Hôm ấy, lúc Minh Trọng Mưu đến thỉnh an Thái hậu, Thái hậu lại nhắc đến chuyện Minh Trọng Mưu nên ban mưa móc rộng rãi, để hoàng cung có thêm hoàng tử, công chúa.
Minh Trọng Mưu nghĩ ngợi, rồi đáp: “Mẫu hậu, trẫm có một chuyện không hiểu, muốn xin mẫu hậu chỉ dạy.”
Trước đây, đối với chuyện ban mưa móc ân sủng khắp hậu cung của Tiên hoàng, Minh Trọng Mưu cảm thấy rất phản cảm, nhưng hôm nay thái độ của hắn lại khác hẳn ngày thường, thậm chí còn chủ động hỏi đến chuyện này với Thái hậu. Thái hậu băn khoăn, có lẽ Minh Trọng Mưu đã nghĩ thông rồi, bèn cười nói: “Chuyện gì?”.
Minh Trọng Mưu thấy tâm tình Thái hậu đang rất vui, bèn nói thẳng luôn: “Mẫu hậu, điều trẫm muốn hỏi là, tình là gì?” Hắn hơi lắc lắc đầu, thở dài nói, “Người ta đều nói đế vương là kẻ vô tình, nhưng mẫu hậu là phụ nữ, không phải là đế vương, thiết nghĩ trong lòng mẫu hậu, nhất định là có tình, nên trẫm mới hỏi chuyện này.”
Minh Trọng Mưu nói vậy, khiến Thái hậu bất giác ngây người, bà đột nhiên trở nên trầm mặc.
Vốn dĩ Minh Trọng Mưu đang đợi Thái hậu thổ lộ tình cảm của bà với Tiên đế cho hắn nghe, không ngờ Thái hậu lại trầm mặc.
Hồi lâu sau, Thái hậu mới cười cười, nói: “Tiên đế vô tình, tuy mẫu hậu là phụ nữ, nhưng cũng không thể không vô tình, nếu không……”
Nếu không sợ rằng giang sơn này, không đến lượt Minh Trọng Mưu ngồi.
Những lời đó Thái hậu tuy chưa nói ra, nhưng ý tứ đã lộ ra rất rõ ràng.
Một khi đã trở thành người phụ nữ của bậc đế vương, có tình, sẽ chỉ trở thành điểm yếu để người khác công kích mình mà thôi. Thái hậu là người vợ kết tóc với Tiên đế, thậm chí Tiên đế đăng cơ còn chưa được bao lâu, đã băng hà, nhưng Thái hậu lại vẫn có thể sống rất lâu.
Có lẽ, mật thất dưới Lô Dương các, có thể sẽ lại tăng thêm một bí mật chốn cung đình nữa rồi.
Nhưng Minh Trọng Mưu của hiện giờ, lại không có tâm tình hỏi chuyện đó.
Minh Trọng Mưu đi thẳng vào vấn đề chính: “Mẫu hẫu, nếu có một cô gái khiến trẫm cứ hễ nhìn thấy là lại muốn hôn nàng ấy, nhưng lại không muốn nói chuyện tử tế với nàng ấy, muốn ôm nàng ấy, nhưng cũng lại muốn cách xa nàng ấy, lúc nhìn thấy chỉ muốn cau mày, lúc không nhìn thấy thì lại thấy nhớ, như vậy……” hắn chần chừ hồi lâu, mới nghiến răng nói, “Rốt cuộc, đó có phải là có tình không?”.
Thái hậu nghe xong, cảm thấy rất kinh ngạc, “Hoàng thượng, người đang thích cô gái nào à?”.
Thái hậu không nói thẳng ra, nhưng hiển nhiên bà cho rằng, phản ứng kiểu như vậy, chính là có tình.
Khuôn mặt tuấn lãng dưới lớp mặt nạ của Minh Trọng Mưu đỏ ửng, may mà có lớp mặt nạ che đi, nên Thái hậu không nhìn ra.
Thái hậu thấy hắn không nói năng gì, biết rằng mình đã đoán đúng, bất giác bật cười: “Rốt cuộc là con gái nhà ai, có bản lĩnh thế nào mà quyến rũ khiến Hoàng thượng mất hồn thế? Nếu người Hoàng thượng thích là tiểu thư khuê các con nhà tử tế, lại có đầu óc, không kiêu căng ngạo mạn lại hiểu lễ nghi, thì chi bằng nạp con bé vào cung, ai gia cũng muốn được ôm hoàng tôn từ lâu rồi.”
Minh Trọng Mưu nghe Thái hậu nói vậy, không nhịn được phì cười, lắc đầu nói: “Nếu là vậy, thì có lẽ cả đời này nàng ấy cũng không thể nhập cung được đâu.”
Tuy rằng ngồi ở vị cao, nhưng không phải là tiểu thư khuê các; rất có đầu óc, nhưng lại quá kiêu ngạo; nếu nói nàng rất hiểu lễ nghi, nhưng lâu lắm rồi, chẳng thấy nàng quỳ nổi lấy một lần, thế mà cũng được gọi là hiểu lễ nghi sao?
Minh Trọng Mưu khẽ lắc đầu, “Mẫu hậu nhất định sẽ cho rằng, nàng ấy không phải cô gái có thể chôn mình chốn hậu cung, hơn thế, còn không phải là cô gái có thể trở thành Hoàng hậu……”
“Cái gì?” Thái hậu cả kinh, “Người định lập cô gái đó làm Hoàng hậu sao? Nghe những lời người nói, thì dường như cô gái ấy không có tư cách.”
Minh Trọng Mưu cười, “Không phải là không có, nếu nàng ấy không có tư cách, thì toàn bộ phụ nữ trong thiên hạ, đều không có tư cách.”
Thái hậu hoài nghi, “Ai mà có tư cách, nhưng lại không thể làm Hoàng hậu thế? Hoàng thượng à, người khiến ai gia loạn hết cả lên rồi.”
Minh Trọng Mưu vỗ vỗ lên tay bà, “Mẫu hậu cũng không cần thiết phải hiểu đâu, tóm lại trẫm hiểu lòng trẫm rồi, từ nay về sau sẽ không làm những chuyện khiến người khác nhầm lẫn, bản thân nhỡ nhàng nữa đâu.”
Thái hậu nghe mà bối rối, nhưng Minh Trọng Mưu đã lảng sang chủ đề khác, Thái hậu đành phải giữ mối nghi vấn này lại trong lòng, đợi ngày tháng sau này sẽ tìm hiểu làm rõ.
XXX
Trong ngày thiết yến đợt thi vừa rồi, Tạ Lâm uống say, Úy Trì Chính đã báo việc này với phủ Thừa tướng, nói rằng Thừa tướng say rượu, hoặc là phái người đến đón ngài ấy về, hoặc ra cửa mà ngóng. Nhưng người trong phủ trái đợi phải chờ, cũng không thấy Tạ Lâm về, phái người đi đón, khắp dọc đường đi cũng không nhìn thấy Thừa tướng đâu, hỏi thị vệ canh giữ hoàng cung, thì lại nghe nói rằng, hắn thấy Thừa tướng đi ra, rồi lại thấy đi vào.
Thế là may rồi, người trong phủ Thừa tướng canh ở cổng lớn, kết quả đến nửa đêm Thừa tướng cũng vẫn chưa về, người trong phủ đoán rằng, có lẽ đêm muộn, Tạ Lâm ở lại luôn trong cung, không về nữa. Vì thế mọi người cũng đành quay về chờ lệnh, kết quả canh ba nửa đêm rồi vẫn không thấy bóng dáng Thừa tướng đâu, phủ Thừa tướng lập tức gà bay chó sủa.
Tối đó tuy Úy Trì Chính đã trở về phủ, nhưng lại vẫn canh cánh lo lắng không biết Tạ Lâm đã về phủ chưa, vì trước lúc chia tay, Tạ Lâm vẫn đang nôn rất kinh.
Buổi triều sáng hôm sau, Úy Trì Chính liền tới đại điện sớm hơn hẳn để đợi, mắt thấy Tạ Lâm thần thái sảng khoái tỉnh táo đi vào đại điện, hắn mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng vô tình, ánh mắt cứ xoắn lấy bóng lưng Tạ Lâm.
Tạ Lâm cũng cảm nhận được ánh mắt của hắn, bất giác quay đầu lại, “Úy Trì đại nhân có việc gì không?”.
Úy Trí Chình giật mình, vội vàng thu lại ánh mắt của mình: “Không có gì.”
Hàng mày của Tạ Lâm khẽ động, nhìn lướt qua hắn một lúc, rồi mới nhìn sang chỗ khác, đợi thượng triều. Còn Úy Trì Chính tranh thủ lúc nàng không để ý, ánh mắt không kìm được lại liếc nhìn nàng.
Đêm đó Úy Trì Chính trằn trọc mãi không ngủ được, cảm thấy cứ thấp thỏm, nên giờ khó tránh khỏi cảm giác muốn xác định xem Tạ Lâm có bình an thật không. Lúc ánh mắt liếc nhìn đến trên cổ Tạ Lâm, trong lòng lập tức rúng động, “Tối qua Tạ đại nhân uống say, nhưng lại rất thú vị nhỉ, trong nhà đại nhân có đến mấy thị thiếp, phục vụ chắc tốt lắm nhỉ?”.
Tạ Lâm quay đầu lại, thấy ánh mắt hắn cứ nhìn mãi vào cổ mình, liền hiểu ra rằng, nhất định là tối hôm qua, Minh Trọng Mưu dùng sức hôn mút lên cổ nàng nên mới để lại dấu hôn. Tạ Lâm hơi hơi dựng lại cổ áo, che kín dấu hôn, nàng rất cảm kích lời nhắc nhở của Úy Trì Chính, che giấu kín đáo mọi bề, mới có thể giấu được Minh Trọng Mưu. Tạ Lâm phì cười nói: “Uống rượu say, khó tránh khỏi việc làm những việc hoang đường, đã khiến Úy Trì đại nhân chê cười rồi.”
Ẩn ý trong lời nó đó nghĩa là đã thực sự ở lại chỗ của thị thiếp.
Ánh mắt Úy Trì Chính khựng lại, còn muốn hỏi nữa, nhưng đúng lúc đó Hoàng thượng đến, nên những lời muốn nói lại nuốt ngược vào trong.
Sau này khi Úy Trì Chính muốn hỏi, thì lại không còn cơ hội nữa.
Về sau, Úy Trì Chính thường ở trong phủ Thượng thư, tâm hồn treo ngược cành cây, thường xuyên nhìn thứ gì đó đến ngây người, khách khanh Trác Thanh nhìn thấy, bất giác cũng thấy nghi ngờ, hỏi người hầu, người hầu nói: “Mấy ngày gần đây, đại nhân thường như vậy, tiểu nhân cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, Trác đại nhân có lẽ biết được điều gì chăng.”
(Khách khanh là một chức quan có từ thời Tần, có nghĩa là mời người của các nước chư hầu khác về làm nước Tần làm quan, vị quan này gọi là khanh, lại dùng đạo tiếp khách để đối đãi, nên gọi là Khách khanh.)
Dưới ánh mắt sáng lấp lánh đầy vẻ chờ mong của người hầu, Trác Thanh cau mày, nhủ thầm, biết cái gì mà biết, ta chả biết cái gì hết.
Vì chuyện này mà mấy ngày nay Trác Thanh cứ lén la lén lút quan sát Úy Trì Chính, xem xem rốt cuộc nhìn thấy thứ gì ngài ấy mới ngẩn người, hắn là Khách khanh mưu sĩ của phủ Thượng thư, xưa nay luôn bày mưu nghĩ cách cho Úy Trì Chính, mà người trước giờ luôn quả cảm anh minh như Thượng thư đại nhân đột nhiên lại thường xuyên thất thần như vậy, khiến Trác Thanh đương nhiên cảm thấy mình có nghĩa vụ phải tìm hiểu cho rõ.
Một ngày, Úy Trì Chính đang ở trong thư phòng, định múa bút viết vài chữ, nhưng mới viết được hai ba chữ đã ngẩng đầu lên, rồi cứ thế ngây ra nhìn bức tường đối diện.
Trác Thanh thấy thế, suýt chút nữa là lật bàn.
Trên bức tường trống không, tuyền một màu trắng, chẳng có bất cứ thứ gì. Trác Thanh nghĩ hàng trăm hàng nghìn lần, cũng không ngờ được rằng, Úy Trì Chính lại chỉ vì nhìn một bức tường rống tuếch ấy mà đờ đẫn cả người.
Đại nhân ngày cũng làm khó ta quá đấy, lẽ nào mấy ngày gần đây đại nhân đều ngây dại chỉ vì cái bức tường này thôi à?
Lại qua thêm một lúc nữa, Úy Trì Chính mới tỉnh táo lại, lại viết thêm được hai hàng chữ nữa, kết quả lúc người hầu vào mài mực, hắn lại nhìn nghiên mực đến ngây người.
Trác Thanh thở phào nhẹ nhõm, so với cái bức tường kia, thì cái nghiên mực này tốt xấu gì cũng là thứ đồ vật có thể nhìn thấy được, sờ thấy được, có ý nghĩa tượng trưng hơn hẳn. Có lẽ vì thế mà hắn có thể đoán ra được, rốt cuộc Úy Trì đại nhân ngẩn người vì chuyện gì.
Úy Trì Chính nhìn rồi lại nhìn, đột nhiên mở miệng hỏi, “Trác Thanh à, ngươi nhìn cái nghiên mực này đi, mấy ngày trước, ta mang nó về từ Lưu Cầu thuộc địa của Đại Sở, điêu khắc hình hoa lan chốn sơn cốc, mùi thơm nồng đượm, so với cái nghiên mực bệ hạ ban tặng cho Tạ Lâm, cái nào tốt hơn.”
Trác Thanh sợ giật nảy mình, hắn không ngờ Úy Trì Chính nghĩ đông nghĩ tây, cuối cùng đầu óc lại nghĩ đến chuyện này. Nghiên mực của thần tử và hoàng đế, có thể mang ra so sánh được chắc?
Cho dù nghiên mực của thần tử có thật sự tốt hơn của hoàng đế đi chăng nữa, cũng không thể nói ra miệng được.
Cho dù cái nghiên mực đó đã không còn là của hoàng đế mà là của Tạ Lâm đi chăng nữa, nhưng đó vẫn là vật được ngự ban, không thể đặt lên bàn cân so sánh với những thứ bên cạnh được.
Trác Thanh đành cúi đầu thưa: “Trác Thanh nghe nói, cái nghiên của bệ hạ, hình điêu khắc là những cây trúc, tuy Trác Thanh chưa từng nhìn thấy, nhưng từ xưa đến nay trúc luôn kiên cường khí khái, thiết nghĩ so với chiếc nghiên khắc hình hoa lan ở sơn cốc của đại nhân, đều có chỗ kỳ diệu tương tự nhau.”
Úy Trì Chính vừa nghe xong, liền nhớ ngay đến người ấy, nếu lấy trúc ra để so sánh, thì quả thực là càng hợp, càng giống hơn là so với lan, cây trúc quả thực rất khí khái kiên cường.
Tuy Trác Tranh không trả lời thẳng, nhưng Úy Trì Chính đã bật cười to nói: “Được, được, được lắm, đúng là rất kiên cường khí khái, những lời của Trác Thanh ngươi rất hợp ý ta, nào nào nào, chúng ta cùng viết vài chữ bằng cái nghiên mực hoa lan này đi.”
Tuy tâm tình của Úy Trì Chính đã thoải mái, nhưng Trác Thanh phát hiện ra, trước đây Úy Trì Chính vẫn rất thích chiếc nghiên mực đó, nhưng giờ niềm yêu thích đối với nó đã phai nhạt dần rồi.
Sau này Trác Thanh nhận ra, trên bức tường trắng trơn ấy, thật ra không phải hoàn toàn không có vết tích gì, mà có những đường hằn vuông vắn rất mờ, rõ ràng ở chỗ này đã từng treo một bức tranh. Hắn hỏi người hầu, đó là bức tranh nào.
Người hầu trả lời, đó là bức tranh Thừa tướng tặng cho Úy Trì đại nhân, đại nhân thường đứng ngắm bức tranh đó rất rất lâu, cũng không biết là ngắm những gì. Nhưng không biết sao, một hôm đột nhiên không thấy bức tranh đó nữa, đại nhận cứ tiếc nuối mãi, đến mức còn đến phủ Thừa tường để xin lỗi.
Trác Thanh hơi nheo nheo mắt, lúc ấy mới đột nhiên nhớ ra, đúng là có chuyện này thật.
Không thể đợi thêm nữa
Trác Thanh nghĩ thầm.
XXX
Mấy tháng sau đợt khoa cử, khí trời dần trở lạnh, Đại Sở chìm trong những bông hoa tuyết phiêu diêu bay giữa trời đông trắng xóa, đẹp đến nao lòng người.
Một hôm, trong ngự thư phòng, Tạ Lâm đọc được một bản tấu như sau – Thị lang bộ Binh Ông Đạt, vạch tội Chân Mộc chủ sự bộ Hình, lạm dụng chức quyền, ỷ có Thừa tướng chống lưng, cưỡng ép tống giam rất nhiều bách tính vô tội, vu oan giá họa cho bọn họ, Ông Đạt tấu lên thánh thượng, xin điều tra rõ ràng việc này, trả lại sự công bằng và trong sạch cho bách tính.
Ông Đạt Thị lang bộ Binh là người của Úy Trì Chính, Chân Mộc lại là người của Tạ Lâm.
Có lẽ Chân Mộc không phải thực sự là người vu oan giá họa cho người ta, nhưng trong giờ khắc này, giữa vòng xoáy trốn triều đình, ông ta lại trở thành bia ngắm cho hai bên kèn cựa.
Trong lòng Tạ Lâm quá hiểu điều đó.
Có lẽ Chân Mộc cũng không phải là một vị quan tốt, nhưng dưới ông ta, lại bao gồm rất nhiều những thế lực của Tạ Lâm.
Tạ Lâm lập tức dâng bản tấu ấy lên cho Hoàng thượng.
Minh Trọng Mưu vừa liếc mắt nhìn, liền không nhịn được bật cười, “Chân Mộc? Trẫm vẫn còn nhớ, cái tên này rất có ý nghĩa.”
Đến lúc này rồi mà người vẫn còn để ý đến chuyện cái tên này rất có ý nghĩa sao? Tạ Lâm nhủ thầm.
Minh Trọng Mưu lại nói tiếp: “Tạ khanh, khanh nghĩ sao về chuyện này?”.
Tạ Lâm cung kính đáp: “Đương nhiên là phải tra xét rõ ràng vụ án này rồi, nếu Chân Mộc thật sự lạm dùng tư hình, khiến cho bách tính vô tội bị tống giam, thì sẽ là mối nguy hại đối với Đại Sở, nhất định phải chém không tha.”
“Ừ, vậy giao cho khanh xử lý.”
“Vâng.”
Nguyên nhân của việc này là, trong kinh thành có một gia đình giàu có, chủ nhà tên là Trương Trạch Đồ, có mối quan hệ dây tơ rễ má gì đó với một vị quan lớn của triều đình Đại Sở, nên ngang ngược hống hách, cậy thế bắt nạt dân đen trêu ghẹo gái nhà lành, không việc xấu xa nào là không làm. Vị quan lớn này cũng cảm thấy như vậy là không ổn, đã nhiều lần khuyên can, nhưng Trương Trạch Đồ dù chết cũng không chịu hối cải, bản thân làm nhiều chuyện xấu thì thôi cũng đành, còn dung túng cho người nhà làm theo, vì thế thường xuyên gây náo loạn cãi cọ chốn công đường, cứ hễ cãi cọ được một ngày, là vị quan lớn ấy lại đứng ra bao che, vì thế những vụ án thường xuyên không được giải quyết, bách tính giận lắm nhưng không dám nói.
Vị quan lớn ấy cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, cả ngày khuyên bảo nhà Trương Trạch Đồ, đừng là như vậy nữa, nếu không sẽ phải dọn ra khỏi kinh thành.
Thất phu nhân của Trương Trạch Đồ là người xấu tính, nghe thấy lời ấy, lập tức giậm chân, “Chúng ta có chàng làm chỗ dựa, tại sao phải dọn đi? Ta mặc kệ!”.
Vị quan lớn đó lăn lộn ở kinh thành mãi mới leo lên được vị trí như hiện tại, sao có thể để mất uy nghiêm, mất phong độ như vậy được, thấy nàng ta giậm chân, lửa trong lòng ông ta cũng bùng lên, đang định lên tiếng quát mắng, thì bát phu nhân thấy tình thế không ổn, vội vàng khéo léo ngọt nhạt, nhấc khăn lụa hồng, che miệng cười hi hi, “Đại nhân đừng nóng, chúng ta chỉ cần thu liễm lại là ổn thôi mà.”
Nói là thu liễm, nhưng nào có thu liễm được chắc?
Hoành hành ngang ngược như thế, nên làm gì thì làm đó vậy.
Vị quan lớn biết thế, nên cũng cảm thấy thôi đành, chỉ cần không liên lụy khiến cả họ bị tru di, kèm thêm cả cái mạng của bản thân, thì bọn họ thích thế nào thì cứ làm thế ấy.
Đáng tiếc trời có khi mưa khi nắng, người có lúc phúc lúc họa, gia đình Trương Trạch Đồ không bị trời cao nhìn đến thì không thoải mái, nên ngược lại vào một tháng nào đó, ngày nào đó, giờ nào đó, khắc nào đó, trong lúc bát phu nhân của Trương Trạch Đồ ở trên giường mơ mơ màng màng tỉnh giấc, thì nhìn thấy đầu của Trương Trạch Đồ bị người ta chặt lấy đi mất, lập tức sợ đến ngây người, tiếng hét của nàng ta, có thể truyền từ phía tây đến phía đông kinh thành.
Nhưng tạm không quan tâm xem là phía đông hay phía tây, cái tin Trương Trạch Đồ bị giết, quả thực nháy mắt đã ồn ào đến tận kinh thành.
Chuyện này bắt đầu từ Phủ doãn kinh thành, ồn ào lên trên nữa, cho đến khi ồn ào đến tai Chân Mộc, Chân Mộc nhủ thầm, vụ án bé cỏn con thế này, hiển nhiên là vì trả thù, bèn cho dẫn giải hết những người có thù oán với Trương Trạch Đồ đến công đường.
Kết quả người có thù với nhà họ Trương quá nhiều, nhồi nhét chật đầy cả công đường.
Chân Mộc sốc, suýt chút nữa thì tắt thở vì bị đám người đó cướp mất không khí, bèn dứt khoát chuyển luôn vụ án này cho tân Thám hoa của năm nay, Trầm Hòa Anh xét xử.
Ông ta biết, Tạ đại nhân đang có ý định dìu dắt Trầm Hòa Anh, vụ án cỏn con như thế, để Trầm Hòa Anh phân xử, vừa đẹp, hơn nữa nói không chừng, vì chuyện này thằng nhóc ấy được thăng quan, ông ta cũng được thăng quan, cả làng đều vui.
Kết quả vì vụ án này, Chân Mộc bị tố cáo.
Đối với việc này, Chân Mộc nghĩ thế nào cũng không tài nào hiểu nổi.