Tuy tân hôn, song hiển nhiên Tiết Hoàn không có thời gian nhàn tản trêu gió ghẹo trăng với A Tùng.
Tiễn Đàn Đạo Nhất xong, đến cổng nhà hắn cũng không vào, trực tiếp trở về cung thành.
Nhà họ Tiết không dư dả, nhưng Tiết Hoàn cũng không bạc đãi quả phụ của Nguyên Tu, máy vá giặt hồ có vú già đỡ việc nặng lo liệu, A Tùng lẻ loi đứng một mình trước cổng nhìn đám trẻ con nhà bên ngắt cành liễu một hồi.
Chúng dùng cành làm roi ngựa, hò hét nhau chạy lăng xăng.
Đi thăm A Nô đi.
Nàng nghĩ.
A Nô đã lớn hơn, trở thành một cậu bé thân thể khỏe mạnh, ý chí kiên định.
Khuyết thiếu mẫu thân cũng chẳng tạo thành bất kì một ám ảnh gì cho tâm hồn bé bỏng của cậu.
A Tùng đang đỡ A Nô lên một con ngựa nhỏ hiền lành thì thấy quan viên Lễ bộ vào điện bái kiến thái hậu.
Lúc Lư phu nhân mới mất, để trấn an Nhu Nhiên, hoàng đế đã hứa hẹn sẽ phong vương cho đại hoàng tử.
Lễ bộ tuân lệnh chuẩn bị, nước đến chân rồi mới nhớ ra vẫn chưa đặt tên cho đại hoàng tử, đi hỏi hoàng đế thì hoàng đế bận bịu chiến sự Ung Châu, không rảnh quan tâm chuyện khác, nói: A Nô do thái hậu nuôi nấng, mời thái hậu chọn đi.
Thái hậu đã lớn tuổi, nheo mắt xem đi xem lại mấy chữ Lễ bộ chọn ra mấy lượt rồi đẩy ra, nói: “Ta cũng không hiểu mấy việc này, không quyết định được, đã là Lễ bộ chọn thì hẳn đều không tệ…”
Chớp mắt đã thấy A Nô xáp lại trước mặt, thái hậu thương yêu xoa xoa má cậu, cười bảo: “A Nô xem thử xem lấy tên nào thì được?”
A Nô chưa tròn bốn tuổi, nào đã biết cái gì, chỉ thò ngón tay nhỏ bé tùy ý chọc chọc vết mực trên giấy.
A Tùng cũng hào hứng ngó thử, tuy nàng từng ôm thi tập khổ đọc mấy ngày, nhưng tối đa cũng chỉ có thể coi là biết chữ sơ sơ, tên Lễ bộ chọn cho hoàng tử đều rối rắm khó hiểu, nét bút lại nhiều.
A Tùng xem nửa ngày, thấy trong góc có một chữ Tuấn 骏, trong đó có chữ Mã 马mà nàng biết.
A Tùng thích ngựa, bèn lén chỉ chữ Tuấn cho A Nô.
A Nô xưa nay tâm ý tương thông với nàng, lập tức kiên quyết gật đầu, tuyên bố: “Chữ này được.”
Thái hậu chẳng để tâm lời trẻ con của cậu, nói với người của Lễ bộ: “Các ngươi quyết định đi.” Nhẹ nhàng đẩy A Nô ra, ra hiệu cung tì dẫn cậu ra ngoài rồi, thái hậu mới cau mày, nói: “A Nô cái gì cũng tốt, ta chỉ cảm thấy tính tình nó quá lỗ mãng, hơi giống mẹ đẻ nó, các ngươi phải nghĩ cho nó một cái tên ôn hòa kính cẩn, an phận độ lượng, phải tránh phô trương.
Tuy nó được phong vương sớm nhất nhưng cũng đã định trước về sau chỉ là thần tử, nên lấy trung quân phụng quốc làm trọng.” Nghĩ đến thân thế của A Nô, đến sự xem thường của hoàng đế, thái hậu không đành lòng, lại nghiêm mặt, “Nhưng không thể tù túng quá mà khiến người ta coi thường nó vì xuất thân của nó được.”
Thái hậu ân cần căn dặn, người của Lễ bộ lại càng thêm không biết làm sao, đành cười góp nói: “Vâng, để thần nghĩ thêm.”
Mới nói hai câu thì cung tì đi vào, bẩm báo: “Hoàng hậu có việc muốn bàn bạc với Tân Nghi Tào ạ.”
Hoàng hậu sắp tới kì sinh nở, thị muốn truyền người, thái hậu đương nhiên không dám gây trễ nải, vội dừng lời, nói: “Tân Nghi Tào đi gặp hoàng hậu đi.”
Tân Nghi Tào bèn đi theo cung tì, đợi mọi người trên điện giải tán bớt rồi, thái hậu mới hạ giọng hỏi cung tì: “Hoàng hậu lại gặp ác mộng à?”
Trước đây hoàng hậu không tin Phật, nhưng suốt thai kì lại thường xuyên khổ sở vì ác mộng, thái y không dám dùng thuốc, bèn tiến cử Tân Nghi Tào tinh thông Phật pháp đi giảng kinh an thần cho thị.
Hồi ấy dưới cơn nóng giận, hoàng đế đã cấm tiệt ba ngàn chùa chiền, thế nên mọi người không dám gióng trống khua chiêng, lần nào cũng giấu giấu giếm giếm tìm cớ truyền Tân Nghi Tào đi.
Thái hậu lo lắng, “Liên tục gặp ác mộng, kể cũng hơi lạ đấy, nếu quả thực có tà ma quấy nhiễu thì phải mời cao nhân thi pháp mới được.”
“Sợ phạm phải điều kị của bệ hạ,” Cung tì dè dặt đáp, “Hoàng hậu cũng không muốn làm ầm làm ĩ khiến mọi người biết…”
Hoàng hậu là người cẩn thận, mấy ngày nay chỉ sợ cũng chịu nhiều gian khổ.
Thái hậu gật đầu nói: “Tân Nghi Tào cao tuổi rồi, cũng không phải sợ lời đàm tiếu, đổi thành Đạo Nhất hòa thượng ngày xưa thì chẳng biết sẽ xảy ra bao nhiêu rắc rối nữa? Chỉ tội cho con gái của ta…” Tức thì nước mắt giàn giụa, cung tì vội vã khuyên nhủ hết lời.
Tinh thần thái hậu không tốt, được cung tì dìu đi, trong điện lặng ngắt như tờ, chỉ còn A Tùng lặng lẽ đứng đó.
Nàng đi ra hiên, dùng quạt lụa che ánh nắng vàng chói mắt, nhìn A Nô quật cường đẩy cung tì ra, loạng chòa loạng choạng lên lưng ngựa, nỗ lực cầm cương ngựa lên.
“A Tùng, dì!” A Nô dò dẫm đi mấy vòng trước điện, hài lòng nhảy xuống ngựa, chạy tới trước mặt A Tùng.
Nét anh tuấn đã manh nha trên gương mặt cậu, nụ cười tươi rói hớn hở của cậu luôn khiến A Tùng cảm thấy quen thuộc và thân thiết từ tận đáy lòng – tướng mạo cậu đương nhiên di truyền từ Hoàn Doãn, nhưng Hoàn Doãn khi đắc ý lại khiến người ta chán ghét.
A Tùng suy ngẫm một hồi, không ra được chút manh mối nào, bèn nắm lấy bàn tay nhỏ mướt mát mồ hôi của A Nô, tít mắt cười: “A Nô, con sắp làm đại vương rồi!”
“Đại vương?” A Nô vung vẩy cây roi ngựa nhỏ, oai phong lẫm liệt, “Con làm đại vương, A Tùng làm hoàng hậu ạ?”
Trong nhận thức của A Nô, nữ nhân cao quý nhất trong cung đương nhiên là hoàng hậu.
A Tùng phì cười, “Chỉ bằng con mà cũng đòi phong hoàng hậu á?”
A Nô ưỡn ngực, “Dì đợi con làm hoàng đế đi!”
“Xuỵt.” A Tùng dựng thẳng ngón tay đặt trước môi, ôm A Nô vào lòng.
A Nô ngoan ngoãn tựa vào nàng một lúc, rất nhanh đã không nhịn được, vóc người còn chưa trưởng thành của cậu dường như tràn trề sức lực đấu tranh muốn bật ra.
Kéo tay A Tùng ra, cậu lại chạy về phía con ngựa nhỏ của mình.
Cậu cất cao giọng gầm thét dưới mặt trời, chẳng biết khiếp đảm là gì.
Trong cơ thể cậu có dòng máu cao quý nhất của người Nhu Nhiên.
Nhưng đến một cái tên oai phong hiển hách cậu cũng không xứng có.
Nghĩ đến những lời thái hậu nói về chuyện đặt tên cho A Nô, lòng A Tùng xót xa từng chặp, nàng cắn nhẹ cánh môi đỏ thắm.
Lãng phí nửa ngày ở chỗ thái hậu rồi, hoàng hôn dần buông xuống, A Tùng cáo từ rời cung, lại đứng ở cửa cung trông mong đợi như bữa trước
Quan viên tan trực lần lượt đi ngang qua, còn chưa thấy Tiết Hoàn đâu thì gặp bóng lưng một ông già kéo dài dưới ánh chiều tà.
Đi đến trước mặt A Tùng, ông già dừng bước, A Tùng buông quạt lụa che trước trán xuống, liếc lão ta, không quá xác định.
“Tân Nghi Tào.” Lúc ở chỗ thái hậu, ông già cúi đầu phục tùng, không bắt mắt lắm, A Tùng mất một lúc mới nhận ra.
“Nghe nói Tiết tướng quân bị bệ hạ triệu đi rồi,” Ông già rất hòa nhã với A Tùng, “Phu nhân đừng chờ nữa.”
“Ông…” A Tùng tuy tự phụ rằng dung mạo của mình nổi danh thiên hạ, nhưng gặp một ông già xa lạ đột nhiên xuất hiện tỏ ra thân thiết như vậy, nàng lập tức cảnh giác.
Tân Nghi Tào lớn tuổi, đi một đường ra đây đã hơi đổ mồ hôi, bèn tháo mão quan xuống gỡ mái tóc rối bù.
A Tùng sững sờ, thất thanh kêu: “Là ông!”
Hèn chi hoàng hậu lại mời lão ta đi giảng kinh, lão già Huyền Tố giả thần giả quỷ đổi sang quan bào, ngậm chặt cái miệng lảm nhảm dông dài, hiển nhiên đã thành thạo với đạo sinh tồn trong quan trường Lạc Dương.
“A di đà Phật,” Tân Nghi Tào cười nói, “Tục gia của tại hạ họ Tân.”
Cố ý dừng lại bắt chuyện với nàng… A Tùng đầy bụng ngờ vực, không hỏi Huyền Tố lắc mình biến từ cao tăng Kiến Khang thành thần tử của Hoàn Doãn thế nào, “Ông biết ta?”
Huyền Tố nhìn trái ngó phải rồi bảo nàng, “Phu nhân mi thanh mục tú, là người có phúc.”
“Ông không chỉ biết giảng kinh mà còn biết xem tướng?”
“Chỉ là sống tạm mấy chục năm, gặp được khá nhiều người mà thôi.” Huyền Tố chắp tay với A Tùng, thấy nàng không nói gì nữa, bèn cáo từ rời đi.
Người này hơi cổ quái, bảo lão là tâm phúc của hoàng hậu, cố ý tới mỉa mai nàng thì cũng không giống.
A Tùng nhất thời không hiểu ra sao, lại quay đàu nhìn về phía mái cong góc vểnh của cung thành bát ngát.
Lấy Tiết Hoàn có phải phúc phận của nàng không?
Đêm ấy, Tiết Hoàn mãi chưa về, A Tùng đợi đến mí mắt trĩu nặng, qua quýt mặc nguyên quần áo thiếp đi.
Trong đêm có tiếng động khẽ khàng lọt vào tai, nàng lơ mơ mở mắt, thấy bóng hình Tiết Hoàn trong ánh đèn chập chờn – hắn vẫn mặc giáp lụa khi túc trực, bội đao đặt trên mặt bàn bên cạnh, không có ý định cởi áo đi ngủ.
Ánh mắt A Tùng đuổi theo hắn một hồi, lấy làm khó hiểu hỏi: “Chàng tìm gì vậy?”
Nàng ngái ngủ mơ màng, còn nhuốm chút giọng mũi nũng nịu.
Tiết Hoàn ngoảnh đầu lại từ rương quần áo, quan sát nàng mấy lượt, “Em ngủ đi,” Hắn nói với giọng trấn an, “Ta thu dọn vài món y phục.”
A Tùng gượng ngồi dậy, gắng hết sức để làm một người vợ hiền huệ, “Em dọn giúp chàng.”
“Không cần đâu.”
A Tùng xỏ giày đi đến sau lưng hắn, ôm eo hắn cười hì hì, “Chàng muốn mặc hay muốn cởi thế?”
Tiết Hoàn nắm lấy bàn tay mềm mại của A Tùng, không đẩy ra, cũng chẳng thuận thế ôm, thoáng dừng chốc lát, hắn xoay người lại, “Ta phải đi trấn thủ Vân Trung rồi.”
Cơn buồn ngủ của A Tùng biến mất, ánh mắt tỉnh táo lại, “Vân Trung là chỗ nào?”
“Ở biên giới phía Bắc, qua Vân Trung chính là Nhu Nhiên.”
A Tùng há hốc miệng.
Tiết Hoàn không nhiều lời thêm, dọn đại vài món áo quần, lấy các loại phi tiêu chủy thủ trong tủ ra bọc chung lại.
Hắn đã quen tự lực cánh sinh, động tác rất nhanh nhẹn, trong nháy mắt đã chuẩn bị xong hành trang.
Quay lại nhìn, A Tùng còn đứng bên mép giường, đêm dài sương nặng, áo ngủ mỏng manh, nàng không khỏi so vai, nom có phần đáng thương.
“Bao giờ đi?”
“Ngày mai.”
A Tùng nhỏ giọng oán trách, “Sao gấp vậy? Chúng ta vừa mới thành thân mà…”
“Năm ngoái bệ hạ đã có ý điều ta đi Mạc Bắc rồi,” Tiết Hoàn nói, “Gần đây, tán bộ của Nhu Nhiên nhiều lần xâm phạm biên giới, nếu không vì thành thân, ta đã sớm rời kinh rồi.”
“Vậy,” A Tùng giấu nỗi thất vọng, sau một chớp mắt luống cuống, nàng vội tròng y phục, sợ Tiết Hoàn lập tức rời nhà ra đi, “Chàng chờ một lát, em còn chưa thu dọn hành trang.” Mắt thấy trời đã sắp sáng, tất cả lụa là gấm vóc, đồ đạc vàng bạc nàng mang tới lúc xuất giá đều cần gói ghém, thế nào cũng phải mất nửa ngày.
Tiết Hoàn kịp thời ngăn nàng lại, “Em ở lại Lạc Dương đi.”
A Tùng sửng sốt, không chờ nàng mở miệng, Tiết Hoàn đã nói: “Đi cùng em, không tiện.”
Ngữ khí hắn kiên quyết, có thể nghe ra vẻ lạnh nhạt cự tuyệt ngoài ngàn dặm.
A Tùng gắng kìm nén oán khí chỉ chực phun trào – Đây chính là phúc của nàng ư? Câu nói của Huyền Tố hòa thượng ban ngày thực sự biến thành mỉa mai rồi.
A Tùng giậm chân bình bịch về mép giường, nguýt hắn, “Chàng đã dự định thế này từ sớm rồi chứ gì? Vừa mới thành thân đã bỏ mặc em đi Mạc Bắc tiêu sái khoái hoạt!”
Khuôn mặt khi tức giận của nàng còn vương nét trẻ con, Tiết Hoàn không nhịn được bật cười.
Không dịu dàng nhỏ nhẹ an ủi, cũng chẳng quyến luyến bịn rịn khó rời, cầm thanh đao trên bàn lên buộc bên hông, hắn phủi sạch trách nhiệm, thần sắc tự nhiên: “Không phải ta đã khuyên em từ sớm rồi sao? Là em khăng khăng ăn vạ ta đấy chứ.”
Bất kể ai ăn vạ ai, chung quy ván đã đóng thuyền, khó lòng đổi ý – A Tùng siết chặt khăn lụa, bướng bỉnh nói: “Em đã lấy chàng rồi, nếu chàng bỏ em mà đi, em sẽ…”
“Em sẽ tái giá?” Tiết Hoàn cười nói, “Tái giá cũng tốt, bắt em độc thủ không khuê kể cũng khó cho em.”
Nhìn vẻ mặt có phần hả hê này, A Tùng nổi đóa, “Chàng không được đi một mình!”
Tiết Hoàn thôi cười, đối diện với gương mặt ngang ngược vô lý của A Tùng, trong giọng hắn là sự kiên nhẫn và khoan dung hiếm có, “Ta chỉ phụng chỉ điều nhiệm mà thôi, không phải là không trở lại,” Hắn đi tới, cụp mắt nhìn xuống khuôn mặt xán lạ trong vầng sáng ánh nến của A Tùng, cầm lòng không đậu xoa xoa ấn đường nhíu chặt của nàng, “Không phải em thích Lạc Dương à?” Hắn mỉm cười, “Lạc Dương rực rỡ gấm hoa, Lạc Dương sống mơ sống màng… Em trăm cay nghìn đắng từ Nhu Nhiên đến đây, chẳng lẽ lại muốn về Mạc Bắc uống gió nằm sương? Đến đó rồi, ta chỉ là một tướng thủ thành thấp bé, cũng sẽ chẳng có ai nhận ra em là Hoa Nồng phu nhân tiếng tăm lừng lẫy.”
Trong lời này có mấy phần chế nhạo, mấy phần thương xót.
Mũi A Tùng cay xè, nàng nghiêng đầu sang một bên.
Xem hành động của hắn, cũng chẳng có vẻ gì là định ngày đêm bên nhau với nàng, nàng việc gì phải tự rước khó chịu? A Tùng hừ nhẹ một tiếng, giọng điệu vẫn mềm nhũn, “Vậy bao giờ thì chàng về?”
“Bệ hạ hạ chiếu thì ta trở về, có thể là ba, năm tháng, có thể là ba, năm năm.” Giọng Tiết Hoàn ung dung nhất quán.
“Ba năm năm?” A Tùng nghiến răng giậm chân, “Vậy thì chàng khỏi về luôn cho rồi!”
“Nếu em muốn tái giá thì nhớ gửi thư báo cho ta một tiếng,” Tiết Hoàn chẳng để bụng, “Nhưng chớ nóng vội lẻn về Kiến Khang.”
“Kiến Khang?” A Tùng ngẩn người, ngay sau đó khiêu khích nhướng mày, cười khẩy, “Chàng sợ em chạy về Kiến Khang làm nô tì tiểu thiếp cho Đàn Đạo Nhất hả?”
Tiết Hoàn lạnh lùng lườm nàng, làm bộ xách bội đao lên, “Nữ nhân ngu xuẩn như vậy, giết luôn cũng được.”
Thấy hắn đổi cả sắc mặt, trong lòng A Tùng lại ngọt lịm, ngẩng đầu lên cười nhạo, không mảy may sợ hãi.
Sau đó hai người không nói thêm gì nữa.
Căn phòng sáng sủa ấm áp lập tức trở nên vắng vẻ, trong ánh nến lung linh, nhiễu lụa trang trí trên cửa sổ đêm tân hôn vẫn đỏ thắm tươi đẹp – niềm vui sướng và nỗi ước ao của nàng còn chưa kéo dài được mấy ngày đã chợt rơi tõm vào khoảng không.
Đè nén buồn bã, A Tùng nhẹ nhàng nhặt hoa lụa rủ xuống lên, treo về chỗ cũ, ngón tay lại trân trọng vuốt ve.
Nghiêng đầu nhìn lại, Tiết Hoàn nói đi lại chưa đi, đang lẳng lặng nhìn nàng.
A Tùng được ánh mắt hắn nhắc nhở, vực dậy tinh thần, kéo ống tay áo hắn, ôn nhu nói: “Vậy chàng đợi thêm một lát, đợi trời sáng rồi, em đi chợ mua mấy miếng da tốt dày dặn,” Không cần thầy dạy cũng hiểu, nàng nghiễm nhiên là một cô vợ nhỏ hiền thục chu đáo, trong nháy mắt đã gạt phăng giận dỗi, bắt đầu suy xét hết sức chuyên tâm, “Phải may một đôi giày, một cái khăn choàng cổ, cả bao tay nữa, ở đó lạnh lắm, gió tuyết có thể ngấm tận xương!”.