Duyên Nợ Đào Hoa

Quảng Vân Tử, người này phỏng chừng năm mươi chưa tới, nhưng
bốn chục lại thừa. trong khoảnh khắc khi mở mắt ra, ta liền ngửi thấy ngay một
thứ mùi hôi hám, làm bản tiên quân xây xẩm mặt mày, thứ mùi ấy như đang nói lão
đạo sĩ đã lâu lắm rồi chưa tắm rửa.

Ta đưa tay sờ soạng, dưới cằm có râu, tương đối dài, chạm
vào thấy dính dính. Nhấc lên nhìn, lại bắt gặp một con bọ đang xông pha ngang dọc
giữa những kẽ hở của túm râu dày đặc, dường như đang kiếm ăn, quả thực ta không
“đành lòng” mở mắt ra nhìn tiếp.

Hoành văn lơ lửng trên không ném cho ta một câu: “Lão đạo sĩ
nhếch nhác hôi hám như thế này, đừng hi vọng ta sẽ ở cạnh ngươi, khi nào tắm rửa
sạch sẽ xong ta lại tới”. Sau đó liền không thấy tăm hơi hắn đâu nữa. Thật đúng
là, lão đạo sĩ này chẳng lẽ nhếch nhác bằng thi thể của Lý Tư Minh sao? Ngươi
lúc đứng cạnh quan tài thì nói hay như hát, bây giờ lại thế này.

Trên người không một chỗ nào không thấy ngứa ngáy, ta thò
tay ra sau cổ, gãi, xát ra một cục ghét thuộc hàng tầm cỡ. Phủi đi, xát lại, lại
phủi, cũng thú vị ra trò.

Đầu là chỗ ngứa dữ nhất, cứ cảm giác như có thứ gì đó đang
chạy ngang chạy dọc. Nghe nói trên đời có một loại côn trùng gọi là bọ chét, chỉ
sợ cái thứ này là nó.

Cửa vẫn đập uỳnh uỳnh, ta gãi đầu, vừa dùng một tay chà ghét
vừa ra mở cửa. Người ngoài cũng là một đạo nhân, gương mặt dẹt dẹt tròn tròn, đầy
đặn phúc hậu, dài giọng nói: “Cuối cùng cũng dậy rồi, còn tưởng ngài thành tiên
ở trong đấy luôn rồi chứ?”.

Cũng không hẳn là thành tiên trong ấy, ông ta tắt thở trước,
sau đó vị đại tiên ta mới tới mà.

Ta nói: “Đúng là vậy, dạo chơi qua mấy nghìn ngọn núi tiên,
lại đột nhiên hóa thành giấc mộng, gần như đã quên hết chuyện hồng trần, ngay cả
ngươi cũng không nhớ ra”.

Đạo sĩ nọ nói: “Quảng Vân tiên nhân phải nhớ cho kĩ đấy, tiểu
đạo là đạo nhân Thường Thiện, làm tạm vụ trong Minh Nguyệt quán này, đợi đến
lúc thành tiên rồi, mong ngài đừng quên chiếu cố đến tiểu đạo”. Hắn cười ha hả,
chà xát hai tay vào nhau, “Tối hôm qua ngài có nhờ tiểu đạo đánh thức, sáng hôm
nay không thể ngủ quên được. Tiểu đạo tới gọi ngài sớm một chút, hôm nay không
giống ngày thường, là đại pháp hội của vương phủ, trong đạo quán thiếu người
quá, khó khăn lắm sư phụ mới gật đầu để ngài tới cho đủ số lượng. Tốt xấu gì
ngài cũng phải tắm rửa một lượt, thay bộ quần áo trông cho tử tế mới được”.

Vừa nghe thấy hai chữa “tắm rửa” mắt ta liền sáng rực lên,
“Nước ở chỗ nào?”.

Thường Thiện nói: “Kì diệu làm sao, kì diệu làm sao, thường
ngày ngài lúc nào cũng nói sợ làm tổn thương đến nước nên không tắm rửa, không
ngờ hôm nay lại nghĩ thông rồi”. Hắn nói xong liền dẫn ta ra sân sau.

Ở sân sau có một cái lán bằng gỗ, trong lán có giếng, bên giếng
có thùng, còn có cả một cái chậu gỗ lớn.

Ta cài cửa lán lại, múc đầy một chậu nước, thò đầu soi thử,
thấy một cái đầu bù xù. Bản tiên quân đứng bên miệng giếng, múc vài chậu nước,
dùng tới hơn nửa cân bồ kết mới chải tơi được râu, tóc, chà xát cho màu da bình
thường xuất hiện.

Thường Thiện đã chuẩn bị sẵn một bộ đồ mới tinh cho ta thay.
Ta cột tóc gọn gàng, bộ râu cũng dùng lược chải cho ngay ngắn, cả người khoan
khoái nhẹ nhõm, lúc bấy giờ Hoành Văn mới lắc lắc lư lư bay tới. Ta nhân lúc bốn
phía không người, phất phất tấm áo bào đạo sĩ mới tinh mấy lượt, hỏi: “Trông có
tí phong thái nào của Lữ Tiên không?”.

Hoành Văn nói: “Ta mà chiều ngươi nói một câu ‘Giống’, chắc
Lữ Động Tân sẽ tới đập nát cung Vi Viên của ta ra mất”.

Ta cười khan một tiếng: “Không phải đã tử tế hơn nhiều so với
buổi sáng rồi à?”.

Hoành Văn im lặng trong giây lát, sau đó thành khẩn nói:
“Trông ngươi giống người rồi”.

Ta cùng với đám đạo sĩ trong Minh Nguyệt quán, tới Đông Quận
Vương phủ.

Khi bước qua ngưỡng cửa vương phủ, bản tiên quân thấy thật
bùi ngùi.

Vừa chỉ mới mấy ngày trước thôi, ta vẫn còn là người một nhà
với những con người sống sau cánh cửa này, tuy xét về độ hào sảng , lỗi lạc Lý
Tư Minh còn chưa sánh được với bản tiên quân nhưng cũng coi như một công tử thiếu
niên khôi ngô tuấn tú. Giờ đây lại đang mục xác trong quan tài, đổi cho bản
tiên quân một đạo nhân già, da mặt nhăn nheo như quả hồng khô. Mệnh Cách với Ngọc
Đế định để cho ta dùng cái mặt này mà đi cám dỗ Thiên Xu á???

Pháp hội ngũ thất được tổ chức rất phô trương, tổng cộng có
tất cả sáu mươi sáu đạo sĩ của tám đạo quán đồng thanh đọc kinh. Ta đứng rung
chuông giữa đám người. Ta trông thấy Đông Quận Vương, cũng trông thấy Lý Tư
Nguyên và Lý Tư Hiền. Bản tiên quân biết tình cảm của bọn họ đối với Lý Tư Minh
rất sâu sắc, nhưng tình cảm có sâu sắc đến mức nào, nước mắt có nhiều bao
nhiêu, khóc tới ngũ thất, cũng khóc cạn hết cả rồi. Vậy nên khi đứng trước linh
vị đốt tiền giấy, tất cả mọi người đều gào khan mà thôi.

Tuy nhiên, Đông Quận Vương có nói một câu khiến bản tiên
quân vô cùng phấn chấn.

Đông Quận Vương đứng đối diện với linh vị, bỏ một xấp tiền
giấy vào trong chậu than, nói rằng: “Minh nhi, con yên tâm đi, cha nhất định sẽ
móc tim của gã Đan Thành Lăng đó mang về để tế con!”.

Lúc lãnh tiền thưởng, Thường Thiện thì thầm bên tai ta:
“Nghe những lời vương gia nói hôm nay, Đông Quận của chúng ta nhất định phải đối
đầu với Nam Quận rồi, than ôi, nghiệp chướng, đúng là nghiệp chướng mà. Nói một
cách khó nghe thì tiểu công tử chết vừa là số vừa coi như tự chuốc lấy. Nhưng một
khi có chiến tranh, thì đám dân thường chúng ta cũng phải chịu khổ theo”. Đoạn
hắn ép giọng nói xuống thấp hơn, “Ngài có biết vì sao tiểu công tử lại bị chết
không?”.

Trên đời này làm gì có kẻ nào biết rõ hơn bản tiên quân.

Thường Thiện nói: “Nghe nói vị tiểu công tử này vốn là kẻ đần
độn, không biết vì sao mà đến một ngày đột nhiên tỉnh ra. Hắn vừa tỉnh ra, liền
hỏng bét, lập tức nuôi ngay một tiểu công tử lai lịch bất minh ở trong nhà,
nghe nói là chiều chuộng ghê lắm. Nhưng chỉ được một hai ngày, vương gia lại mời
một vị công tử về để làm mạc trọng,nghe nói vị mạc trọng tiên sinh đó có dáng vẻ
như thần tiên vậy, Tam công tử vừa gặp liền ném ngay vị tiểu công tử trong viện
đi, trái tim đặt cả vào vị mạc trọng tiên sinh kia. Vị công tử trong điện liền
nổi cơn ghen tức, cấu kết với người tình ngày trước của hắn đâm tiểu công tử một
đao, sau đó liền trèo tường trốn mất. Ngài nói xem có thú vị hay không?”.

Râu mép của ta giật giật một lát, sau đó mới đáp rằng: “Thú
vị”.

Thường Thiện lẳng lặng tiếp lời: “Nhưng thú vị hơn là tình
nhân cũ của vị tiểu công tử kia không phải là ai khác, lại chính là Đại tướng
quân Đan Thành Lăng của Nam Quận. Sau khi tiểu công tử chết, mạc trọng tiên
sinh cũng chẳng thấy tăm hơi đâu. Cả chuyện này huyên náo ầm ĩ cứ như diễn kịch
vậy, có điều vở kịch này diễn quá tệ, người này chết, bách tính lại gặp tai
ương”.

Ta ủ rũ, không nói lời nào. Ngọc Đế, Mệnh Cách, đều là nghiệp
chướng các người tạo ra cả đấy.

Ta ôm hai xâu tiền, theo đoàn người ra khỏi phủ, xa xa trông
thấy Tấn Ninh, Tấn Thù đang đeo khăn tang, thân hình bé nhỏ chui rúc len lỏi giữa
đám người. Tấn Ninh đang ngóng lên trên bàn thờ, ánh mắt mong đợi, hình như
đang định “xuống tay” với đĩa bánh cúng trên đó.

Ta đã từng hỏi thăm Mệnh Cách về số mệnh của hai đứa bé này.
Năm năm sau, Đông Quận Vương sẽ qua đời vì trúng gió, ba năm sau nữa đến phiên
Lý Tư Nguyên chết bất đắc kì tử, một năm sau Lý Tư Hiền cũng bỏ mạng trên chiến
trường. Tấn Ninh trở thành tướng soái khi tuổi đương độ thiếu niên, thắng trận
liên tiếp. Nhưng người nắm trong tay đại cục của Đông Quận lại là Tấn Thù. Đứa
bé nhút nhát suốt ngày chạy theo đuôi Tấn Ninh, trong tương lai lại trở thành vị
quân chủ khai quốc của cả vùng vương triều. Quả là thế sự vô thường.

Ta đứng trước nhà quàn[1] một lúc lâu, đôi mắt đảo liên hồi
của Tấn Ninh liếc về phía ta. Nó bước lại gần ta, thân người lúc la lúc lắc:
“Này, đạo sĩ râu dài, lão đang nhìn gì thế?”. Tấn Thù vẫn như trước bám dính
sau lưng Tấn Ninh.

[1]: Nhà quàn: Nơi đặt quan tài trước khi chôn cất, hoặc tổ
chức tang sự.

Tấn Ninh tương lai sẽ là một kẻ phong lưu, bản tiên quân
nhìn nó, tưởng tượng cảnh nó sau khi trưởng thành, sẽ chôn người giữa mười mấy
thê thiếp xinh đẹp như hoa, trái ôm phải ấp. Chậc chậc, thằng bé này quả là khiến
người ta lo lắng mà.

Ta sục sạo trong tay áo, móc ra hai mặt dây chuyền hình hồ

lô làm bằng ngọc bé xíu, khom người xuống: “Bần đạo trông hai vị thiếu gia phúc
khí đầy mặt, đôi bùa ngọc này xin tặng cho hai vị, coi như kết một mối lương
duyên với đạo gia”.

Tấn Ninh thò tay định nhận, nhưng Tấn Thù lại kéo ống tay nó
lại, ngửa mặt mà nói với ta rằng: “Đạo nhân ngươi lai lịch bất minh, tặng đồ
cho chúng ta, có phải muốn thứ gì đó hay không?”.

Ta cười ha hả: “Bần đạo nếu có thể tới tham gia pháp hội,
lai lịch đương nhiên phải rõ ràng, Đông Quận Vương phủ là chỗ người bình thường
có thể bước vào sao? Hai miếng ngọc này chỉ để kết mối lương duyên với đạo gia,
hoàn toàn không có mục đích gì. Nếu tiểu công tử thật sự muốn thưởng cho bần đạo
thứ gì đó”. Ta vuốt chòm râu, đưa mắt nhìn về phía bàn tay của Tấn Ninh, “Vậy
hãy tặng ống trúc kia cho bần đạo, tiểu công tử thấy sao?”.

Tấn Ninh ngó ống trúc trong tay, có vài phần lưu luyến không
nỡ cho đi, lại đưa mắt nhìn hồ lô ngọc trong tay ta, ngập ngừng do dự. Tấn Thù
chớp mắt, nhìnTấn Ninh, sau đó quay sang nói với ta: “Vậy lão đừng đòi ống trúc
nữa, ta thưởng cho lão cái này, đổi lại lão đưa hồ lô cho chúng ta, được
không?”.

Bàn tay nhỏ xíu của nó mò mẫm trong đai lưng, bàn tay nắm chặt
mở ra trước mặt ta. Bản tiên quân thấy miếng ngọc bội kia mà mở cờ trong bụng,
đúng là hôm nay vớ được món hời, không cần bỏ thêm công sức, đồ đã được người
dâng tới tận tay.

Ta nói, “Đa tạ tiểu công tử”. Sau đó lấy miếng đưa cho Tấn
Thù. Tấn Ninh vội la lên: “Ê, đã nói là hai cái cơ mà, sao giờ chỉ có một
cái?”.

Ta lắc đầu nói: “Lễ vật của vị công tử này thưởng cho bần đạo
chỉ đổi được một cái. Một đổi một, không phải là chuyện rất công bằng sao?”.

Tấn Ninh nói: “Mới nãy rõ ràng lão nói đồ này tặng không cơ
mà!!!”.

Ta lại vân vê chòm râu: “Ban nãy bần đạo nói tặng không,
nhưng giờ lại đổi ý, không muốn tặng không nữa”.

Tấn Ninh chun mũi lại, trừng mắt nhìn ta, Tấn Thù liền nhét
miếng bùa ngọc đeo vào tay nó: “Được rồi, đừng lằng nhằng với lão làm gì, dù
sao ta cũng không thích nó, cho ngươi đấy”.

Tấn Ninh lắc đầu quầy quậy, chìa ống trúc ra trước mặt ta:
“Cho lão, đưa cái kia đây”.

Bản tiên quân cười híp cả mắt: “Tiên tôn vô lượng, cảm ơn tiểu
công tử”. Đưa tay nhận ống trúc, sau đó trao miếng còn lại cho Tấn Ninh.

Tấn Thù nói: “Ngươi thích cái ống trúc đó, sao lại đưa cho
lão làm gì, ta không cần bùa ngọc này”.

Tấn Ninh lại nhét miếng bùa vào tay nó, “Thứ đổi bằng đồ của
ngươi để ta giữ, thứ đổi bằng đồ của ta để ngươi giữ. Dù sao hai thứ đưa cho
lão đều là vật lấy trộm từ phòng tiểu thúc thúc, nếu bị cha với thúc thúc trông
thấy thì có khi còn bị nện thêm mấy chổi ấy chứ”.

Bấy giờ Tấn Thù mới cầm lấy hồ lô, nhét vào trong tay áo. Việc
cũng đã xong, bản tiên quân liền mang theo hai thứ kia lui ra.

Trở về đạo quán, ta đưa cho Thường Thiện một xâu tiền, cảm
ơn hắn đã giúp đỡ ta. Thường Thiện cười toe toét, “Quảng Vân đạo huynh khách
khí quá đi mất, ngày khác có tới Thượng Xuyên này, nhất đinh phải qua đây tìm
tiểu đạo đấy nhé”.

Buổi tối, ta lôi ống trúc và ngọc bội ra ngắm nghía, rất là
đắc ý, Hoành Văn đứng trước giường nói: “Hai thứ này đã được ngươi trổ tài dụ dỗ
trẻ con mà lừa được về, an tâm rồi chứ gì. Trông thấy vật, chẳng biết có nhớ
người không đây”.

Bản tiên quân dụ dỗ, lừa gạt trẻ con bao giờ, hai miếng ngọc
hồ lô kia đều là bảo bối được ta dùng phép tiên, thêm thần chú bình an vào cả đấy.
Có thể bảo vệ cho hai đứa nó tránh được tà ma, sống thuận lợi an vui cả đời.

Ta nhìn Hoành Văn, cười xòa: “Ngươi có muốn lên giường nằm
chút không?”.

Hoành Văn nói: “Thôi khỏi, cái giường này của ngươi chẳng sạch
hơn tấm vải bọc xác Lý Tư Minh đâu”.

Ngày hôm sau, ta rời Minh Nguyệt quán, ra khỏi thành Thượng
Xuyên.

Quảng Văn Tử thân phàm xác tục, liên lụy bản tiên quân không
cưỡi nổi mây, chỉ đành cuốc bộ đi đường, muốn đến được bến Chu Gia cũng phải đi
bốn năm ngày đường.

Sau khi đã cách thành Thượng Xuyên rất xa rồi, Hoành Văn liền
hiện thân, cũng cùng bản tiên quân đi bộ. Hắn hiện thân, vẫn biến ra bộ dạng của
Triệu tiên sinh, không chịu tạm biến thành tiểu đạo sĩ cho hợp hoàn cảnh. Ta với
Hoành Văn đi chung, người qua đường ai thấy cũng lé cả mắt, cảm thấy hai ta đi cùng
nhau là chuyện gì đó rất… kì lạ.

Chạng vạng năm ngày sau, ta đã tới trước cửa quán trọ bên bờ
sông.

Trời đã hoàng hôn, mây đen đè nặng, tối mịt tối mù. Sông dài
sóng lớn, từng đợt xô bờ, tiếng lá cờ chào đón khách của quán trọ phần phật
trong gió vang lên, nghe thật đìu hiu cô quạnh.

Bản tiên quân bước vào quán trọ, tay phải chống một cây gậy
trúc, trên lá cờ đen viết mấy chữ “Bói đâu trúng đó”, tay trái thì phe phẩy cây
phất trần thưa thớt mấy cọng lông.

Tiểu nhị lúc đầu vốn chỉ dùng đuôi mắt liếc bản tiên quân một
cái, hờ hững lạnh lùng định quay đầu, lại trông thấy Hoành Văn vào cửa, lập tức
mặt mày như mới nở mấy đóa hoa.

Đợi đến khi biết được bản tiên quân và Hoành Văn là bạn đồng
hành, ta cũng móc bạc ra, tiểu nhị với chủ quán liền cười đến độ mắt mũi chẳng
thấy đâu, ân cần sắp xếp cho bọn ta hai gian phòng thượng hạng, lại rất chu đáo
chuẩn bị cho bọn ta vị trí ngồi đẹp nhất trong sảnh dưới lầu, rượu và thức ăn
được bưng lên thuộc hàng thượng hạng.

Sau khi đưa thức ăn lên, một gã tiểu nhị niềm nở tới rót rượu,
sau đó bắt chuyện nói: “Đạo trưởng đây tiên phong đạo cốt, vừa nhìn đã biết là
một cao nhân”.

Ta khiêm nhường đáp lại: “Đâu có đâu có, bần đạo tu hành
nông cạn, chỉ biết chút đạo thuật sơ sài như bói quẻ xem tướng, xem hung cát,
đoán tương lai thôi”.

Ánh mắt tiểu nhị chứa chan khâm phục.

Thế là ta tiếp tục nói: “Xem phong thủy, quan sát thiên tượng,
kỳ môn độn giáp… Bần đạo cũng biết chút chút”.

Vẻ khâm phục trong mắt tiểu nhị lại càng dâng cao.

Thế là ta lại tiếp tục nói: “Thật ra, nếu như bị thứ gì đó
tà mị nhập vào người, yêu ma tác oai tác quái, thậm chí cả những chứng bệnh lạ
không chữa nổi, bần đạo cũng có thể xem thử xem sao”.

Tiểu nhị mừng vui khôn xiết, tức khắc đặt vò rượu xuống, vái
bản tiên quân một vái: “Đạo trưởng, ngài đúng là do ông Trời phái đến mà!!! Tiểu
điếm hiện giờ đang có một bệnh nhân trong tình thế hiểm nghèo, không biết có thể
làm phiền đạo trưởng mở lòng từ bi mà xem bệnh cho người ấy hay không!”.

Chủ quán đích thân dẫn đường, đưa ta và Hoành Văn lên trên lầu,
vài tiểu nhị rào trước đón sau, chạy tới chạy lui xun xoe, nịnh nọt.

Theo lời chủ quán, mấy ngày trước có một vị đại gia dẫn theo
một đoàn người tới quán trọ này, vốn định sang sông, nhưng trên sông sóng lớn
cuồn cuộn, không sang nổi. Vì vậy họ liền ở lại quán trọ, một vị công tử trong
đoàn người lại còn sinh bệnh. Vài ngày sau, vị đại gia kia hình như có chuyện
gì khẩn cấp, mới dẫn một nửa số người đi, để lại một nửa số người chăm sóc cho
công tử bị bệnh. Kết quả, vị công tử kia ốm dầm ốm dề mãi không chịu khỏi, những
người còn lại hình như cũng có việc, từng người từng người một nối đuôi nhau đi
mất, cuối cùng chỉ còn một mình người như ma ốm ở lại quán trọ này.

“Lúc người cuối cùng rời đi, đã để lại một số bạc rất lớn,
nói vài ngày sau bọn họ sẽ trở về, dặn chúng tiểu nhân nhất định phải chăm sóc
cho vị công tử kia thật tốt, còn rút kiếm chém phăng một cái góc bàn mà đe dọa,
nói vạn nhất có gì xảy ra với vị công tử kia, thì số phận bọn tiểu nhân sẽ như
cái bàn ấy”. Chủ quán kể lại bằng giọng rất đỗi thê lương.

“Nhưng vị công tử nọ cứ càng ngày càng yếu, bọn tiểu nhân đã
mời đủ mặt đại phu, ai cũng nói không chữa nổi. Hiện giờ vị này đang nằm trên
giường mà ho ra máu, xem ra chỉ thoi thóp chút hơi tàn. Cầu xin đạo trưởng nghĩ
cách gì đó giữ lại tính mạng cho người này. Nếu công tử đó mà chết ở đây, thì
lúc đám người kia quay lại chúng tiểu nhân biết ăn nói làm sao.”


Chủ quán mở cửa ra, chỉ cho ta xem con ma bệnh đang thoi
thóp nằm trên giường bên trong.

Đèn dầu tối mù tối mịt, nhưng chưa dủ để ta trông thấy kẻ-có-vẻ-sắp-chết
đang nằm trên chiếu.

Ta vừa nhìn rõ mặt người kia, lập tức quay sang nói với chủ
quán rằng: “Yên tâm đi, hắn không chết nổi đâu”.

Chủ quán túm chặt lấy ta, cứ như đang bấu víu vào đống lương
thực cứu mạng vậy, hai tay run bần bật nói: “Đạo trưởng đúng là thần tiên sống,
vừa nhìn một cái đã biết hết càn khôn, có câu ‘hắn không chết nổi đâu’ này của
đạo trưởng, cái đầu của tiểu nhân cũng coi như có thể giữ yên trên cổ”.

Ta bước từng bước vào trong phòng, lại gần bên giường.

Người nằm trên giường đột nhiên mở mắt ra, dưới ánh đèn, đôi
mắt đen như mực lại sáng đến dị thường, dõi về phía bản tiên quân, mở miệng,
nói một câu cực kì rành rọt.

“Lý Tư Minh, ngươi tới đây để đòi ta đền mạng sao?”.

Ta giật nảy cả người, lùi về phía sau một bước dài. Ngọc Đế
ơi, chẳng lẽ hồn Thiên Xu tự nhiên thông suốt, vừa nhìn đã nhận ra bản tiên
quân?

Chủ quán nói: “Đạo trưởng xin đừng kinh ngạc, vị công tử này
bệnh nặng đến độ đầu óc hồ đồ, cả ngày gặp ai cũng nói câu đó. Ngày trước, lúc
vị đại ca kia còn ở đây, nghe thấy công tử nói câu ấy liền bỏ đi, vừa ra khỏi cửa
là bắt đầu đập bàn đập ghế, bàn của tiểu điếm không biết đã bị vị đại gia đó đập
bể bao nhiêu cái rồi”.

Tiếng thở dài của chủ quán nghe mới tang thương làm sao, bản
tiên quân điều hòa hơi thở, thì ra là sốt đến độ đầu óc mê man, nói như vậy,
ngày đó Thiên Xu đâm bản tiên quân một nhát, trong lòng cũng có chút áy náy.

Ta bước vào, ngồi xuống bên mép giường, đôi mắt sáng trong
như tuyết của Mộ Nhược Ngôn vẫn cứ nhìn ta chằm chằm. Bản tiên quân nhìn y, nở
một nụ cười hòa nhã, sau đó nâng một cánh tay y lên, làm bộ đang bắt mạch.

Vài lạng thịt khó khăn lắm mới đắp được lên người Thiên Xu hồi
còn ở trong Đông Quận Vương phủ đều đã đi tong hết cả. Ngày đó Mộ Nhược Ngôn là
thân da bọc xương, đến giờ tầng da bọc xương cổ tay kia lại càng mỏng đến độ gần
như không có. Bản tiên quân đặt hờ hai ngón tay lên trên xương ống tay của Mộ
Nhược Ngôn, nhắm hờ hai mắt, cố ra vẻ cao thâm.

Hoành Văn đứng cạnh chiếc bàn có thắp một ngọn đền dầu nho
nhỏ, ho khan một tiếng, tiếng ho vừa khéo vang lên cùng lời cảm thán của chủ
quán. Ông ta tấm tắc nói: “Đạo trưởng đúng là cao nhân. Ngay cả bắt mạch cũng
khác hẳn người thường”.

Ta khoan thai đáp: “Đây là phương pháp bắt mạch gia truyền của
bần đạo, thật ra nói về am hiểu thì bần đạo tinh thông bắt mạch qua sợi chỉ
hơn”.

Bản tiên quân thu tay về, Mộ Nhược Ngôn nằm ở trên giường ho
liên tiếp bốn năm tiếng, cũng phun ra hai ba giọt máu.

Thật chua xót làm sao, khi còn ở Đông Quận Vương phủ, bản
tiên quân hầu hạ y nhiều đến độ thành quen, lập tức duỗi ống tay áo ra lau cho
y. Mộ Nhược Ngôn nhắm nghiền hai mắt, thều thào đứng quãng: “Lý Tư Minh, ngươi
xem xem, lúc này ta… sẽ biến thành con quỷ thế nào đây?”.

Ta nói: “Thí chủ, đạo hiệu của bần tăng là Quảng Văn Tử. Thí
chủ yên tâm đi, có bần đạo ở đây, nhất định sẽ giúp thí chủ bệnh đi xuân đến”.

Những ngón tay gầy guộc của Mộ Nhược Ngôn túm chặt lấy tay
áo của bản tiên quân: “Khụ khụ, ta hại chết ngươi, ngươi lại muốn ta sống để chịu
tội, cũng được, đây là báo ứng… báo ứng ta nên chịu…”.

Ồ, xem ra vẫn nghe được lời ta nói.

Hoành Văn há miệng ngáp dài, “Đạo trưởng cứ từ từ chẩn mạch
chữa bệnh đi, tại hạ phải về ngủ trước đây”, nói xong liền quay người ra khỏi cửa.

Ta nhích người ra xa một chút, kéo ống tay áo khỏi tay của
Thiên Xu, đứng dậy. Chủ quán vội vội vàng vàng hỏi: “Đạo trưởng, tình hình thế
nào rồi?”.

Ta vân vê chòm râu, lắc đầu: “Không được khả quan cho lắm, vị
công tử này vốn có bệnh cũ trong người, nay lại thêm tâm bệnh nữa, bần đạo trở
về phòng tĩnh tâm suy nghĩ trước đã, sáng sớm mai mới có thể viết ra đơn thuốc.
Không biết trong quý điếm có tổ yến hay không, tạm thời cứ hầm một bát cho công
tử ăn cái đã”.

Chủ quán nói: “A, lúc vị đại gia kia tới cũng có mang tới
vài cân tổ yến, hiện giờ vẫn còn”. Mấy gã tiểu nhị rất lanh lợi, lập tức đi hầm
tổ yến. Chủ quán thì cung kính đưa bản tiên quân tới tận phòng, sai người
khiêng một thùng gỗ mới tinh đổ đầy nước tắm vào trong, còn tặng thêm vài đĩa
hoa quả khô để ta lót dạ bữa khuya.

Trước khi ra khỏi phòng, ta còn quay đầu nhìn Mộ Nhược Ngôn
thêm lần nữa. Dưới bóng đèn dầu lờ mờ là một bóng người trắng nhợt đang nằm,
trông hệt như một hình nhân bằng giấy.

Bản tiên quân bước ra khỏi cửa, y cũng không nói thêm câu gì
nữa.

Căn phòng ngay sát vắch hẳn là phòng của Hoành Văn, cửa
phòng đóng chặt. Ta đưa mắt nhìn một cái, liền nói với chủ quán rằng, thùng gỗ
mới tinh cùng nước tắm kia đem cho vị công tử phòng bên dùng đi, gối đầu, chăn
đệm trong phòng hắn cũng thay mới toàn bộ. Vị công tử kia là người cực kì cao
quí, mọi thứ đều phải mới tinh, sạch sẽ, chút tiền vặt ấy hắn thừa sức trả.

Chủ quán đương nhiên gật đầu ngay tắp lự. Đợi đến khi ta
cũng tắm rửa xong, liền thổi tắt đèn dầu, nằm thẳng trên giường, cầm miếng bát
quái bằng đồng trong tay, thoát chân thân khỏi xác lão đạo sĩ.

Suốt cả quãng đường, chúng ta đều thuê hai phòng trọ, một
gian cho Quảng Văn Tử, một gian ta và Hoành Văn ở. Hắn không sang lôi bản tiên
quân ra, ta cũng đành phải tự tìm hắn.

Đèn trong phòng Hoành Văn cũng đã tắt, ta lần mò trong bóng
tối, bước tới bên giường, người nằm trên giường xoay mình lại, nói: “Chẩn trị
xong rồi à?”.

Ta cười khan, “Xong rồi”. Ta vừa nói vừa vặn vẹo hai tay,
“Ngươi nhích vào bên trong một chút, chừa cho ta tí giường nằm đi”.

Hoành Văn phì cười, hơi dịch vào trong một chút, ta nhân cơ
hội đó nằm luôn xuống giường, kéo chăn đắp lên người. Hoành Văn nói: “Bệnh của
Thiên Xu không nhẹ đâu, ta xem chỉ còn xót lại chút hơi tàn thôi. Bệnh này của
hắn, chỉ sợ không chữa nổi bằng cách dưới nhân gian, Ngọc Đế lại không cho phép
dùng tiên thuật để cứu hắn. Không biết Quảng Vân đạo trưởng có cách gì hay
không?”.

Ta nói: “Cứ đối phó cho xong là được, không chữa được thì để
hắn xuống chỗ Diêm Vương”.

Hoành Văn cười khẽ: “Ngươi nỡ chắc, Hôm nay Thiên Xu chỉ nói
mấy câu thôi, cũng đủ để ngươi quên sạch một đao hắn đã đâm ngày trước rồi. Nói
để hắn đi gặp Diêm Vương, chẳng lẽ trong đầu ngươi đã có cách gì rồi?”.

Ta không dám tiếp lời, Hoành Văn đoán không sai, trong lòng
ta quả thật có một cách.

Ngoài cửa sổ mơ hồ vang lên tiếng gió. Thanh âm này bản tiên
quân quen thuộc quá rồi, cũng đã bám theo bọn ta suốt cả quãng đường. Hoành Văn
nhẹ giọng nói: “Cái cách mà ngươi nghĩ ra được, là đây sao?”.

Tiếng gió vang lên, kèm theo mấy tiếng lạch cạch nhỏ xíu,
sau đó mọi thứ lại trở về yên lặng. Một lúc lâu sau, ta nhẹ nhàng mở cửa phòng
ra, bên ngưỡng cửa quả nhiên có bó cỏ linh chi được buộc rất chỉnh tề. Loại cỏ
linh chi này được gọi là Kim La Linh Chi, là một loại cỏ vô cùng quý giá, hơn nữa
tuy là cỏ tiên, nhưng lại sinh trưởng ở trần gian, ta cũng chỉ nhìn thấy có vài
lần trên thiên giới.

Bó cỏ linh chi này là tặng cho Hoành Văn, người tặng chính
là con hồ ly đoạn tụ si tình gan to không sợ chết, một lòng tưởng nhớ Hoành
Văn.

Lại nói về việc này, ngày ấy ta và Hoành Văn vừa ra khỏi
thành Thượng Xuyên liền bị con hồ ly này lén lút theo đuôi. Cục Lông này rất có

bản lĩnh, không biết làm cách gì mà lần nào cũng lần mò vào được quán trọ mà ta
và Hoành Văn dừng chân lúc nửa đêm, đứng ngoài phòng bồi hồi trông ngóng, còn để
lại một bó Kim La Linh Chi.

Kim La Linh Chi có thể thanh trừ khí độc, bồi dưỡng nguyên
thần, phỏng chừng con hồ ly đó lo lắng Hoành Văn bị ta lôi kéo bôn ba giữa hồng
trần hỗn loạn này sẽ bị nhiễm bẩn, mới cố ý tặng thứ này.

Bản tiên quân là một vị thần tiên rất từ bi, chỉ than thở thế
gian thật lắm kẻ si tình, việc này ta chỉ đơn giản xem như gió thoảng mây bay.
Sau khi nhặt cỏ linh chi lên, cuối cùng Hoành Văn nở nụ cười rồi nhét vào trong
tay áo, cũng giả bộ không biết người tặng là nó. Vì thế tận hôm nay hồ ly vẫn cứ
nghĩ rằng bản thân náu mình rất tốt, ngày ngày làm vậy.

Ta cầm theo cỏ linh chi trở về giường, cười nịnh nọt với
Hoành Văn: “Có thể cho ta một hai nhánh lá không?”.

Hoành Văn biếng nhác đáp: “Ta biết ngay ngươi định đem nó đi
cứu Thiên Xu mà. Nếu ngươi muốn lấy thì cứ lấy đi, tuy nhiên, có câu này ta vẫn
cứ phải lắm lời, Tống Dao Nguyên quân lần này xuống trần là để thiết kiếp chứ
không phải để cứu khổ cứu nạn. ‘Cầm gậy đánh uyên ương’ sắp bị ngươi biến thành
‘tình đậm sâu khiến giai nhân cảm động’ mất rồi. Ngươi cũng nên có chừng có mực”.

Ta nhét cỏ linh chi vào trong áo, trở về giường nằm, nói:
“Tuy rằng về sau Thiên Xu Tinh quân với ta có chút khoảng cách, nhưng dù sao
năm đó cũng đã cứu ta một lần. Ân tình ấy, chung quy ta vẫn phải trả hắn”.

Việc của Tống Dao Nguyên quân ta ghét nhất chính là nợ ân
tình của người khác, nhất là ân tình của Thiên Xu Tinh quân – người mà sau này
có chút “bất hòa” với ta.

Rất nhiều năm về trước, lúc đó ta mới được thăng thành Quảnh
Hư Nguyên quân, có một lần Hoành Văn tới Phật Giới Tây Phương tham gia Pháp Đạo
Hội. Ta ở trên thiên đình cô đơn trống vắng, liền tới chỗ của Bích Hoa Linh
quân uống trà, ngắm nghía đám tiên thú hắn nuôi để giải sầu, vừa đúng lúc có
con rồng một sừng tu tiên lạc lối, tẩu hỏa nhập ma, bắt đầu phát cuồng. Nguyên
quân ta giơ cao trường kiếm đối địch với rồng, bất hạnh bị con súc sinh đó phun
một ngụm khói vào mặt, lại bị đuôi rồng quất bay ra xa vài trượng, không chỉ mất
hết mặt mũi thần tiên, mà còn trọng thương.

Vừa may Thiên Xu Tinh quân cũng ở trong phủ của Linh quân,
tuy rằng thường ngày y thản nhiên lạnh nhạt, nhưng lúc đó cũng ra tay chữa trị
cho ta. Từ đó, bản tiên quân nợ y một món ân tình.

Lại thêm mấy trăm năm nữa trôi qua, ta cùng Thiên Xu Tinh
quân đối chất trên điện Linh Tiêu, đến giờ ta vẫn cứ nghĩ nó chỉ là một giấc mộng
hoang đường. Thiên Xu Tinh quân từng cứu ta một mạng, Thiên Xu Tinh quân thanh
cao mà lạnh lùng, lại muốn vu cho ta một cái tội danh vô căn cứ, để ta bị đày
trở lại trần gian, vĩnh viễn không thể trở lại thiên đình.

Hoành Văn nói: “Khi đó Thiên Xu nói ngươi có tội cũng có chứng
cứ, không coi là vu vạ. Nhưng ta cũng không hiểu được vì sao hắn phải làm vậy.
Theo tính cách của Thiên Xu, hắn không đời nào làm ra chuyện như thế. Hắn làm vậy,
tất có nguyên do”.

Ta nói: “Nguyên do là gì ta đây cũng chẳng muốn biết. Nói gì
thì nói, ân tình ngày xưa nợ hắn sẽ trả xong, chuyện Ngọc Đế giao phó cho ta
cũng sẽ làm tròn. Năm ấy hắn vu tội cho ta nhưng không thành, liền xem như chuyện
ấy không xảy ra, đợi đến lúc hắn trở lại thiên đình, gặp nhau cười một cái, đôi
bên vẫn cứ là tiên hữu”.

Tống Dao Nguyên quân ta là một thần tiên vô cùng độ lượng.

Ngày hôm sau, ta dậy từ khi trời còn sớm tinh mơ, định bụng
nói với chủ quán một tiếng, đem Kim La Linh Chi đi sắc một chén cho Mô Nhược
Ngôn uống. Khi ta cùng Hoành Văn bước xuống thang lầu, lại trông thấy một đám
tiểu nhị đang vây quanh một cái lồng, kẻ vặn tay người xắn áo.

Một tiểu nhị lên tiếng chào hỏi chúng ta, điệu bộ cực kỳ
khoái trá: “Chúng tiểu nhân tối qua có bắt được một con vật vô cùng hiếm gặp, đạo
trưởng với công tử có muốn qua xem một chút không?”.

Ta vui vẻ đáp lời, bước lại gần.

Ôi trời, trong lồng nào phải ai xa lạ.

Cục Lông trắng bạc đang héo rũ cả người, cúi đầu chồm hỗm
trong lồng, như anh hùng lỡ bước, tựa Sở Bá Vương bên bến Ô Giang, thật xót xa.

Hồ ly, sao ngươi lại bị bắt thế này?

Hoành Văn cũng sững người, hồ ly ngẩng đầu nhìn hắn một cái,
ánh mắt lóe lên ngấn lệ, rồi lại gục đầu xuống, ngồi co trong một góc lồng.

Đám tiểu nhị rất phấn khởi.

“Gần đây mèo rừng với chồn hoang hoành hành dữ quá, chúng tiểu
nhân liền đặt một bẫy sắt ở bên dưới mái hiên, chỉ hy vọng bắt được đám mèo chồn
đó, ai ngờ lại tóm được con vật này. Đạo trưởng thấy nhiều biết rộng, màu lông
của con hồ ly này cực kỳ hiếm lạ, nhất định là rất đáng tiền. Nếu lột sống bộ
lông của nó xuống thì không biết có bán được mười lượng bạc hay không?”.

Bản tiên quân chắp tay niệm một tiếng, lại nói: “Tội lỗi, tội
lỗi, tuy rằng nó chỉ là súc sinh, nhưng để sống mà lột da cũng quá độc ác. Hôm
nay mệnh nó đã định phải bỏ mạng ở chỗ này, các vị coi như nể mặt bần đạo, để
nó về trời trước rồi hẵng lột da”.

Hồ ly đột ngột ngẩng đầu, quăng cho bản tiên quân một cái
nhìn đến là thê lương. Rồi nó lại ai oán trông về phía Hoành Văn, gục đầu xuống.

Ta trông thấy chân trước bên phải của nó tựa hồ có vết máu,
giống như là vết thương mới khá nặng.

Quả nhiên, Hoành Văn lên tiếng: “Tại hạ bỏ ra mười lượng
vàng, các ngươi bán nó cho ta đi”.

Thỏi vàng nện xuống mặt bàn, đám tiểu nhị trông thấy cười
như đóa hướng dương, sáng lạn vô cùng, ân cần đáp: “Chúng tiểu nhân lập tức lột
tấm da hồ ly này cho công tử”.

Hoành Văn nói: “Ta thấy bộ dạng nó hiếm thấy, tạm thời để
nuôi trước đã”.

Ta nói:”Thí chủ không sợ hồ ly hôi sao?”.

Hồ ly lại lườm ta một cái, ra chiều căm phẫn.

Hoành Văn mở cửa lồng, ôm hồ ly ra ngoài, “Ta không ngửi thấy
mùi gì cả, cứ nuôi đi”.

Hồ ly rúc đầu vào ngực Hoành Văn, dụi tới dụi lui.

Tất cả trở về căn phòng trên lầu của bản tiên quân, đóng cửa
phòng lại, hồ ly nằm sấp trên đầu gối Hoành Văn, cuộn tròn người lại, bộ dạng cực
kì hưởng thụ. Ta tựa người bên mép bàn, “Cục Lông này, lần trước bản tiên quân
thấy ngươi rèn giũa cơ bắp khá lắm, cũng coi như một trang hán tử, sao bây giờ
lại mảnh mai yểu điệu thế”.

Hồ ly lập tức nhảy xuống khỏi đầu gối Hoành Văn, lộn một
vòng biến thành hình người để tỏ rõ cái tôn nghiêm của nó, lạnh giọng nói: “Tên
của tại hạ là Tuyên Ly, dường như tiên quân đã biết rồi”. Sau đó rung rung vành
tai, không thèm nhìn ta, lại dõi ánh mắt si tình về phía Hoành Văn, “Đa tạ
Thanh quân đã ra tay cứu mạng”.

Hoành Văn nói bằng giọng rất điềm đạm, đương nhiên, Hoành
Văn hắn lúc nào tính tình chẳng tốt, đứng trước mặt ai chả điềm đạm: “Ngươi bị
trọng thương, Kim La Linh Chi là tiên vật, ngươi vốn không lấy được, chỉ cần chạm
vào sẽ hiện nguyên hình. Cần gì phải mạo hiểm như thế”.

Hồ ly nói: “Vì Thanh quân bỏ mạng cũng đáng, Tuyên Ly cam
tâm tình nguyện”.

Bản tiên quân nghe mà ê hết cả răng.

Hoành Văn vươn tay đưa cho nó một viên đơn, “Ngươi uống viên
đơn này trước đi, có lẽ sẽ đỡ hơn một chút”. Hồ ly chìa móng ra nhận, nhìn
Hoành Văn chăm chú, khiến kẻ khác thấy mà tê dại cả người, một lúc sau mới nhét
viên đơn vào miệng, nuốt xuống. Bản tiên quân không nhịn được ho khan một tiếng,
nói: “Vết thương trên cánh tay ngươi trông rất cổ quái, do đâu mà có?”.

Hồ ly vốn coi bản tiên quân như không khí, nhưng thấy Hoành
Văn cũng nhìn mình, nó đành buồn bực đáp: “Bị một gã người phàm đánh thương”.

Ta nghe mà kinh ngạc không thôi, Cục Lông này chí ít cũng có
cả nghìn năm tu hành, loại người phàm nào mà hung mãnh như vậy, có thể đánh nó
bị thương. Hoành Văn cũng hỏi: “Kẻ đó lai lịch thế nào, sao lại có thể đả
thương ngươi”.

Hồ ly nói bằng giọng khô không khốc: “Không biết hắn lai lịch
thế nào, nhưng hắn lại dám mò tới trước động của ta để ăn trộm cỏ linh chi, ta
bèn ra tay dạy dỗ hắn một phen, nhất thời sơ ý, bị thương nhẹ. Kẻ đó bị ta giam
vào trong động rồi, hình như họ Đan thì phải”.

Thì ra Nam Minh Đế quân một đi không trở lại chẳng phải vì hắn
là loại tình lang bạc bẽo, tàn nhẫn vô tình, mà là bởi đi trộm thuốc chữa bệnh
cho Thiên Xu lại bị hồ ly bắt gọn. Ai da, tình cảm Nam Minh dành cho Thiên Xu,
quả thật khiến bản tiên quân có chút cảm động.

Năm xưa cầm gậy đánh uyên ương thì tàn nhẫn ghê gớm, lúc này
bắt đầu si tình cũng si đến chết người. Than ôi, tình ơi tình hỡi. Nhưng nói thế
thì, sao hắn lại biết đường ăn trộm linh chi tiên mà yêu quái trồng để chữa bệnh
cho Thiên Xu?

Là kẻ nào đã nói cho hắn biết?

Ta hỏi hồ ly: “Sau khi bắt được tên trộm cỏ linh chi đó,
ngươi xử hắn thế nào?”.

Hồ ly nói: “Nhốt lại”.

Ta nói: “Chỉ nhốt thôi à? Hắn trộm mất cỏ tiên của ngươi,
còn khiến cánh tay ngươi bị thương nữa. Ngươi lại không hành hạ cũng không đập
gãy hai tay hai chân hắn cho hả dạ?”.

Hồ ly liếc ta một cái, lạnh giọng đáp: “Không. Từ trước tới
nay ta đều không thích so đo với đám người phàm, chỉ vặn gãy một tay hắn, trói
trong động thôi”. Rồi nó lại đưa mắt ngóng Hoành Văn, “Ta chưa từng làm tổn
thương đến tính mạng của bất cứ người phàm nào”.


Hồ ly đang bộc bạch cái sự thanh cao của mình. Nó nhìn Hoành
Văn, ánh mắt rất thành khẩn, vành tai khẽ run lên, Hoành Văn nở nụ cười, nó liền
mừng vui ra mặt, bộ dạng đang muốn lập tức biến trở lại nguyên hình, nhảy lên đầu
gối Hoành Văn.

Đúng lúc này, ngoài cửa vang lên tiếng bước chân, hồ ly lập
tức biến trở lại nguyên hình, nhảy phốc lên đầu gối của Hoành Văn. Bản tiên
quân liền tóm lấy nhúm lông ở gáy hồ ly, nhấc nó lên, Cục Lông vặn vẹo cơ thể,
lộ ra đám răng nanh sắc bén.

Tiểu nhị đứng ngoài gõ cửa: “Công tử, đạo trưởng, cơm sáng
đã xong rồi, mời hai vị xuống lầu dùng bữa”.

Ta liền kẹp chặt hồ ly dưới nách, sau đó dùng một tay mở cửa
phòng ra, niệm một tiếng đạo hiệu: “Chúng ta sẽ xuống ngay đây, đa tạ, đa tạ”.

Ta đóng cửa lại, hồ ly giãy giụa nhảy xuống đất, lộn một
vòng, hóa lại hình người. Bản tiên quân và Hoành Văn sửa soạn xuống lầu dùng
cơm, trước khi ra khỏi cửa ta còn có lòng hỏi hồ ly một câu: “Có cần mang một
cái bánh bao về cho ngươi không?”.

Hồ ly kiêu ngạo đáp: “Không cần”.

Sau khi dùng xong bữa sáng, bọn ta trở về phòng, ta vốn hi vọng
hồ ly đã trở về hang ổ, ai dè vừa mở cửa ra đã trông thấy một Cục Lông trắng
toát đang cuộn mình trên giường của Hoành Văn, đánh một giấc rất là thích ý.

Hồ ly không chịu trở về hang ổ, còn giải thích bằng lời lẽ
hùng hồn, lí do đanh thép. Hoành Văn Thanh quân đã mua nó trước ánh mắt bao người,
nếu như nó đột nhiên biến mất, sẽ khiến kẻ khác hoài nghi. Nhằm tránh cho Hoành
Văn Thanh quân gặp thêm phiền phức, nó sẽ tạm thời ở lại chỗ này.

Hoành Văn có lẽ cũng cảm động đôi phần trước tấm tình si của
Cục Lông kia, cũng có thể là vì thấy thú vị, đã ngầm đồng ý cho nó ở lại.

Hồ ly rất mừng, bản tiên quân lại có chút âu lo. Năm đó ta
đơn phương thích một người, dỗc gan dốc ruột, biết loại chuyện này càng cố lại
càng gỡ không ra. Chuyện của Thiên Xu và Nam Minh là một minh chứng thê lương sờ
sờ trước mặt. Hoành Văn tuy không đến nỗi giống hai vị ấy, thế nhưng xưa nay hắn
có một cái tật, chính là ham thử cái lạ để tìm niềm vui, vạn nhất hắn đột nhiên
cao hứng, cùng với hồ ly nếm trải tư vị ái tình thì…

Bản tiên quân vừa nghĩ đã rùng mình.

Hơn nữa Thiên Xu còn đang nằm thoi thóp trong phòng, chờ uống
cỏ linh chi. Kim La Linh Chi là thứ hồ ly tặng cho Hoành Văn, nó canh ở chỗ này
thì bản tiên quân làm sao mặt dày mày dạn tới xin Hoành Văn được.

Ta nhìn Hoành Văn và hồ ly, đột nhiên thấy lo lắng, thuận dịp
bèn tới phòng của Thiên Xu xem thử.

Hai gã tiểu nhị đang nhanh tay nhanh chân dọn dẹp trong
phòng Thiên Xu, nghe nói từ tối hôm qua tới giờ, Thiên Xu lại ho ra mấy ngụm
máu nữa. Chủ quán cũng chen chân vào phòng. Ông ta nhìn bản tiên quân bằng ánh
mắt trông mong, nói: “Tối qua đạo trưởng nói sáng nay nhất định sẽ kê được đơn
thuốc, không biết giờ đã có chưa?”.

Bản tiên quân ho khan một tiếng: “Có thì có rồi, nhưng…”.

Tiếng gõ cửa vang lên, một tên tiểu nhị bước vào, trên tay
là một bát nước màu xanh sẫm, “Đạo trưởng, tiểu nhân mang thuốc đến cho ngài
đây”.

Ta còn đang kinh ngạc, đã thấy Hoành Văn bước vào trong
phòng, “Ta đã tính kĩ thời gian để sắc thuốc, ngươi cho hắn uống xem thế nào?”.

Hai gã tiểu nhị đỡ Mộ Nhược Ngôn dậy, cạy khớp hàm y ra, bản
tiên quân múc từng thìa thuốc một, đổ vào miệng Nhược Ngôn. Kim La Linh Chi quả
thực rất có duyên với Mộ Nhược Ngôn, bát thuốc này đút cho y uống cực kì thuận
lợi. Mộ Nhược Ngôn được đặt lại xuống gối, không thấy nhúc nhích gì.

Chủ quán lắp bắp hỏi: “Đạo trưởng, vị công tử này…”.

Hơi thở Mộ Nhược Ngôn đều đặn nhưng không sâu, vẻ sầu khổ
trên gương mặt cũng phai nhạt phần nào, chỉ những khi ngủ say y mới có bộ dạng
thế này.

Vì thế ta liền nói: “Không sao, không sao, tạm thời để vị
thí chủ này yên tĩnh nghỉ ngơi, đợi đến khi tỉnh lại, bệnh sẽ có cơ khỏi hẳn”.

Giấc ngủ này của Mộ Nhược Ngôn kéo dài suốt một ngày một
đêm.

Chủ quán với đám tiểu nhị lo lắng có khi y đã bị bản tiên
quân đầu độc chết rồi cũng nên, ra ra vào vào liên tục để dò hơi thở. Đám người
hầu bàn mai phục khắp nơi: Từ cửa trước cửa sau cho tới cửa sổ, đầu cầu thang,
chỉ sợ ta thừa cơ chạy mất. Thế là những lúc không ngủ, ta bèn kê một cái ghế dựa,
ngồi trước cái bàn trong phòng Mộ Nhược Ngôn, tự đánh cờ với chính mình cho
khuây khỏa, đỡ mất công chủ quán với đám tiểu nhị phải lo lắng phập phồng.

Đêm đến, ta trở về phòng, thoát chân thân ra, tới tìm Hoành
Văn. Hồ ly hiện nguyên hình, ngủ trên một cái gối đặt ở ghế. Ta xách cổ nó lên,
chỉ về hướng căn phòng sát vách: “Thân xác bản tiên quân dùng ban ngày đang nằm
trên chiếc giường trong căn phòng đó. Ngươi có thể đẩy lão xuống đất rồi lên
giường mà ngủ”.

Hồ ly cố sống cố chết bấu chặt móng vuốt vào gối, nói: “Tại
sao không để ta và Thanh quân ở chung ở một phòng?”.

Bản tiên quân nói cực kỳ dứt khoát: “Ngươi có tình cảm với
Hoành Văn Thanh quân. Bản tiên quân sợ ngươi cùng hắn ở cùng phòng sẽ sinh chuyện”.

Hồ ly hóa thành hình người, nở nụ cười lạnh lẽo: “Tống
Nguyên quân suy nghĩ cũng quá xấu xa rồi, ta qủa thật có ngưỡng mộ Thanh quân.
Nhưng nếu Thanh quân không bằng lòng, ta tuyệt đối sẽ không ép buộc người”.

Ta lẩm bẩm trong lòng, đúng, vốn ta cũng không lo nghĩ cái
chuyện ấy. Cái vị Hoành Văn Thanh quân này nào dễ ép buộc, ta muốn còn không được,
huống gì là con yêu quái có chút đạo hạnh như ngươi.

Hoành Văn nằm yên trên giường không thấy động tĩnh gì, phỏng
chừng còn đang hớn hở theo dõi trò vui.

Ta dịu giọng, dùng lí lẽ thuyết phục hồ ly: “Thanh quân và
ta lần này phụng mệnh xuống trần, nhất cử nhất động đều có tiên quan trên trời
theo dõi, giới luật của thiên đình cực kì nghiêm ngặt, nếu hắn và ngươi quá
thân mật với nhau, chỉ sợ sẽ khiến kẻ khác buông lời hiềm nghi”.

Hồ ly khoanh tay trước ngực, ngồi trên ghế, đôi mắt lập lòe
thứ ánh sáng xanh u ám: “Lý do Tống Nguyên quân đưa ra, thứ cho tại hạ không thể
gật bừa. Tống Nguyên quân cùng với Thanh quân đêm đêm ngủ cùng giường, nghe nói
lúc trên thiên đình cũng thường tới phủ của Thanh quân chực ăn chực uống, dường
như Nguyên quân chưa hề bị giới luật nhà trời chạm đến bao giờ. Cho nên theo tại
hạ thấy, quy củ của thiên đình không nghiêm ngặt quá mức như người ta vẫn hay đồn
đại”.

Cái con súc sinh lắm lông này, không ngờ đã kịp đi nghe
ngóng dò hỏi về bản tiên quân với Hoành Văn rồi! Không biết còn nghe được từ
đâu mấy cái chuyện thị phi trắng đen lẫn lộn như thế. Dám bảo bản tiên quân thường
ngày đến chỗ Hoành Văn ăn chực!

Hồ ly nói tiếp: “Chẳng lẽ Nguyên quân lại muốn nói, bởi vì
ta là yêu, còn ngài là tiên, cho nên những việc ngài làm được ta không làm được?”.
Sau đó nó chỉnh trang lại áo choàng cho ngay ngắn, đứng dậy: “Ta đã từng nói
tuyệt đối sẽ không gây phiền phức cho Thanh quân, nếu Nguyên quân đã có lời nhắc
nhở, ta sẽ sang phòng bên để ngủ. Chỉ có điều…”.

Hồ ly đi về phía tường, quay đầu lại, dùng khóe mắt liếc ta:
“Tuy rằng hiện tại ta là yêu quái, nhưng chỉ cần vượt qua một nghìn năm trăm
năm thiên kiếp nữa thôi là có thể thăng thiên thành tiên, lúc cùng ở trên thiên
đình rồi, sự tình thế nào còn chưa biết được”. Nói rồi vung tay áo, xuyên tường,
sang bên căn phòng cách vách để ngủ.

Ta kéo ghế ra rồi ngồi xuống, Hoành Văn thấp giọng nói: “Trước
giờ có thấy ngươi lấn cấn ba cái quy củ của thiên đình thế đâu. Chẳng lẽ chuyện
của Thiên Xu với Nam Minh khiến ngươi giác ngộ ra cái gì rồi?”.

Ta gượng cười: “Cũng gần như vậy”, sau đó nhóm người dậy, bước
tới bên giường: “Đúng rồi, hôm nay may mà có ngươi đưa bát cỏ linh chi đó tới,
cảm ơn ngươi”.

Hoành Văn biếng nhác đáp: “Cứ nhớ ngươi thiếu ta một chầu rượu
là được rồi. Thật ra ta chỉ muốn xem thử, sau khi ngươi trả lại hết nợ cho
Thiên Xu rồi, thì sau này có thể làm ra những chuyện gì”.

Ta nói: “Đương nhiên là Ngọc Đế căn dặn thế nào, Mệnh Cách
an bài ra sao ta liền làm thế đó”. Lại nói, mấy ngày gần đây không thấy có động
tĩnh gì từ lão già Mệnh Cách, kể cũng kỳ quái.

Hoành Văn dịch vào trong một chút, ta nằm xuống mé giường
ngoài, đột nhiên lại nhớ ra một chuyện: “Đúng rồi, không phải Nam Minh còn đang
bị nhốt ở trong động hồ ly sao. Hồ ly ở lỳ tại đây không đi, Nam Minh nhất định
đang chịu đói trong động, ta đã cứu Mộ Nhược Ngôn rồi, vậy có cần làm phước
thêm lần nữa, bảo hồ ly thả hắn ra, cho Nam Minh cùng Mộ Nhược Ngôn diễn một vở
kịch uyên ương đoàn viên không?”.

Hoành Văn nằm bên cạnh ta, thấp giọng cười một tiếng.

Bản tiên quân hỏi hắn, “Ngươi cười cái gì?”. Hoành Văn đáp:
“Cũng không có gì, chỉ thấy câu nói của ngươi thú vị thôi”.

Sau khi trời sáng, ta lại tới phòng của Mộ Nhược Ngôn ngồi,
an ủi trái tim hốt hoảng của chủ quán.

Tiểu nhị mang một bộ cờ tới. Hoành Văn ngồi đánh cờ cùng bản
tiên quân để giải sầu, hồ ly nằm trên ghế cạnh Hoành Văn, đám tiểu nhị đi tới
đi lui, ngó trộm nó liên hồi.

Bản tiên quân đánh cờ với Hoành Văn đã mấy nghìn năm, chưa thắng
được hắn trận nào, ngày hôm nay vẫn phải rầu rĩ nhận thua. Chủ quán ân cần sai
người bê cơm trưa lên tận phòng, bốn đĩa đồ ăn, một vò rượu còn thêm cả một tô
canh nóng hổi.

Tiểu nhị đặt tô canh lên trên bàn, mở nắp ra, trong khoảnh
khắc khi hơi nóng nghi ngút bốc lên, giữa làn khói lờ mờ, ta thấy Mộ Nhược Ngôn
đang nằm trên giường nhúc nhích.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận