Er­agon – Cậu Bé Cưỡi Rồng Full 4 Tập


Buổi sáng, trời xám xịt và gió lạnh như cắt da. Khu rừng chìm trong yên lặng. Sau bữa điểm tâm, Er­agon và ông Brom dập tắt lửa, đeo túi lên lưng, sửa soạn lên đường.
Er­agon treo cung tên bên ngoài ba lô. Tránh mang xách nặng nề, nó buộc chặt yên và kiếm lên lưng Saphi­ra, nhờ cô ả mang dùm cho đến khi mua được ngựa. Vả lại, nó thấy sử dụng một cây gậy còn hiệu quả hơn dùng kiếm.
Sống trong bụi rậm, Er­agon cảm thấy an toàn, giờ bước ra ngoài, nó lo ngại từng hành động. Saphi­ra bay vòng vòng trên đầu. Nhìn ngược về ngôi nhà đổ nát, Er­agon cương quyết nhủ lòng, mình sẽ trở lại nơi đây. Chuyến đi này sẽ không bao giờ là lần ra đi mãi mãi. Một ngày kia, khi bình yên trở lại, mình sẽ về....
Đứng ưỡn ngực, hướng về phương nam, Er­agon đối diện với vùng đất lạ lùng, hoang dã.
Vừa cất bước, nó vừa lo lắng nhìn theo Saphi­ra bay vút về dãy núi xa xa. Kể từ lúc này, dù không có bóng dáng ai, chúng không còn được hàng ngày bên nhau, vì Saphi­ra phải tránh xa tầm mắt của khách lữ hành.
Dấu chân tụi Ra'zac chỉ còn lờ mờ trên mặt tuyết chưa tan, nhưng Er­agon không quan tâm, vì đây là con đường duy nhất để ra khỏi thung lũng này. Tuy nhiên, vừa qua khỏi thung lũng, con đường bỗng chia thành nhiều ngã, khó xác định tụi Ra'zac đã rẽ ngã nào.
Hai người lẳng lặng rảo bước. Mỗi khi vảy đóng vết thương rạn nứt, chân Er­agon lại ri rỉ máu. Để quên sự khó chịu đó, Er­agon lên tiếng hỏi:
- Thật ra, chính xác thì rồng có thể làm được những gì? Ông bảo biết các khả năng của chúng?
- Chính ta cũng không thể nào biết hết được. Đó là một câu hỏi, người ta phải tìm hiểu trong nhiều thế kỷ để có câu trả lời. Vì vậy, cháu phải hiểu là, những gì ta nói với cháu là vẫn chưa đầy đủ. Nhưng trước khi ta có thể thật sự trả lời câu hỏi của cháu, cháu cần phải qua những bài học căn bản về rồng. Như vậy sẽ không bị rối trí vì đi tắt vào vấn đề đầy phức tạp này. Ta sẽ bắt đầu bằng chu trình sinh sống của loài rồng, sau đó, nếu cháu chưa chán, ta sẽ tiến sang đề tài khác.
Rồi ông cắt nghĩa rồng phối giống ra sao và cho trứng nở thế nào:
- Ngay từ lúc rồng đẻ trứng, thì con rồng sơ sinh đã ở sẵn trong trứng rồi. Nhưng nó đợi, có khi hàng nhiều năm, tới khi gặp tình huống thích hợp. Khi rồng còn sống ngoài thiên nhiên, tình huống này chỉ có nghĩa là lương thực. Nhưng từ khi chúng trở thành một đồng minh của thần tiên, một số trứng được tuyển chọn, thường thì không hơn một vài trứng, để trao cho các Kỵ Sĩ hàng năm. Những trứng này, hay nói rõ hơn là những rồng con này, sẽ chui ra khỏi vỏ khi gặp đúng người sẽ là Kỵ Sĩ của nó. Vì sao chúng nhận ra được điều đó, vẫn là một bí mật. Các Kỵ Sĩ phải xếp hàng vuốt ve quả trứng, hy vọng nó sẽ lựa chọn mình.
- Ông có ý bảo là Saphi­ra đã lựa chọn cháu?
- Rất có thể, nếu nó không thích cháu, quả trứng đã không nở ra.
Er­agon cảm thấy hãnh diện, vì Saphi­ra đã chọn nó, trong số biết bao người dân ở Ala­gae­sia. Nó tự hỏi con rồng này đã chờ đợi bao lâu, rồi rùng mình với ý nghĩ Saphi­ra đã phải sống trong tối tăm tù túng suốt thời gi­an dài dằng dặc.
Nó lắng nghe ông giảng tiếp. Ông cắt nghĩa, rồng ăn gì và khi nào. Một con rồng trưởng thành, không hoạt động có thể nhịn ăn trong nhiều tháng. Nhưng vào mùa kết đôi bạn, chúng phải ăn hàng tuần. Có vài loại thực vật có thể chữa lành bệnh cho chúng, nhưng lại có những cây cỏ khác làm chúng bị đau ốm. Chúng có rất nhiều cách để săn sóc móng vuốt và bộ vảy.
Ông cũng dạy Er­agon những phương pháp cần sử dụng khi bị rồng tất công và phải làm gì khi chiến đấu với một con rồng, kể cả khi người ta ở trên mặt đất, trên lưng ngựa hay đang cưỡi trên một con rồng khác. Phần bụng của chúng như áo giáp, nhưng phía dưới nách là yếu điểm. Ông Brom vui mừng vì Er­agon luôn đưa ra những thắc mắc. Và nhờ chuyện trò, thời gi­an qua nhanh.
Buổi chiều họ đã gần tới Therins­ford. Xâm xẩm tối, khi tìm nơi cắm trại qua đêm, Er­agon hỏi:
- Kỵ Sĩ nào là chủ nhân của thanh kiếm Zar'roc này?
- Một chiến sĩ vĩ đại. Trong thời đại của ông, danh tiếng ông lừng lẫy và rất được kính sợ.
- Tên ông ta là gì?
- Ta không nói. Không phải ta muốn giấu cháu, nhưng có những hiểu biết sẽ chỉ đem lại nguy hiểm cho cháu vào lúc này. Chỉ khi nào cháu có đủ thời gi­an và uy lực để chịu đựng và giải quyết, ta sẽ nói.
- Ông biết không? Cháu thấy ông khoái chơi trò cút bắt. Trong khi cháu vẫn có ý chia tay với ông, vì vậy cháu không cần. Ông muốn nói gì, cứ nói thẳng ra, đừng loanh quanh mập mờ với cháu như vậy nữa.
- Bình tĩnh. Tất cả sẽ được ta nói hết, khi đúng thời điểm của nó.
Er­agon làu bàu nhưng không nài nỉ thêm. Lúc hạ trại và nổi lửa nấu ăn, Saphi­ra cùng đến nhập bọn. Er­agon hỏi: “Nếu hai người cứ đi như rùa bò thế này, em dư thời gi­an bay qua biển rồi trở lại.”
“Đừng làm phách, có ngựa tụi này sẽ đi nhanh hơn cho biết.”
“Có thể, nhưng kịp bắt tụi Ra'zac không? Chúng đi trước ta nhiều ngày rồi. Em còn sợ là chúng đã biết ta đang theo dõi. Chúng tàn phá trại nhà mình thẳng tay như vậy làm gì? Nếu không ngoài mục đích khiêu khích để anh tức giận mà đuổi theo?”
Er­agon bực bội ngồi dựa vào cái bụng ấm áp của con rồng. Brom ngồi bên kia đống lửa, căm cụi đẽo gọt hai cành cây dài. Thình lình ông phóng một cây về Er­agon, nó vội đưa tay bắt lấy. Ông đứng vụt dậy, kêu lớn:
- Tự vệ đi.
Er­agon nhìn cây gậy giống như một thanh kiếm trong tay, ngẫm nghĩ, ông ta muốn đánh nhau với mình à? Chơi trò gì thế này? Được, nhưng ông ta tưởng đánh lại mình, ông sẽ phải ngạc nhiên.
Nó vội đứng lên, khi thấy ông già vòng qua đống lửa, tiến tới. Hai người đối diện nhau, rồi ông lão vung gậy tấn công. Er­agon đưa gậy đỡ, nhưng không kịp. Nó thét lên, khi mũi gậy của ông ta đâm trúng sườn nó, rồi rút ngay về.
Không nghĩ ngợi, nó nhào tới. Ông nhẹ nhàng né tránh. Er­agon vung gậy trên đầu ông, rồi cấp kỳ đổi hướng, xoay đầu gậy, đâm thẳng vào sườn đối thủ. Tiếng hai cây gậy chan chát đập vào nhau. Ông già khoái chí kêu lên:
- Rất nhanh! Khá lắm.
Cây kiếm gỗ trong tay ông thấp thoáng chuyển xoay và một đường kiếm đập trúng đầu Er­agon, nó như nổ đom đóm mắt, lăn đùng xuống đất.
Khi được tạt nước lạnh, Er­agon mới hồi tỉnh, gượng ngồi dậy, mặt dính máu. Ông già Brom đứng trước mặt nó với một soong tuyết đã tan. Er­agon tức giận xô ông ra:
- Ông không phải làm thế.
- Ồ, một kẻ thù thực sự có khi nào lại vỗ về kẻ nó đã đánh. Ta cũng vậy. Hay ta phải tán dương kẻ bại trận để làm hắn vui lòng? Chắc là không rồi. Nào, tự vệ đi.
Ông nhặt lên cây gậy đưa cho nó. Er­agon nhìn lom lom cây kiếm gỗ, quay lưng lại, gắt:
- Quên đi, như vậy đủ rồi.
- Không bao giờ được quay lưng lại kẻ thù.
Vừa nói, ông vừa quăng gậy cho Er­agon và tiếp tục tấn công. Nó rút lui ra sau đống lửa. Brom la lên:
- Thu tay về, thấp đầu gối xuống.
Ông hướng dẫn nó một vài động tác di chuyển chính xác. Căn dặn nó lập lại chậm rãi nhiều lần. Sau đó là những động tác nhanh nhẹn, rắc rối hơn, trước khi hai người quyết đấu trở lại. Er­agon học rất mau, nhưng dù cố gắng thế nào, nó vẫn không chống đỡ nổi ông sau vài đường kiếm.
Chấm dứt buổi tập, Er­agon lăn trên chăn, rên rẩm. Toàn thân nó đau nhức, ông ta đã không hề nương tay với nó.
Saphi­ra ho sù sụ như bà già, môi cong lên, nhe hàm răng trắng nhởn. Er­agon bực mình gắt: “Làm trò gì vậy?”
“Có gì đâu. Thấy chàng trai không đánh lại được một ông già, buồn cười quá.”
Ả lại rặn ra mà sù sụ ho. Er­agon ngượng đỏ mặt, khi biết là ả đang “cười” chọc quê. Nó làm mặt nghiêm, trùm chăn ngủ.
Hôm sau còn tệ hại hơn. Hai cánh tay nó đầy vết bầm tím. Toàn thân ê ẩm đến không nhúc nhích được. Đã thế, ông già còn ngắm nghía “thành quả”, mủm mỉm cười:
- Cháu khỏe không?
Er­agon càu nhàu, ráng ăn cho xong bữa điểm tâm.
Ra tới đường, hai người cắm cúi đi cho kịp tới Therins­ford trước buổi trưa. Qua khoảng một dặm, đường đi rộng rãi hơn, xa xa đã nhìn thấy khói. Ông già bảo:
- Cháu nên bảo Saphi­ra bay qua khỏi Therins­ford trước, và đợi chúng ta ở đó. Dặn nó thận trọng, đừng để ai nhìn thấy.
- Sao ông không tự nói với nó?
- Như thế không được lịch sự lắm đối với con rồng của người khác.
- Ở Car­va­hall ông vẫn nói với nó, có vấn đề gì đâu.
- Đó là vì tình thế bắt buộc thôi.
Nhìn ông cười cười, Er­agon phát bực, nhưng cũng chuyển chỉ thị cho Saphi­ra. Saphi­ra cũng chuyển cảnh giác trở lại: “Thận trọng. Bề tôi của triều đình có thể ẩn núp khắp nơi.”
Họ đã nhìn thấy những dấu bánh xe hằn sâu trên đường và nhiều dấu chân người. Therins­ford lớn hơn Car­va­hall nhưng nhà cửa xây dựng không ra hàng lối nào.
- Lộn xộn quá.
Er­agon nói. Nó không thể đến nhà máy xay của Demp­ton để tìm Ro­ran. Chắc lúc này Al­briech và Bal­dor đã gặp anh họ nó rồi.
Một cây cầu bắc qua sông Ano­ra, dẫn vào thành phố. Hai người vừa bước lên cầu, một gã đàn ông lem nhem bỗng từ trong bụi cây tiến ra đứng chặn đường. Cái áo sơ mi ngắn cũn cỡn, phơi ra cái bụng phệ dơ dáy, lòi ra khỏi cạp quần. Sau cặp môi nứt nẻ, hàm răng cải mả đưa ra khi gã ngọng nghịu lên tiếng:
- Ông ược ép ua ầu. Ải ả iền.
- Bao nhiêu?
Ông Brom hỏi và lấy bóp ra. Gã giữ cầu mắt sáng lên:
- Ăm.
- Năm?
Er­agon nổi nóng vì cái giá vô lý, vừa định lên tiếng phản đối, ông Brom liếc nhanh nó. Gã giữ cầu lanh lẹ đút tiền vào cái túi đeo bên hông, cười nham nhở.
- Ám ơn.
Ông già Brom bước lên, vấp ngã, vội nắm cánh tay gã. Gã giữ cầu làu nhàu quay đi. Ông già nói xin lỗi, rồi tiếp tục qua cầu. Er­agon hỏi:
- Gã ấy trấn lột ông chứ giữ cầu gì. Mình xô nó mà đi cũng được.
- Chắc thế.
- Vậy sao ông lại trả tiền?
- Vì người ta không thể nói phải quấy với tất cả những thằng dở hơi trên đời. Tốt hơn, cứ để chúng tưởng bở, rồi mình chơi xỏ lại.
Ông xoè bàn tay, những đồng tiền lấp lánh sáng.
- Ồ, ông cắt túi hắn à?
Ông nháy mắt, cất tiền vào túi:
- Còn nhiều hơn số ta bỏ ra. Đây là bài học cho hắn phải biết cách cất tiền.
Ông nắm vai một đứa con trai vừa đi ngang hỏi:
- Cháu có biết chỗ nào bán ngựa không?
Thằng nhỏ chỉ một chuồng ngựa gần ngọai ô Therins­ford. Ông cám ơn và cho nó một đồng tiền.
Hai cánh cửa mở lớn dần vào hai dãy chuồng. Cuối nhà là một bức tướng treo đầy yên cương. Một người đàn ông bắp thịt tay cuồn cuộn, đang chải lông con ngựa chiến màu trắng. Hắn đưa tay lên vẫy chào.
Hai người tiến lại, ông Brom lên tiếng:
- Con ngựa đẹp quá.
- Đúng vậy. Tên nó là Hỏa Tuyết. Còn tôi là Haberth.
Vừa nói, hắn vừa đưa bàn tay chai sần nồng nhiệt bắt tay hai người khách. Không thấy khách xưng tên, hắn hỏi tiếp:
- Quí vị cần gì nào?
Brom nói:
- Chúng tôi cần hai con ngựa, với đầy đủ yên cương. Nhưng vì đường xa, chúng tôi cần ngựa khoẻ, chạy nhanh.
- Hàng hiếm đấy và không rẻ đâu.
- Giá cả không thành vấn đề. Tôi muốn mua những con tốt nhất.
Haberth gật đầu, buộc con Hoa Tuyết vào thân cột, rồi lại tường lấy hai bộ yên cương, chất một đống. Sau đó, hắn vào chuồng dắt ra hai con ngựa. Một con sắc hồng, một con lang. Hắn gi­ao sợi dây cột con ngựa hồng cho ông già, nói:
- Nó là con tiểu quỉ đó. Nhưng dưới bàn tay cứng rắn của ông thì lại rất tốt.
Brom đưa bàn tay cho con ngựa ngửi và nó yên lặng để ông vuốt ve da cổ.
- Tôi lấy con này, còn con kia chưa chắc lắm.
- Bộ giò của con kia mới ngon lành chứ.
- À...còn con Hoa Tuyết thì sao?
Hắn âu yếm nhìn con ngựa chiến:
- Không bán được. Chưa bao giờ tôi kiếm được một con như nó. Để gây giống chứ.
- Nếu ông vui lòng nhượng lại cho tôi, thì giá bao nhiêu?
Er­agon thử đưa tay chạm vào con ngựa hồng, nhưng con vật tránh đi. Vô tình nó tập trung tư tưởng để trấn an con vật, bỗng nó đờ người kinh ngạc, vì đã gi­ao cảm được với con ngựa hồng. Sự liên lạc không rõ ràng, sắc sảo như với Saphi­ra, nhưng vẫn đủ để con vật biết nó là bạn. Con ngựa đứng yên, mắt ươm ướt nhìn Er­agon.
Haberth bấm tay tính toán, rồi ra giá:
- Hai trăm, không kém.
Hắn cười cười tin chắc chẳng ma nào bỏ ra cả đống tiền nhiều đến thế. Nhưng ông Brom lẳng lặng lấy một cọc tiền, đưa ra hỏi:
- Được chứ?
Gả chủ trại ngựa thẫn thờ hết nhìn đống tiền lại nhìn con ngựa cưng, rồi thở dài, nói:
- Nó thuộc về ông, nhưng thật tình tôi ép lòng bán đó.
- Tôi sẽ đối xử với nó như nó thuộc giòng giống của Gild­in­tor, con chiến mã lừng danh trong thần thoại.
- Nghe ông nói làm tôi cũng vui lòng.
Gã hơi cúi đầu, trao yên cương cho khách:
- Xin chào. Nhờ có con Hỏa Tuyết, tôi mong quí khách đi đường bằng an.
- Ông đừng lo, tôi sẽ chăm sóc nó thật tốt.
Nói rồi, ông trao dây cương con Hỏa Tuyết cho Er­agon:
- Đi xa khỏi Therins­ford, chờ ta.
- Nhưng tại sao?
Ông không trả lời, đi vội về hướng khác.
Er­agon bối rối đi dọc đường phố Therins­ford cùng hai con ngựa. Nơi phía nam, núi Ut­gart mơ hồ ẩn hiện như một trụ đá khổng lồ tận cùng thung lũng. Đỉnh của nó vút lên, chìm khuất trong mây, sừng sững cao hơn những ngọn núi bao quanh. Vẻ ảm đạm tối tăm của nó làm Er­agon rởn da gà.
Một lát sau, ông Brom trở lại, ra hiệu cho nó theo. Hai người lẳng lặng đi cho tới hi Therins­ford chìm khuất sau những hàng cây, ông già mới lên tiếng:
- Chắc chắn tụi Ra'zac đã qua đường này. Rõ ràng chúng đã ngừng lại đây lấy ngựa như chúng ta. Một người đã nhìn thấy chúng, vừa kể lại hắn vừa run lên khiếp sợ, hắn cho ta biết tụi Ra'zac đã phóng ngựa ra khỏi nơi này như ma quỉ chạy trốn thần linh vậy.
- Khi ở trong chuồng ngựa, cháu vô tình liên lạc được với con ngựa hồng này. Cháu không ngờ làm được như vậy.
- Còn ít tuổi như cháu mà có khả năng đó, thật kỳ lạ. Hầu hết Kỵ Sĩ phải tập luyện nhiều năm mới có thể liên lạc được với bất cứ gì khác, ngoài loài rồng.
Ông trầm ngâm ngắm nghía con Hỏa Tuyết, rồi bảo:
- Bỏ hết đồ đạc của cháu trong ba lô vào túi yên, rồi buộc chặt ba lô lên trên.
Trong khi Er­agon thu xếp, ông nhảy lên lưng Hỏa Tuyết. Er­agon nhìn con ngựa hồng, nhỏ hơn Saphi­ra đến nỗi Er­agon tự hỏi nó có chở nổi mình không? Thở dài, nó vụng về thắng yên. Từ trước tới giờ Er­agon chỉ cưỡi ngựa không yên và có bao giờ được cưỡi đi xa đâu. Nó hỏi ông già:
- Liệu cháu có bị thương như cưỡi Saphi­ra không?
- Vết thương của cháu sao rồi?
- Bớt nhiều, nhưng cháu sợ nếu đụng chạm mạnh, khi phóng nhanh, sẽ bị rách lại.
- Chúng ta sẽ đi chầm chậm thôi.
Chẳng bao lâu cảnh vùng quê dần dần thay đổi, những cánh đồng hoang thay thế ruộng vườn. Cỏ dại, hồng gai tràn lan hai bên đường, móc víu quần áo hai người. Mặt đất lô nhô những tảng đá lớn. Một vùng tràn ngập không khí lạnh lùng ác cảm, như chống lại những người khách không mời. Càng tới gần, núi Ut­gart càng hiện ra hùng vĩ hơn, những dốc đứng nứt nẻ của nó, hoăm hoắm những rãnh khe đầy tuyết. Màu đá núi đen, hút ánh sáng như bọt biển hút nước, làm cả một vùng chung quanh tối om om. Giữa Ut­gart và những rặng núi khác, ở phía đông thung lũng Palan­car, một lối đi nằm dưới chân những ngọn núi cao thăm thẳm. Đó là lối đi duy nhất ra khỏi thung lũng. Con đường này dẫn đến đó.
Vó ngựa lách cách trên mặt đá, đường hẹp lại như một đường mòn khi tiến gần đến chân núi Ut­gart. Er­agon ngước nhìn đỉnh núi mờ mờ trên cao, nó giật mình khi thấy một lầu chuông chon von trên đó. Tuy đã bị đổ vỡ và không được sửa chữa gì, nhưng tháp chuông vẫn như một người lính gác nghiêm khắc nhìn suốt thung lũng palan­car. Er­agon chỉ tay hỏi:
- Cái gì kia hở ông?
Ông già không nhìn lên, nhưng buồn rầu, cay đắng nói:
- Một tiền đồn của Kỵ Sĩ...một căn cứ tồn tại từ khi họ mới được thành lập. Đó là nơi Vrael ẩn thân, và cũng là nơi ông bị phản bội, rồi bị Gal­ba­torix phát hiện và đánh bại. Edoc'sil, có nghĩa “Bất Khả Chinh Phục”, là tên của pháo đài này, vì núi non quá dốc, không kẻ nào có thể lên tới đỉnh, chỉ trừ khi có thể...bay. Sau cái chết của Vrael, dân gi­an gọi nơi này là Ut­gart, nhưng nó còn một tên khác nữa, Rist­vak'baen, nghĩa là “Núi Tiếc Thương”. Tên này tồn tại cho đến Kỵ Sĩ cuối cùng bị nhà vua giết chết.
Er­agon kinh hãi ngắm nhìn. Đây là dấu tích hiển nhiên về một thuở huy hoàng hiến hách của những trang Kỵ Sĩ, mà thời gi­an không thể xóa nhòa. Nó bàng hoàng tự hỏi, các Kỵ Sĩ sống bao nhiêu tuổi? Er­agon cảm thấy cả một di sản đầy truyền thống hào hùng từ thiên cổ bao trùm lên nó.
Hai người đi quanh Ut­gart suốt nhiều giờ. Khi qua khoảng trống, giữa sườn núi phải, vòi vọi cao như một bức tường thành vững chắc, tách rời khỏi những rặng núi khác, Er­agon đứng trên bàn đạp, cố nhìn phong cảnh bên ngòai thung lũng Palan­car. Một lát sau hai người tới một con đường dốc, dẫn tới sông Ano­ra. Mặt trời chìm xuống phía sau, hai người mới lên tới một gò cao, có thể ngắm nhìn khung cảnh bao la phía dưới.
Er­agon giật mình thảng thốt. Hai bên là núi, nhưng phía dưới, đồng hoàng mênh mông trải dài tít tấp tới chân trời. Toàn một màu nâu như cỏ úa. Nó hiểu vì sao ông già khăng khăng mua ngựa. Nếu đi bộ, hai ba tháng trời mới có thể vượt qua được cánh đồng thăm thẳm kia. Tuốt trên bầu trời, Er­agon thấy Saphi­ra đang bay vòng vòng, ở độ cao để người ta có thể lầm nó là một con chim.
- Ta phải nghỉ lại đây tối nay. Sáng mai mới xuống được, vì từ đây tới dưới kia mất cả ngày trời.
- Cánh đồng này rộng cỡ nào, hả ông?
- Tùy theo hướng đi. Chúng ta cưỡi ngựa thì mất khoảng ba ngày. Nơi này, ngoài một bộ lạc du mục lang thang trên đồng cỏ, gần như không có dân cư, giống như sa mạc Hadarac vậy. Khó lòng kiếm được một xóm làng. Tuy vậy, càng về miền nam, đất đỡ cằn cỗi hơn, nên dân cư đông đúc hơn.
Rời con đường mòn, hai người tới bờ sông Ano­ra. Vừa tháo yên cương, ông Brom vừa chỉ con ngựa hồng, bảo Er­agon:
- Cháu phải đặt tên cho nó chứ.
Nó nghĩ ngợi rồi nói:
- Cháu không nghĩ được tên nào hay như con Hỏa Tuyết, nhưng có một tên chắc cũng được. Này, tao đặt ày tên Cadoc nhé. Tên của ông ngoại tao đó.
Ông già gật đầu đồng ý, nhưng Er­agon cảm thấy cái tên hơi kỳ cục.
Khi Saphi­ra hạ cánh, Er­agon hỏi: “Đồng hoang thế nào?”
“Chán chết, toàn là thỏ với mấy bụi cây vớ vẩn.”
Vừa xong bữa tối, ông già đứng ngay dậy, hét:
- Bắt lấy.
Er­agon chỉ kịp chộp thanh kiếm gỗ suýt bay thẳng vào đầu nó. Biết lại phải tập kiếm, nó rên lên:
- Thôi mà.
Nhưng địch thủ già của nó cứ vừa cười vừa ngoắc. Er­agon uể oải đứng lên. Một già một trẻ quay cuồng quần thảo, tiếng kiếm gỗ vun vút như gió rít, cho đến khi Er­agon rút lui với một cánh tay nhức buốt.
Bài tập hôm nay ngắn hơn, nhưng cũng đủ cho Er­agon lãnh thêm một số “chiến tích” bầm dập mới. Nó đau đớn quăng kiếm xuống đất, tìm chỗ...tự điều trị vết thương.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui