Thành Đại La do Cao Biền xây dựng, cao lớn mà hùng vĩ, tường thành cao tới tám mét với sáu cửa đại môn.
Hôm nay bởi vì đáp ứng lời cầu xin của Phạm Yến, muốn được nhìn thấy vị thiên sư đạo trưởng đến từ kinh thành, cho nên từ lúc sáng sớm, Quang Châu đã cố ý cho người chạy đi, đặt trước một cái bàn trên lầu hai của một quán rượu nằm ở trên con đường cái lát đá, con đường này dẫn thẳng đến cổng thành lớn phía Nam.
Chỗ ngồi sát cửa sổ, tầm nhìn thoáng đãng, bao quát khá tốt, bởi vì ở thời kỳ này vật liệu xây dựng bằng gạch nung thiếu thốn, nhân công kỹ thuật chưa cao, cho nên đại đa số nhà cửa ở trong thành đều là nhà cấp bốn xây bằng gỗ, chỉ có một vài tòa nhà rất hiếm hoi mới có lầu.
Quang Châu ngồi trên cao, liếc mắt nhìn xuống đường, chỉ thấy nơi đây ngựa xe như nước, người người đông đúc, dập dìu qua lại, quả nhiên khác hẳn với những thước phim ảnh về lịch sử Việt Nam trên ti vi, nói chung mấy ông đạo diễn của chúng ta là không dám đột phá sáng tạo, chỉ biết rập khuôn cứng ngắc, đã vậy còn thiếu thốn tư liệu, xem phim còn dở hơn là coi tuồng đóng kịch.
Quang Châu dám khẳng định, nếu mà mấy ông đạo diễn có mặt ở đây ngay lúc này, nhìn cảnh trước mắt, ai dám nói người Việt xưa chỉ có chợ quê lạc hậu, nhà cửa toàn tranh với nứa, đường xá thì toàn đất đỏ bụi bặm ?
Thật ra nếp sống của người dân chốn thành thị nào có thua kém gì bên Trung Quốc, chỉ có điều sử sách không có miêu tả rõ ràng, mà di tích thì hầu như đã bị chiến tranh hủy hoại gần hết.
Người Việt ta mặc dù nhân tài đầy rẫy, nhưng xuyên suốt quá trình lịch sử lại bị quân Trung Quốc xâm lượt bắt đi rất nhiều, đó gần như là một dạng “chảy máu chất xám dân tộc “thật đau lòng, thử hỏi dân ta hiện nay có mấy ai biết được, ngay cả Tử Cấm Thành của nhà Minh sau này ở tại Bắc Kinh xa xôi kia cũng là do một người Việt thiết kế ra.
Vị thiên sư nghe đâu giờ ngọ mới tới, trong khi chờ đợi, Quang Châu bèn kêu tên phục vụ dọn lên mấy món điểm tâm cùng hai bình rượu thượng hạng, bởi vì nông nghiệp thời nay còn rất kém phát triển, cho nên rượu chủ yếu được nấu bằng ngô và sắn, rất ít khi được nấu bằng gạo nếp.
- Anh cả, tại sao mọi người khi nhắc tới thiên sư, lại có vẻ háo hức như thế ?
Quang Châu thắc mắc hỏi Đầu Trâu, Đầu Trâu chưa kịp trả lời thì tên Quân ngồi kế bên đã nhanh mồm nhanh miệng nhảy vô cướp lời :
- Việc này cả thiên hạ đều biết, năm xưa lúc Hoàng Thượng quật khởi, dẹp loạn mười hai sứ quân, được hai người đứng đầu Phật Giáo và Đạo Giáo lúc bấy giờ là đại sư Ngô Chân Lưu và đạo sĩ Đặng Huyền Quan giúp đỡ ủng hộ, sau khi lập nước, Hoàng Thượng đã phong cho đại sư Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống ban hiệu là Khuông Việt Đại Sư, thống lĩnh toàn bộ tăng chúng Đại Cồ Việt; còn đạo sĩ Đặng Huyền Quang thì được phong làm Sùng Chân Uy Nghi, nghe nói vị đạo trưởng này chính là tiên nhân chuyển thế hạ phàm, pháp lực vô biên, trước đó người thường xuyên ngao du khắp nơi , vì dân chúng trừ yêu hàng ma, về sau Hoàng Đế ời mới lập nên Thanh Thiên Đạo Quán tại kinh thành,truyền giáo và thu nhận đệ tử, người nào gia nhập Thanh Thiên Đạo Quán ngoài việc sẽ có được pháp quyết tu luyện tiên pháp, hàng năm còn được phát kim đan uống, bách bệnh khó xâm, chính vì thế dân chúng khắp nơi mới háo hức khi nghe nói có vị thiên sư từ kinh thành tới mở đạo quán tại đây.
Quân nói liền tù tì một hơi xong, nhanh chóng cầm cái ly rượu lên, uống cạn một hơi cho đỡ khô cổ họng.
Quang Châu thì liên tục gật gù, tỏ vẻ như đã hiểu, nhưng trong lòng đối với vị Sùng Chân Uy Nghi kia càng thêm thắc mắc, hiếu kỳ và kiêng kỵ.
Nước Việt từ ngàn xưa đến nay chưa bao giờ tồn tại Đạo Giáo, mà khởi nguyên của Đạo Giáo thiên hạ chính là Ngũ Mễ Đấu Đạo của Trương Lăng, thủ lĩnh giặc khăn vàng, cuối thời Đông Hán bên Trung Quốc , còn về Khuông Việt Đại Sư, người này không ai xa lạ, chính là cháu đời thứ tư dòng dõi của Ngô Quyền.
Lịch sử quả nhiên còn chứa đựng, cất giấu rất nhiều bí ẩn chưa được khai phá.
Đương lúc miên man, Quang Châu chợt nghe thấy phía dưới ồn ào huyên náo lên một trận, lập tức gác lại mọi suy nghĩ, cùng với mọi người đi đến bên cửa sổ nhìn xuống dưới xem.
Hai bên vệ đường lúc này tràn ngập quan binh, đứng thành hàng bảo vệ, đông đúc dân chúng hiếu kỳ đứng đầy hai bên đường, kéo dài từ cửa Nam cho đến phủ Thái Thú.
Mọi người không phải chờ lâu, rất nhanh, từ phía đằng xa có một đoàn người từ từ tiến lại, đi đầu là hơn hai mươi đạo sĩ trẻ tuổi, thân mặc đạo bào trắng muốt, tay cầm cờ phiến, trên cờ vẽ hình thái cực âm dương cùng hàng chữ Thanh Thiên Đạo Quán, tiếp theo hai mươi đạo sĩ là mười đạo cô xinh đẹp cầm lư đỉnh tỏa khói hương thơm ngát, theo sau đó là một cổ xe lớn như một căn phòng, do tám con ngựa cùng kéo, đi ở phía cuối cùng đoàn người là gần trăm tên đệ tử, lưng đeo trường kiếm, tay cầm phất trần.
Trong khi đại đa số mọi người đang chỉ trỏ trầm trồ tán thưởng khí thế thiên sư, thì ẩn trong đáy mắt Quang Châu lại lóe lên một tia khó hiểu, trong lòng hắn thầm than thở mãi không thôi :
- “Hại nước hại dân, chỉ là một lũ đạo sĩ nho nhỏ mà cũng dám phô trương thanh thế như vậy.”
Xóm nghèo, đêm đến, sương giăng.
- Chú hai, có chuyện gì quan trọng mà lại gọi anh đến phòng chú giữa đêm hôm khuya khoắt thế này ?
Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn cầy leo lét, Đầu Trâu dùng một bộ mặt ngái ngủ thắc mắc hỏi Quang Châu.
- Anh cả, hai anh em ta biết nhau được bao lâu rồi nhỉ ?
Quang Châu không trả lời thẳng vấn đề mà nghiêm sắc mặt hỏi lại.
- Đến nay còn thiếu hai mươi ngày nữa là được tròn một năm,.
Đầu Trâu nhanh chóng nhẩm tính, rồi trả lời, dưới ánh nhìn tinh minh sắc bén của người em kết nghĩa, hắn cũng tự động trở nên nghiêm túc, tỉnh táo hẳn ra.
Quang Châu gật đầu :
- Đúng vậy, chừng đó thời gian cũng đủ để em xem anh và Phạm Yến như người thân ruột thịt của mình, nhiều khi nghĩ lại, nếu như ngày đó mà không có hai người cứu giúp thì có lẽ cái xóm nghèo này đã không có một Châu thần y hôm nay.
Đầu Trâu ngẩn người :
- Chú hai, có việc gì khó xử chú cứ nói thẳng ra, anh em chúng ta đâu phải người xa lạ, cho dù Trâu này có chết vì chú cũng quyết không sờn lòng.
Đầu Trâu có tên thật là Phạm Thuần, Thuần trong chữ Thuần Phác, sở dĩ ở xóm nghèo Phạm Thuần có biệt danh là Đầu Trâu cũng bởi do cái dáng vẻ bề ngoài thô kệch to lớn, cùng sức khỏe hơn người thiên bẩm, sức của Phạm Thuần có thể dễ dàng vật ngã hoặc nhấc bổng một con Trâu trưởng thành trăm ký, mười người thanh niên khỏe mạnh nhất xóm cũng không thể nào địch lại hắn, đó là chưa kể đến sự lỳ lợm trong tính cách quật cường cũng thuộc hàng số một.
Phạm Thuần, Phạm Yến, hai anh em mồ côi cha mẹ, từ nhỏ chỉ biết nương tựa vào nhau mà sống, mặc dù là thân cô thế cô nhưng ở cái xóm nghèo này không có một ai dám bắt nạt hai anh em bọn họ, một phần cũng vì sự liều mạng của Phạm Thuần, một phần cũng vì sự thương cảm.
Nếu có ai đó nói rằng tính tình Đầu Trâu bình thường rất tốt bụng, rất thật thà, rất chân chất, Quang Châu đều tin, nhưng nói hắn ngốc nghếch, Quang Châu là người thứ nhất bác bỏ. Đầu Trâu này vốn là dạng người ngoài thô trong tinh, bình thường nhìn có vẻ ngờ nghệch nhưng khi gặp chuyện lại rất biết cách xử lý đâu ra đấy, chính vì vậy nếu như có một sư phụ tốt chịu khó dìu dắt hướng dẫn cho hắn thì sau này Đầu Trâu chắc chắn sẽ trở thành một người không tầm thường.
Quang Châu sau khi nghe Đầu Trâu nói lời chân thành, trong lòng cảm động, nói ra :
- Mấy ngày nay, em đã hồi phục được trí nhớ, nhớ lại rất nhiều chuyện trước kia, hóa ra bản thân lại là người trong giang hồ, sư phụ chính là Thánh Y Hải Thượng Lãn Ông. Năm xưa, em cùng sư phụ rời núi đi xa, chữa bệnh ột gia đình bằng hữu với sư phụ, khi trở về thì bỗng dưng bị một toán cướp võ công cao cường chặn đường, sư phụ vì cứu em cho nên đã đẩy em ngã xuống sông, một mình người ác chiến với bọn chúng nhằm cản đường, em cứ thế bám chặt vào một thân cây gãy, bị dòng nước cuốn đi, trôi mãi xuống hạ lưu thì mới được một gia đình chài lưới cứu vớt, nhưng không hiểu sao sau đó đột nhiên mất hết trí nhớ, lưu lạc nay đây mai đó, mãi cho đến khi gặp được hai người.
Nói xong liền thở dài một tiếng cảm thán.
- Bọn cướp khốn kiếp, dám làm hại em ta, tốt nhất đừng để cho ta gặp được, nếu không ta nhất định sẽ xé xác chúng ra làm trăm mảnh mới hả giận.
Đầu Trâu nghe xong cố sự, nổi giận đùng đùng, vỗ bàn một cái, sau đó quay sang vỗ vai Quang Châu, an ủi :
- Chú hai đừng quá thương tâm, mọi chuyện dù sao cũng đã qua rồi, bây giờ mấy anh em chúng ta phải cố gắng đùm bọc nhau sống cho thật tốt, nếu có cơ hội mà nói, anh sẽ giúp chú báo thù cho sư phụ.
Quang Châu nắm lấy vai hắn, thấy Đầu Trâu đã tin vào câu chuyện của mình phịa ra, trong lòng thở phào một cái, nét mặt tỏ vẻ hết sức chân thành mà nói :
- Cám ơn anh cả, sư phụ trước khi mất có truyền lại một pho võ công cho em, nhưng bản thân em khí huyết yếu kém không thích hợp luyện tập, bản thân em cũng không muốn vì thế mà làm cho võ công của sư phụ phải thất truyền, nghĩ đi nghĩ lại mấy hôm, liền thấy truyền lại cho anh cả là thích hợp nhất.
Đầu Trâu cả kinh :
- Như thế sao được ?
Quang Châu lập tức trấn an :
- Dù sao cũng là người thân trong nhà, có gì mà không được ? Có điều anh phải nhớ kỹ, không đến lúc bất đắc dĩ, vạn vạn lần không được lộ ra cho người khác biết được mình có võ công.
Đầu Trâu ban đầu vẫn còn do dự, nhưng sau một lúc, dưới sự khuyên bảo tha thiết của Quang Châu, rốt cuộc hắn cũng gật đầu đồng ý.
Nếu như Bồ Đề Đạt Ma mà biết được Kim Chung Trạo - một trong tam đại thần công của Phật Môn do ông khổ công nghiên cứu sáng tạo ra, mà mấy trăm năm sau, phải đợi năn nỉ mới có người chịu học thì không biết trong lòng ông sẽ có cảm giác như thế nào.
Sau khi Đầu Trâu gật đầu đồng ý, Quang Châu bèn tỉ mỉ truyền khẩu quyết của đệ nhất quan và đệ nhị quan của Kim Chung Trạo cho Đầu Trâu.
Tiễn Đầu Trâu về phòng xong, Quang Châu bèn quay lại giường ngồi xếp bằng, tâm vô tạp niệm, bắt đầu tu luyện tầng thứ nhất của Già Lam Chân Kinh. Tầng thứ nhất này chủ yếu là điều tức hơi thở theo một phương pháp nhất định, việc điều tức này giúp cho cơ thể nhanh chóng thanh lọc đi những cặn bã, dịch cân tẩy tủy, thông suốt kinh mạch, cũng như sinh ra chân khí tích tụ tại đan điền, khi chân khí tích tụ đầy đan điền thì chính là lúc đã đại thành tầng thứ nhất.
Do lúc trước, Minh Tuệ đại sư đã dùng chân nguyên của bản thân mình giúp Quang Châu dịch cân tẩy tủy, thông suốt kinh mạch, cho nên hắn chỉ cần ngồi điều tức không lâu thì trong cơ thể liền nhanh chóng sinh ra một tia chân khí, tia chân khí này mỏng manh vô cùng, sau khi lưu chuyển một đại chu thiên thì khu trú ở vùng đan điền, đồng thời Quang Châu có cảm giác được, mỗi khi hắn dùng ý thức thôi động tia chân khí ấy từ đan điền lưu chuyển lại một vòng đại chu thiên thì nó bỗng nhiều hơn hẳn, chỉ là nhiều hơn một ít nhưng điều này chứng tỏ rằng việc hấp thu lượng chân khí mà Minh Tuệ phong ấn trong đan điền của hắn đang diễn ra rất tốt, có điều sau khi vận chuyển được tối đa ba vòng đại chu thiên thì Quang Châu đã mệt lả cả người, không thể nào tiếp tục được nữa.
Những ngày tháng tiếp theo đó, Quang Châu cùng Đầu Trâu ban ngày thì lo hoàn thành công việc khám chữa bệnh, ban đêm thì vùi mình trong tu luyện quên cả giờ giấc, sống tại thời đại này, cả hai đều ý thức được rằng chỉ có sức mạnh mới có thể bảo vệ được người mình thương yêu.
Cho đến một ngày nọ vào bốn tháng sau, cũng là ban đêm, khi Quang Châu đang nhắm mắt tu luyện điều tức như thường quy thì bỗng dưng cảm thấy có một luồng ánh nắng chói chang chiếu vào mặt.
Hắn mở mắt ra liền lập tức nhận thấy mình đang nằm ở nhà, ở thế kỷ hai mươi mốt, năm 2013.
- Anh dậy rồi à ?
Một giọng nói ngọt ngào vang lên, khiến cho Quang Châu giật mình, vội vã bật dậy, chồm khỏi ghế xa lon nhìn về phía trong bếp, ở nơi đó, có một bóng hình quen thuộc khiến cho tim hắn nghẹn ngào :
- Tố Trinh, em … em còn sống ư ?
- Anh nói bậy bạ gì đó ? Tối nay liệu hồn.
Kèm theo tiếng mắng yêu là một ngón tay xinh xắn dí vào trán , cảm giác thật là chân thật vô cùng. Quang Châu vội vàng ôm chặt lấy người con gái trước mắt vào lòng, dường như hắn sợ Tố Trinh sẽ một lần nữa tan biến đi mất mãi mãi, hắn thà tự lừa dối bản thân mình cũng không muốn tin đây chỉ là một giấc mơ.
Cuộc sống cứ thế trôi qua êm đềm, một năm, ba năm, mười năm, họ đã có với nhau những đứa con vô cùng đáng yêu. Quang Châu đã quên hết tất cả, hắn cứ cho rằng mọi việc ở thế giới cổ đại, từ Đầu Trâu cho đến Phạm Yến chính là một giấc mơ kỳ lạ, một cơn ác mộng mà thôi.
Cho đến một ngày nọ, hắn dẫn vợ con lên núi Yên Tử đi du lịch, khi lên gần đỉnh núi, bỗng dưng có một ngôi chùa nhỏ khiến cho Quang Châu rất tò mò, lúc bước đến gần, ngước nhìn tấm biển bên ngoài, thấy được ba chữ “Ẩn Thế Tự” cổ lão tang thương, cả thân mình hắn liền không tự chủ được mà run rẩy.
Cố gắng trấn an bản thân, bước qua cổng chùa, trên mảnh sân rộng lớn, chỉ thấy có một vị sư già đang chăm chỉ quét lá vàng rơi rụng, khi vị sư nghỉ tay quay đầu nhìn hắn, Quang Châu lập tức loạng choạng lùi ra sau mấy bước, giọng run run thốt lên:
- Sư …sư …sư phụ !