Khi chúng tôi ngồi vào trong chiếc cu-pê cùng với Tom đi về Long Island thì đã bảy giờ tối. Tom nói luôn miệng, cười hể hả, nhưng tiếng anh đối với Jordan và tôi xa xôi như những tiếng ồn ào xa lạ trên hè đường và tiếng ầm ầm của đường xe lửa trên cao chạy qua đầu chúng tôi. Sự thiện cảm của con người có những giới hạn của nó. Chúng tôi bằng lòng để cho tất cả những lí lẽ bi thảm của những giới hạn ấy phai mờ đi cùng với những ánh đèn thành phố đằng sau. Ba mươi tuổi – sự hứa hẹn của một thập niên cô đơn, một danh sách ngắn dần những người bạn độc thân quen biết, một cái cặp đựng nhiệt tình mỏng dần, mái tóc thưa thớt dần. Nhưng có Jordan bên tôi, không như Daisy, cô này khá khôn ngoan để khỏi bao giờ chở những giấc mơ đã quên hẳn từ thời đại này sang thời đại khác. Lúc xe chạy trên mặt cầu tối đen, gương mặt uể oải của Jordan lười biếng ngả lên vai áo tôi và những tiếng chuông điểm ghê gớm của tuổi ba mươi lặng tan dần khi bàn tay cô ta nắm chặt lấy tay tôi.
Chúng tôi cứ thế lao về phía cái chết trong cảnh trời chạng vạng đang dịu mát dần.
Anh thanh niên Hy Lạp Michaelis, mở quán ăn gần mấy cái đồi đất tro, là nhân chứng chính trong cuộc điều tra. Lúc trời nóng, Michaelis ngủ suốt cho đến năm giờ chiều mới dậy và đi tha thẩn sang chơi bên hiệu sửa chữa xe hơi. Michaelis thấy George Wilson ốm ngồi trong phòng giấy – ốm thực sự, nước da nhợt nhạt như mái tóc nhợt nhạt của ông ta và toàn thân run lẩy bẩy. Michaelis khuyên Wilson lên giường nằm nhưng ông ta không nghe, bảo rằng nằm sợ bỏ lỡ mất công việc. Trong khi anh láng giềng cố thuyết phục ông ta thì trên gác có tiếng đập phá ầm ĩ. Wilson thản nhiên giải thích:
- Tôi nhốt bà nhà tôi ở trên ấy. Bà ấy sẽ phải cứ ở yên đấy cho đến ngày kia khi chúng tôi đi khỏi đây.
Michaelis kinh ngạc. Láng giềng với nhau bốn năm trời, Michaelis chưa bao giờ thấy Wilson tỏ ra có khả năng, dù chỉ là đôi chút, nói năng như vậy. Nhìn chung, Wilson thuộc loại người đã tàn tạ, bạc nhược: khi không có việc gì làm thì ông ta lấy ghế ra ngồi ở bậu cửa nhìn người và xe qua lại trên đường. Hễ có ai nói chuyện với mình là ông ta cười lấy lòng nhạt nhẽo. Ông ta là một người nhu nhược, sợ vợ.
Vì thế, cố nhiên Michaelis cố tìm hiểu xem có chuyện gì nhưng Wilson không chịu hé răng nói một lời nào mà lại nhìn người láng giềng với con mắt nghi ngờ kì quặc và căn vặn anh ta đã làm gì vào những giờ nào giờ nào đó trong những ngày nào ngày nào đó. Vừa lúc Michaelis bắt đầu thấy khó chịu thì có mấy người thợ đi qua cửa về phía quán ăn nên anh ta nhân cơ hội ấy bỏ về, định bụng sẽ quay lại sau. Nhưng Michaelis không quay lại. Anh ta cho rằng có lẽ mình quên, đơn giản thế thôi. Lúc Michaelis lại ra ngoài đường, sau bảy giờ tối một chút, anh ta nhớ lại câu chuyện khi nãy vì nghe thấy tiếng bà Wilson quát tháo ở tầng dưới bên nhà xe.
Michaelis nghe thấy bà ta kêu toáng lên:
- Đánh tôi đi! Cứ đè tôi ra mà đánh tôi đi, đồ hèn nhát, dơ bẩn!
Một lát sau, bà ta chạy vọt ra cảnh trời hoàng hôn bên ngoài, vừa vung tay, vừa kêu la – Michaelis chưa kịp rời khỏi khung cửa nhà anh thì sự việc đã diễn ra xong.
“Chiếc xe tai hoạ” như các báo sau đó gọi, đã không đỗ lại. Nó từ trong bóng tối đang sẫm dần lao ra, lảo đảo một cách bi thảm một lát rồi mất hút sau một khúc đường vòng. Michaelis thậm chí không dám quả quyết về màu xe – anh ta khai với người cảnh sát đầu tiên đến nơi là chiếc xe màu lá mạ. Còn chiếc xe hơi kia, chiếc chạy ngược về phía New York thì đỗ lại cách nơi xảy ra tai nạn độ một trăm thước. Người lái xe lao vội đến chỗ Myrtle Wilson đang nằm gục giữa lòng đường và hoà dòng máu sền sệt đen sẫm của mình vào lớp bụi, sự sống đã bị dập tắt phũ phàng.
Michaelis và người đàn ông kia là những người đầu tiên chạy đến chỗ Myrtle. Khi họ xé toang ngực áo còn đẫm mồ hôi của bà ta, họ thấy cả một bên ngực trái đã bị xé toạc hẳn ra, lủng lẳng như một cái nắp, và không cần phải nghe xem bên dưới tim còn đập hay không nữa. Miệng bà ta há hốc và rách một tí ở hai bên mép tưởng đâu bà ta đã hơi bị nghẹn khi trút ra ngoài cái sức sống mãnh liệt đã bị giam hãm trong người quá lâu.
*
* *
Ngay từ lúc còn cách xa một quãng, chúng tôi đã thấy ba bốn chiếc xe hơi và đám người đông đúc.
- Xe đổ! – Tom nói. – Tốt thôi. Wilson cuối cùng có chút việc làm.
Tom cho xe chạy chậm lại nhưng vẫn không định đỗ hẳn cho đến khi lúc xe tới gần hơn, vẻ mặt nín lặng và đăm chiêu của những người đứng bên cửa hiệu sửa chữa xe làm anh bất giác dận chân phanh.
Tom nghi hoặc:
- Ta vào nhìn xem sao, nhìn loáng một cái thôi.
Bây giờ tôi mới nhận ra một tiếng rền rĩ khàn đục không ngớt từ trong nhà vọng ra: khi chúng tôi xuống xe bước về phía cửa thì tiếng đó rõ thành những tiếng: “Ối giời ôi” nức nở, ai oán, lặp đi lặp lại mãi.
- Có chuyện nghiêm trọng đây, – giọng Tom lo lắng.
Anh kiễng chân nhìn qua đầu một đám người vào bên trong nhà xe đang leo lét mỗi một ngọn đèn vàng khè đặt trong một cái rổ sắt đung đưa phía trên đầu. Rồi thốt lên một tiếng đùng đục trong họng. Tom gạt mạnh hai cánh tay lực lưỡng lấy chỗ lách người vào. Vòng người khép ngay lại sau lưng Tom với những lời phỏng đoán rì rầm. Tôi định thần mất một phút mới nhìn ra. Rồi vòng người lại bị xáo trộn vì những kẻ hiếu kì mới đến và Jordan với tôi bỗng dưng được đẩy lọt vào bên trong.
Thi thể Myrtle Wilson, bọc trong một tấm chăn, rồi lại bọc trong một tấm chăn khác tưởng đâu bà ta bị cảm lạnh trong đêm nóng nực này, được đặt nằm trên một cái bàn máy kê cạnh tường, và Tom đang cúi xuống thi thể ấy, quay lưng lại chúng tôi, người không nhúc nhích. Đứng cạnh Tom là một viên cảnh sát đi môtô đang ghi vào một cuốn sổ những tên người với nhiều mồ hôi và những chỗ dập xoá. Thoạt tiên, tôi không hiểu những tiếng rên rỉ vang to trong nhà xe trống trơ là ở đâu ra, mãi sau tôi mới nhìn thấy Wilson đang đứng ở bậc cửa phòng giấy của ông, hai tay bíu lấy trụ cửa, người ngật ngà ngật ngưỡng. Có ai đó đang nói nho nhỏ với ông và thỉnh thoảng toan đặt tay lên vai ông, nhưng Wilson không nghe và không nhìn thấy gì hết. Mắt ông hết nhìn ánh đèn chao đảo rồi lại từ từ cụp xuống nhìn chiếc bàn máy cạnh tường, rồi lại giật lên nhìn ngọn đèn, không ngừng rền rĩ những tiếng kêu the thé, ghê sợ:
- Ối giời ôi! Ối giời ôi! Ối giời ôi! Ối giời ôi!
Bây giờ thì Tom bắt đầu ngẩng lên, nhìn khắp nhà xe một lượt với con mắt thẫn thờ rồi lúng búng một câu gì nghe không rõ với người cảnh sát.
- “M-a-y-o-” – viên cảnh sát đánh vần.
- Không phải, r-, người kia chữa lại, “M-a-y-r-o-”,
- Tôi hỏi cái này, – Tom sẵng giọng lầm bầm.
- “r-o-”, người cảnh sát nói tiếp.
- “g-”
- “g-” người cảnh sát ngẩng đầu lên khi bàn tay to bè của Tom vỗ mạnh lên vai anh ta. – Ông bạn muốn gì?
- Chuyện gì thế? Cho tôi hỏi chuyện gì thế?
- Ô-tô đâm. Bà ta chết ngay tức khắc.
- Chết ngay tức khắc, – Tom nhắc lại, mắt trợn tròn.
- Bà ta lao người ra đường. Thằng khốn kiếp không thèm đỗ xe lại.
- Có hai chiếc xe, – Michaelis kể, – một xe đến, một xe đi, ông hiểu không.
- Đi đằng nào? – Viên cảnh sát hỏi giật giọng.
- Hai xe đi ngược chiều nhau. Bà ta, – bàn tay Michaelis giơ lên trỏ về phía những tấm chăn nhưng dừng lại nửa chừng và rơi thõng xuống bên người, – bà ta chạy xô ra ngoài và chiếc xe từ New York lại đâm đúng bà ta, nó chạy tới ba mươi hoặc bốn mươi dặm một giờ.
- Địa điểm này tên là gì nhỉ? – viên cảnh sát hỏi.
- Không có tên.
Một người da đen ốm yếu, ăn mặc chỉnh tề, bước lại gần:
- Đó là một chiếc xe màu vàng, một chiếc xe to sơn vàng. Mới toanh.
- Ông chứng kiến tai nạn à? – Viên cảnh sát hỏi.
- Không nhưng chiếc xe ấy đã vượt xe tôi trên đường. Nó chạy hơn bốn mươi. Tới năm mươi, sáu mươi dặm một giờ.
- Ông lại đây và cho biết tên. Lui ra nào, để tôi ghi tên ông này.
Wilson đứng lảo đảo ở cửa phòng giấy có lẽ nghe lõm bõm được những câu hỏi này vì bỗng dưng một chủ đề mới được thể hiện thành lời giữa những tiếng kêu than ngắt quãng của ông.
- Không cần bảo, tôi cũng biết nó là loại xe nào! Tôi biết nó là loại xe nào rồi.
Nhìn Tom, tôi thấy mảng thịt sau vai anh nổi cục lên dưới lớp áo vét-tông. Tom bước nhanh lại chỗ Wilson, đứng ngay trước mặt ông ta, nắm chặt lấy cánh tay ông ta.
- Bình tĩnh lại nào, – Tom khuyên giải một cách thô lỗ.
Con mắt Wilson nhìn vào Tom. Ông ta rướn người lên trên đầu ngón chân rồi có lẽ đã khuỵu xuống nếu không có Tom đỡ.
- Nghe này, – Tom hơi lay người ông ta. – Tôi vừa mới tới đây được một phút, từ New York tới. Tôi đem đến cho ông chiếc cu-pê mà ta đã nói với nhau. Chiếc xe vàng chiều nay không phải là xe của tôi... ông có nghe hiểu không? Tôi không nhìn thấy nó suốt chiều nay.
Chỉ có người da đen và tôi là đứng khá gần để có thể nghe được những lời Tom nói, nhưng người cảnh sát nhận thấy có cái gì là lạ trong giọng Tom nên ngẩng dầu lên, trợn mắt hỏi:
- Chuyện gì đấy hả?
- Tôi là bạn ông ấy, – Tom ngoái đầu lại nhưng tay vẫn giữ chặt lấy người Wilson. – Ông ấy bảo ông ấy biết chiếc xe đã... Đó là một chiếc xe sơn vàng.
Một sự linh cảm lờ mờ khiến người cảnh sát nhìn Tom ngờ vực:
- Xe ông màu gì?
- Xe tôi màu lam, một chiếc cu-pê nhỏ.
- Chúng tôi từ New York thẳng đến đây, – tôi nói thêm.
Một người có xe chạy ngay sau xe chúng tôi xác nhận cho lời khai ấy nên viên cảnh sát ngoảnh đi:
- Nào bây giờ đọc lại để tôi ghi chính xác cái tên đó vào...
Nhấc bổng Wilson lên như một con rối, Tom đưa ông ta vào trong phòng giấy, đặt ông ta ngồi xuống một cái ghế rồi trở ra, giọng oang oang như ra lệnh:
- Có ai ở đây vào ngồi với ông ta một lúc không?
Tom đưa mắt theo dõi trong khi hai người đàn ông đứng gần cửa nhất liếc nhìn nhau rồi miễn cưỡng đi vào trong phòng. Tom khép cửa lại sau lưng hai người, bước xuống một bậc cửa độc nhất, mắt tránh nhìn về phía cái bàn. Khi đi qua cạnh tôi, Tom thì thầm: “Đi thôi”.
Lúng túng trước mọi con mắt, chúng tôi lách qua đám người hiếu kì vẫn mỗi lúc một đông nhờ hai cánh tay hống hách của Tom mở đường, chạm trán một người bác sĩ tay cầm túi cứu thương đang vội vã chạy đến. Nửa giờ trước người ta đi gọi ông với một hi vọng hão huyền.
Tom cho xe chạy chầm chậm cho đến hết chỗ đường vòng – sau đó anh dận mạnh chân ga và chiếc xe nhỏ lao vút đi trong đêm tối. Ít phút sau tôi nghe thấy tiếng sụt sịt trầm trầm khe khẽ và thấy nước mắt chảy ròng ròng trên mặt Tom.
- Thằng hèn, thằng khốn! – Tom thút thít. – Nó không thèm đỗ xe lại.
*
* *
Toà nhà của vợ chồng Buchanan bỗng lướt trôi về phía chúng tôi giữa đám cây xào xạc tối đen. Tom cho xe dừng lại bên cạnh cổng, nhìn lên tầng hai có hai cửa sổ sáng rực ánh đèn giữa các dây nho leo.
- Daisy về rồi, – Tom nói.
Trong khi chúng tôi xuống xe, Tom nhìn tôi, hơi chau mày:
- Lẽ ra tôi phải đưa anh về West Egg, anh Nick ạ. Tối nay chẳng còn việc gì nữa.
Một sự thay đổi đã diễn ra ở Tom: bây giờ anh nói năng nghiêm trang, dứt khoát. Trong khi chúng tôi bước về phía bậc thềm trên lớp sỏi ngập ánh trăng, Tom giải quyết tình thế bằng vài câu ngắn gọn:
- Tôi sẽ gọi dây nói bảo tắc-xi đến đưa anh về. Trong khi chờ đợi, anh và Jordan nên xuống nhà bếp bảo họ dọn cái ăn cho hai anh em, nếu hai anh em muốn. – Tom mở cửa. – Anh vào đi.
- Thôi, cảm ơn. Nhưng nhờ anh gọi tắc-xi hộ tôi. Tôi đợi ở bên ngoài.
Jordan đặt bàn tay cô lên cánh tay tôi.
- Anh không vào trong nhà à, anh Nick?
- Không, cảm ơn.
Tôi cảm thấy người nao nao và muốn được một mình. Nhưng Jordan còn nán lại thêm một lúc nữa.
- Mới có chín rưỡi, – Jordan nói.
Cho dù có bị quỷ tha ma bắt tôi cũng không vào. Chịu đựng bọn họ một ngày đã là quá đủ đối với tôi rồi, và bỗng nhiên tôi gộp cả Jordan vào số người ấy. Cô ta hẳn đã nhận thấy đôi chút ý nghĩ đó trên nét mặt tôi vì cô ta quay ngoắt đi, chạy vội lên mấy bậc thềm rồi mất hút vào trong nhà. Tôi ngồi xuống, hai tay ôm lấy đầu, được vài phút thì nghe thấy người hầu phòng cầm điện thoại gọi tắc-xi. Sau đó tôi chầm chậm rời khỏi toà nhà theo lối đi trong vườn, định chờ xe bên cổng ngoài.
Tôi đi chưa được hai mươi thước thì nghe thấy có người gọi tên tôi và Gatsby từ giữa hai bụi cây bước ra tiến về phía tôi. Lúc ấy chắc tôi phải đang ở trong một tâm trạng khá kì quái vì tôi không thể nghĩ đến cái gì khác ngoài ý nghĩ bộ quần áo màu phấn hồng của Gatsby dưới ánh trăng sao mà sáng thế.
- Anh làm gì ở đây? – Tôi hỏi.
- Tôi đứng ở đây thôi, người anh em ạ.
Dù sao, công việc ấy xem chừng thật đáng khinh bỉ. Cứ như tôi hiểu thì anh ta có lẽ sắp vào ăn trộm nhà này. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thấy những bộ mặt mờ ám, những “người của Wolfshiem” đằng sau anh ta trong các lùm cây tối đen.
- Anh có thấy xảy ra chuyện gì trên đường không? – Gatsby hỏi tôi sau một phút.
- Có.
Anh ngập ngừng.
- Bà ta có chết không?
- Chết.
- Tôi đã đoán vậy. Tôi đã bảo với Daisy là tôi đoán vậy. Nên để cho cơn choáng váng đến liền ngay một lúc là hơn. Nàng chịu đựng khá tốt.
Gatsby nói như thể chỉ có tâm trạng của Daisy là điều duy nhất quan trọng.
- Tôi đã về West Egg bằng một con đường tắt – Gatsby nói tiếp, – và đã cất xe trong nhà xe của tôi. Tôi chắc không có ai nhìn thấy chúng tôi, nhưng tất nhiên không thể quả quyết được.
Tôi có ác cảm với anh nhiều đến nỗi tôi không thấy cần phải báo cho anh biết là anh nhầm.
- Người đàn bà ấy là ai thế? – Gatsby hỏi.
- Tên bà ta là Wilson. Chồng là chủ hiệu sửa chữa xe hơi. Quái quỷ thế nào mà để xảy ra như vậy?
- Quả tôi đã cố kéo lại tay lái,... – Gatsby im bặt và đột nhiên tôi đoán ra sự thật.
- Daisy lái à?
- Đúng, – anh nói sau một lúc, – nhưng tất nhiên tôi sẽ nhận tôi lái. Anh đã thấy đấy, khi chúng tôi rời New York, nàng ở trong một trạng thái rất bồn chồn và nghĩ rằng lái xe sẽ làm cho nàng bình tĩnh hơn chăng – thế rồi người đàn bà kia lao vào xe chúng tôi đúng lúc chúng tôi gặp một chiếc xe khác đi ngược lại. Sự việc chỉ xảy ra trong chớp mắt, nhưng tôi thấy hình như người đàn bà ấy muốn nói gì với chúng tôi, tưởng chúng tôi là người quen. Sự thể thế này: đầu tiên Daisy tạt xe về phía chiếc xe kia để tránh người đàn bà, rồi nàng hốt hoảng lái ngoặt lại. Đúng lúc tôi với được tay lái thì tôi cảm thấy sự va đụng – chắc bà ta chết ngay tức khắc.
- Người bà ta bị xé toạc...
- Thôi đừng kể nữa, người anh em ạ. – Gatsby rùng mình, co rúm người lại. – Rồi sau... Daisy cứ thế dận lên chân ga. Tôi cố gắng giúp nàng đỗ xe lại, nhưng nàng không đỗ được. Tôi phải kéo phanh tay. Sau đấy nàng ngã vào lòng tôi và tôi thay nàng lái tiếp.
- Ngày mai chắc chắn nàng sẽ bình ổn, – Gatsby nói tiếp. – Tôi đứng chờ ở đây xem hắn có định làm rầy nàng về chuyện rắc rối chiều nay không. Nàng đang ở trong buồng nàng và đã khoá cửa lại rồi, nếu hắn định giở trò gì cục súc thì nàng sẽ tắt đèn rồi bật lên làm ám hiệu.
- Anh ta chắc sẽ không đụng đến nàng đâu. Hiện giờ anh ta không nghĩ gì đến nàng đâu.
- Tôi không tin được hắn, người anh em ạ.
- Anh định chờ bao nhiêu lâu?
- Suốt đêm nếu cần. Dù sao thì cũng đến khi họ đi ngủ.
Tôi bỗng có một cách nhìn nhận mới. Giả sử Tom phát hiện ra Daisy lái, anh ta có thể nghĩ đây là chuyện nhân quả – anh ta có thể nghĩ bậy bạ bất cứ điều gì. Tôi nhìn toà nhà. Ở tầng dưới có hai ba cửa sổ có ánh đèn và buồng của Daisy trên tầng một sáng hồng hồng.
- Anh đợi ở đây nhé, – tôi nói. – Tôi ra xem có dấu hiệu cãi cọ nhau không nhé.
Tôi bước trở lại men theo rìa thảm cỏ, nhẹ chân đi ngang qua lối đi rải sỏi và rón rén bước lên mấy bậc thềm. Rèm cửa phòng khách đã được vén lên, tôi thấy trong phòng trống không. Đi qua hành lang nơi chúng tôi đã ăn tối vào một đêm tháng Sáu cách đây ba tháng, tôi thấy một ô ánh sáng nhỏ hình chữ nhật mà tôi đoán là cửa sổ gian bếp. Cửa chớp đã được hạ xuống nhưng tôi thấy có một kẽ hở sát bậu cửa.
Daisy và Tom đang ngồi đối diện nhau qua một cái bàn bếp, trước mặt hai người là một đĩa gà rán nguội và hai chai bia mạnh. Tom đang hăng say nói với nàng qua mặt bàn và trong lúc sôi nổi bàn tay Tom đặt lên bàn tay nàng, phủ kín bàn tay nàng. Thỉnh thoảng Daisy ngước mắt lên gật đầu tỏ vẻ tán thành.
Hai người trông không vui vẻ và cả hai đều không đụng đến đĩa thịt gà lẫn chai bia, tuy nhiên trông họ cũng không có vẻ gì đau khổ. Cảnh ấy có một vẻ thân mật tự nhiên không thể nào sai và ai cũng phải bảo là họ đang cùng nhau mưu tính chuyện gì.
Lúc tôi rón rén rời khỏi hành lang, tôi nghe thấy chiếc xe tắc-xi của tôi đang mò mẫm đi về phía toà nhà trên con đường cái tối đen. Gatsby vẫn đứng yên ở chỗ lối đi lúc nãy chờ tôi. Anh lo lắng hỏi:
- Trong ấy yên ổn cả chứ?
- Yên ổn cả, – tôi ngập ngừng. – Anh nên về ngủ một chút thì hơn.
Gatsby lắc đầu:
- Tôi muốn chờ cho đến khi Daisy đi ngủ. Chào anh nhé, người anh em.
Gatsby thọc hai tay vào túi áo, hăm hở quay lại với công việc theo dõi của anh, như thể sự có mặt của tôi làm cho buổi canh của anh mất tính thiêng liêng. Vì thế, tôi bước đi, để lại anh đứng đó dưới ánh trăng, canh gác cho cái hư không.
Chú thích:
(1) Trong truyện trào phúng Satyricon của Gaius Petronius ở La Mã thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, Trimalchio là một kẻ mới nổi, ăn tiêu cực kì hoang phí, tổ chức những bữa tiệc xa hoa đến lố bịch.
(2) Không có thành phố Oxford nào ở New Mexico. Bang này là một trong những bang kém phát triển nhất nước Mỹ về kinh tế và văn hoá.
(3) Nguyên văn: a swell suite, những từ đọc lên có những âm láy.
(4) Nguyên văn: “Blocks” Biloxi and he made boxes. Chuỗi từ này có những âm láy mà chúng tôi cố diễn đạt bằng câu dịch trên.
(5) Daisy nhầm: Biloxi ở bang Mississippi.