Khi trận tuyết đầu mùa rơi xuống, thái hậu truyền ý chỉ, vời chư mệnh phụ vào cung ngắm mai.
Nhất thời, trong ngự uyển vấn vít hương mai, trên điện rúc rích nói cười.
Hoàng hậu mắt điếc tai ngơ, ngắm phong cảnh ngoài rèm thạch anh đến thất thần, thái hậu gọi đến mấy tiếng mới như vừa tỉnh mộng, cáo lỗi: “Thiếp thất thần.”
Thái hậu quan sát nét mặt hoàng hậu – dưới mắt mày thanh lệ hơi thâm, là thần sắc của người trĩu nặng tâm sự.
Đã sớm nghe gần đây đế hậu lục đục, thái hậu bèn cất lời, ngữ điệu có ba phần khích lệ, bảy phần khuyên nhủ: “Chỉ là nữ nhân mà thôi, sao phải mặt nặng mày nhẹ mấy ngày liền như thế, may mà hoàng đế tôn trọng con… Ta nói chứ, dưới gối hoàng đế thưa thớt con nối dõi, con nên thay nó tìm thêm vài người mới mới phải.” Nhìn mấy nương tử trẻ tuổi ngồi bên dưới, thái hậu nói: “Hoàng đế đã đề cập với ta từ lâu, muốn nạp thêm con gái vài thế gia phương Nam, ta cảm thấy cũng được.”
Hoàng hậu cười khổ, “Nếu là con gái thế gia trong sạch thì con còn có thể nói gì, chỉ e ngài ấy nhìn trúng…”
“Thọ Dương công phu nhân tới.” Nội thị tiến lên bẩm báo, âm lượng vừa phải, mọi người trên điện đều ngừng nói cười, đến thái hậu cũng hào hứng quay mặt lại, ánh lướt qua A Tùng và Mậu Hoa rồi cố định ở người trước – váy lụa đỏ thẫm dài quét đất, eo rất nhỏ, váy vóc xếp nếp mớ ba mới bảy đếm không xuể, trên vạt áo và tay áo thêu hoa văn phù dung ngũ sắc, búi tóc vấn cao nghiêng nghiêng, lúc đi đường, chiếc lá vàng trên trâm cài không ngừng lay động như vật sống – bước chân nàng lại vừa nhẹ vừa mau, còn chưa thấy rõ dung mạo, thái hậu đã hoa cả mắt.
“Bái kiến thái hậu, hoàng hậu điện hạ.” A Tùng và Mậu Hoa lần lượt hành lễ.
Giọng nàng giòn giã như hoàng oanh líu lo.
Thái hậu tập trung nhìn kĩ, Hoa Nùng phu nhân trẻ hơn bà tưởng tượng, rành rành là một thiếu nữ xinh đẹp như nụ hoa sắp nở với khuôn mặt tươi tắn hay cười.
Lễ nghi hơi qua loa, nhưng không khiến người ta cảm thấy ngang ngược, trái lại còn có mấy phần ngây thơ hồn nhiên không hề giả tạo.
“Chẳng trách.” Lệnh cung tì dẫn hai người vào chỗ ngồi đằng xa, thái hậu lẩm bẩm.
“Mẫu hậu cũng thấy rồi đó.” Hoàng hậu bực dọc mấy ngày, không nhịn được phàn nàn, “Nguyên Tu đón nó vào hậu cung chưa bao lâu, Kiến Khang đã thất thủ, còn chưa tới Lạc Dương, nó đã làm đầu đường cuối ngõ xôn xao…”
Thái hậu đương nhiên biện bạch thay con trai một câu, “Nhìn tướng mạo nó không phải đứa tâm cơ.” Đưa mắt liếc, thấy cố ý vô tình, ánh mắt mọi người đều mập mờ lia về phía Hoa Nùng phu nhân, bản thân nàng thì lại chẳng biết là trì độn hay mặt dày, vẫn treo nụ cười thản nhiên trên mặt, thưởng thức sắc mai ánh tuyết trong ngự uyển, không buồn để ý đến ai.
Dáng vẻ này của nàng lại khiến thái hậu nhớ đến một người, “Sao Lư thị không tới?”
Hoàng hậu đáp: “Xưa nay tính tình cô ta không hợp với mọi người, còn không nghe không nói được tiếng Hán, không chịu tới.”
Thái hậu không vui, nói: “Tiến cung gần ba năm rồi mà vẫn không hiểu tiếng Hán… Nó tưởng nó hãy còn ở Nhu Nhiên à? Nghe nói nó suốt ngày dạy A Nô nói tiếng Nhu Nhiên?”
Hoàng hậu mỉm cười.
Thái hậu không khỏi lườm hoàng hậu.
Dưới gối hoàng hậu chưa có con cái gì, đến thái hậu cũng phải sốt ruột thay thị, nhưng hoàng hậu vẫn vững như Thái Sơn.
Chẳng ngó ngàng tới hoàng hậu nữa, thái hậu nhìn kĩ phòng tiệc thêm mấy lượt, không khỏi gật đầu nói: “Con gái Giang Nam xinh xẻo thật đấy.”
Mậu Hoa bị đám đông nhìn mà như đứng đống lửa, như ngồi đống than, sau cùng cũng đợi được đến lúc thái hậu nói chuyện với người khác, cô như được đại xá, bưng chén tai lên nhấp một ngụm, lại cau mày chê: “Cay.” Kể từ khi tới Lạc Dương, cô oán thán không ngớt, rượu uống không êm, cơm ăn không ngon, tóm lại, vẫn là Kiến Khang hơn xa mọi bề.
“Tôi thấy Lạc Dương tốt mà,” A Tùng cũng nơm nớp đề phòng, không thấy ai đề nghị làm thơ, nàng mới thầm thở phào một hơi, “Ở đây ngắm hoa không cần làm thơ.”
Mậu Hoa kinh ngạc, nhà họ Đàn mà lại có người không giỏi văn thơ á, “Cô không biết làm thơ à?”
“Không biết,” A Tùng đáp rất thẳng thắn.
Nàng ngắm cảnh mai một hồi, thấy hơi đơn điệu, nhàm chán nhìn cánh hoa mai bị gió thổi tung bên ngoài rèm thạch anh.
“Bệ hạ giá lâm.” Chợt vang lên giọng báo kéo dài, trong tạp âm nghe tựa ngọc vỡ, hoàng đế đi vào, tay áo thùng thình vung lên một trận tuyết bay.
Mọi người vội cúi đầu đứng dậy nghênh đón.
“Toàn nữ nhân cả, con xông vào làm gì?” Thái hậu trách hờ hoàng đế, thấy y cởi áo lông chồn đưa cho nội thị, đành sai người dọn chỗ cho y.
Hoàng đế cười nói: “Có tin vui, đặc biệt đi một chuyến báo cho mẫu thân và hoàng hậu nghe – Mấy ngày trước hạ chiếu phong Nguyên Hồng làm quốc chủ Giang Nam, đám thứ sử nổi loạn ở Nam Dự Châu đều lần lượt dâng thư xin hàng.” Mặc dù Kiến Khang đã hàng nhưng thủy quân một dải Kinh Tương còn sót lại của Nam triều trước sau vẫn là mầm họa trong lòng hoàng đế, bây giờ không đánh mà thắng, tạm thời dẹp yên Giang Nam, hoàng đế thở phào một hơi thật to, “Cuối cùng cũng được yên tĩnh một, hai năm rồi.
Bằng không, trong thời gian ngắn, triều đình thật sự không còn lực Nam chinh nữa.”
“Quả là tin vui ngang trời.” Thái hậu cười đáp, giọng bà không cao, chỉ hai người đế hậu nghe rõ, “Thế bên Dự Châu định phái ai đi làm thứ sử?”
“Vẫn là Đàn Quyên ạ.” Dự Châu trông giữ Kiến Khang, can hệ trọng đại, hoàng đế trầm ngâm, “Con vốn đã hứa cho y chức vị này rồi.”
Thái hậu không hiểu chuyện triều chính cho lắm, chỉ thuận miệng hỏi một câu, nghe vậy hơi nghi hoặc, hỏi: “Vị Võ An công mới phong đợt trước là anh ruột của Đàn Quyên phải không?”
“Vâng.” Hoàng đế lơ đãng bưng trà lên, tầm mắt đảo quanh ghế ngồi bên dưới.
Nội thị tâm phúc đã sớm tìm hiểu trước cho y, lẳng lặng kéo tay áo hoàng đế, chỉ về phía A Tùng.
Nữ nhân ngồi đây đều cụp mắt cúi đầu, chỉ duy A Tùng không mảy may sợ hãi ngẩng mặt, mắt chạm mắt với hoàng đế.
Rèm mi đen tuyền của nàng chớp chớp, sóng mắt khẽ đong đưa, sau đó chậm rãi cúi đầu xuống.
“Hoàng đế hạ chiếu mời Đạo Nhất sư phụ vào kinh đi.” Thái hậu nói.
Thấy hoàng đế không có phản ứng gì, hoàng hậu hiểu rõ trong lòng, nhíu mày một cái rất khó phát hiện, cao giọng gọi: “Bệ hạ.”
Hoàng đế đã sớm hồn xiêu phách lạc, nghe hoàng hậu đanh giọng gọi mới tỉnh hồn lại, y ngơ ngác quay đầu, “Cái gì?” Y loáng thoáng nghe thấy cái tên Đạo Nhất, “Đó là ai?”
Bên dưới có người đánh đổ bình sứ, tiếng vỡ đổ vang lên giòn tan, cung tì vội tiến lên dọn dẹp.
Hoàng đế mượn cơ hội này, tham lam quét mắt qua lại trên mặt A Tùng mấy lượt rồi mới nghiêm mặt hỏi thái hậu: “Ai mà còn phải đặc biệt hạ chiếu mời vào kinh vậy?”
Thái hậu đáp: “Là một vị tăng nhân của chùa Thiên Bảo ở Kiến Khang, nghe nói từ nhỏ thầy đã thông minh nhạy bén, tinh thông Phật lý, hai năm nay thanh danh vang dội ở Lạc Dương, ta cũng muốn được nghe thầy giảng kinh tận tai.”
Thấy hoàng đế vẫn ngơ ngác, hoàng hậu nhắc y: “Đạo Nhất sư phụ chính là con một dưới gối Võ An công đấy.”
“Thì ra là vậy.” Hoàng đế xưa nay phản cảm với tăng nhân, “Nếu là người rũ bỏ bụi trần thì e rằng hắn chỉ muốn nhàn cư trong chùa núi, chuyên tâm tu Phật, sao phải cưỡng ép hắn đến chỗ thế tục ồn ào như Lạc Dương này làm chi?”
Thái hậu nói: “Phập pháp khuyên người hướng thiện, giáo hóa bách tính, có ích mà không gây hại đến giang sơn xã tắc, việc gì mà hoàng đế cứ nhắc đến tăng nhân là như hồng thủy mãnh thú vậy chứ?”
Hễ tranh luận đến đề tài này là không sao dứt được, hoàng đế không muốn chọc thái hậu không vui, bèn gật đầu nói: “Mẫu thân muốn nghe hắn giảng kinh thì triệu hắn vào kinh là được.”
Nhắc đến Đạo Nhất, các mệnh phụ bên dưới đều dỏng tai lên, có vị thái phi góp vui với thái hậu, che miệng cười nói: “Thanh danh của Đạo Nhất sư phụ ở kinh thành đúng là vang dội thật, nhưng thực ra còn vì một duyên cớ khác – nghe nói trước khi xuất gia, thầy là mĩ nam số một ở Kiến Khang, lúc bấy giờ thường được ca tụng là ‘Vệ Giới tái thế’.”
“A di đà Phật,” Thái hậu cười, “Sao có thể khinh nhờn người xuất gia như thế.”
Người xuất gia lộng quyền chơi gái còn ít chắc? Hoàng đế xem thường, tự biết nói câu này ra sẽ lại bị thái hậu nguýt mắt, y buồn chán đứng dậy, nháy mắt với nội thị rồi rời tiệc.
Hoàng đế vừa đi, mọi người lập tức xôn xao bàn tán về Đạo Nhất, càng nói càng thỏa thuê, thái hậu vừa cười vừa cảm thán: “Con cháu thế gia như vậy, tướng mạo nhân phẩm như vậy, mà xuất gia làm tăng quả thực là đáng tiếc.”
Tiếng mọi người nói chuyện ong ong bên tai, chủ đề liên tục xoay quanh Đàn Đạo Nhất, A Tùng nghe mà ngột ngạt cáu kỉnh.
Mậu Hoa nhéo tay nàng dưới bàn, ra hiệu nàng nhìn sang bàn bên.
Cô gái ban nãy đánh đổ bình sứ đã trấn tĩnh lại, một mực trầm mặc trong tiếng bàn tán của mọi người, khuôn mặt thanh nhã mĩ lệ mang nét buồn nhè nhẹ.
“Là Tạ nương tử.” Mậu Hoa tưởng A Tùng không nhận ra, nhỏ giọng nói bên tai nàng.
Tạ Tiện bị áp giải đến Lạc Dương theo Nguyên Tu, toàn bộ Tạ thị đều bị ép chuyển nhà theo.
So với Mậu Hoa mừng rỡ vì gặp được cố nhân, A Tùng chẳng thể hào hứng nổi với bữa tiệc này thêm nữa.
Nàng buông đũa, đứng dậy, dáo dác ngó quanh.
“Phu nhân muốn đi thay y phục ạ?” Có cung tì lẹ mắt, tiến tới, lặng lẽ nắm tay áo A Tùng, “Để nô dẫn phu nhân đi.”
A Tùng bình tĩnh quan sát cung tì mấy lượt, khẽ gật đầu, theo cô ta rời khỏi yến tiệc, đi sang trắc điện.
Nơi này hẳn là chỗ nghỉ ngơi của thái hậu, có giường thấp bình phong, gương đồng tráp phấn, cung tì nói: “Phu nhân ngồi tạm trước ạ.” Đoạn lui ra, trong phòng liền lặng ngắt như tờ.
A Tùng vừa uống rượu, mặt nong nóng, nàng chậm rãi giật giật cổ áo, chợt thấy chóp mũi vương mùi đàn hương thanh đạm xa xăm.
Trên bàn là kinh Phật thái hậu thường xem.
Chỉ có cầu đạo, không có tình dục, tự giữ lấy mình, hành động an ổn, dẫn đầu Phật đạo, cứu muôn chúng sinh – đây là những dòng nàng đã tận mắt thấy Đạo Nhất sao lại ở Huyền Phố.
Đối diện giường thấp là một bàn thờ Phật cao bằng một người, màn che buông rủ, đàn hương bay ra từ chỗ đó.
A Tùng nhón bước đi tới, ngón tay vén màn che, bên trong thờ một pho tượng Phật thanh tú mày dài mắt híp, áo rộng đai mỏng, được bao bọc trong hương khói trắng mờ.
Có người từ sau lưng ôm chầm lấy nàng, khẽ giọng cười nói bên tai nàng: “Nhìn trộm sinh hoạt của thái hậu, nàng to gan thế cơ à?”
A Tùng thốt nhiên buông màn, xoay người lùi ra sau một bước, thấy người tới chính là vị hoàng đế rời đi trước mọi người.
Áo lông của y chẳng biết đã ném đi đâu, trên người là bộ áo dài tay hẹp.
Người Bắc triều ăn mặc từa tựa người Hồ, càng toát lên dáng vẻ cao lớn cường tráng của đàn ông.
A Tùng ra vẻ kinh hãi, cuống quít hạ bái, “Bệ hạ…”
Hoàng đế tóm lấy cổ tay A Tùng, kéo nàng tới trước mặt, thưởng thức gương mặt ửng màu hoa sen của nàng, hoàng đế cười bảo: “Nghe nói Nguyên Tu gặp nàng trên sông Tần Hoài, có gió hoa lay động, trăng sáng gột sóng, Nguyên Tu còn tưởng nàng là hoa yêu biến hình.”
A Tùng nhanh chóng ổn định nhịp tim.
Đây là lần đầu tiên nàng được quan sát Hoàn Doãn trong gang tấc – nàng cảm thấy trông y không đáng ghét lắm, thậm chí còn hơi khiến nàng liên tưởng đến Tiết Hoàn – môi nàng bèn nhoẻn nụ cười kiêu ngạo ung dung, đẩy nhẹ hoàng đế ra, A Tùng vuốt cổ áo, lơ đãng liếc ra ngoài, “Ngoài trời sáng sủa chói chang, bệ hạ cũng hoa mắt ư?”
Hoàng đế buông tay A Tùng, ngồi vào bàn, bưng chén trà nguội lên, ánh mắt tủm tỉm lưu luyến trên người A Tùng, “Không hoa mắt.
Ta thấy rất rõ, nàng không phải hoa yêu, là người.” Y ngồi ngay ngắn, ánh mắt lại ngả ngớn, “Là mĩ nhân sắc nước hương trời.”
A Tùng yếu ớt nói: “Phàn tướng quân nói, bệ hạ đã chính miệng hạ lệnh bắt thiếp đến Lạc Dương thỉnh tội, thiếp đã thỉnh tội xong, có thể thả thiếp trở về Kiến Khang không ạ?”
Hoàng đế kéo A Tùng ngồi lên đùi mình, cười nói: “Không.”
A Tùng cản tay y, “Đây là chỗ của thái hậu.”
“Bên ngoài có người canh chừng, không ai dám xông vào.” Hoàng đế bị nàng khước từ nửa thật nửa giả, lòng càng ngứa ngáy hơn, y ngửi một hơi thật sâu bên gáy nàng, “Chỗ này không được? Vậy đi chỗ ta?”
“Thiếp là phu nhân của Thọ Dương công.”
Hoàng đế hừ lạnh, “Ta nói hắn là Thọ Dương công thì hắn là Thọ Dương công, ta nói hắn là tù nhân thì hắn là tù nhân,” Véo nhẹ cằm A Tùng, y đùa, “Sao, nàng muốn thủ trinh với hắn?”
A Tùng quay mặt đi, hất tay hoàng đế ra, váy áo đong đưa, nàng xoay người lui khỏi đùi hoàng đế sang một bên, cười mím chi nói: “Ai cũng bảo thiếp là kẻ xui xẻo, thiếp cũng không dám làm hại bệ hạ bị triều thần công kích.” Đoạn cúi chào hoàng đế rồi nhanh nhẹn đi ra ngoài.
Hoàng đế nhìn bóng lưng kiều diễm của nàng, có phần nóng nảy, không nhịn được uống mấy ngụm trà nguội, mồm miệng lại càng khô hơn.
Ngồi một lúc lâu, y cười giễu, lẩm bẩm: “Nhử ta à?” Lắc đầu, y cũng giẫm lên cánh mai rời khỏi ngự uyển..