Châu Âu thì Luxembourg bé nhỏ chiếm vị trí đầu tiên với 99%. Lúc đó tôi thầm ước: Giá như Việt Nam mình…