Ngày 31 tháng 5 năm 1893.
Gigi ước gì cô có thể đoán định tốt hơn về người đàn ông cô lấy làm chồng.
Cô đã vô cùng chắc chắn rằng anh sẽ yêu cầu làm tình trong không gian kín đáo của cỗ xe trên con đường đến Devon - thật ra, cô rất chắc chắn, đến mức đã phòng ngừa trước, và chịu đựng những nhịp tim thất thường từ giây phút họ cùng nhau rời nhà.
Nhưng anh lại bỏ mặc cô và bắt đầu làm việc với những thiết kế máy móc cơ khí ngay cả trước khi tàu rời ga Paddington. Cô không biết làm gì ngoài việc nhìn thế giới bên ngoài lướt qua với tốc độ sáu mươi dặm một giờ, cảm thấy mình hoàn toàn ngớ ngẩn.
Và ngượng ngùng. Và một chút mơ hồ.
Anh đã tặng cô một lời khen, một lời khen rất chân thật, về một điều thực sự quan trọng với cô. Cô có cảm giác giống như cảm giác của một cô gái ngây thơ ra mắt lần đầu sau một điệu nhảy bất ngờ với tên phóng đãng tiếng tăm nhất. Cô hoàn toàn biết rõ rằng sự ấm áp bập bùng trong cô là không được đáp trả, không khôn ngoan, và cũng không được chào đón, nhưng cô không thể làm gì với nó.
Anh viết nhanh với những nét chữ nghiêng nghiêng, tổ hợp những công thức rối beng lạ hoắc và không thể hiểu được như những chữ tượng hình trước khi
khám phá ra Tấm bia Rosetta (*) . Ngay cả cô, người đã được học sâu về toán và cơ khí cao cấp - để không bị cản trở bởi sự thiếu hiểu biết khi làm việc với những kỹ sư làm việc cho mình - cũng chỉ hiểu phần nào về chúng, khi nhìn ngược những con số và ký hiệu.
(*) Tấm bia Rosetta: Một tấm bia đá thời Ai Cập cổ đại với một chiếu chỉ được Vua Ptolemy V ban hành ở Memphis, Ai cập vào năm 196 trước Công nguyên. Chiếu chỉ này cùng được thể hiện với ba loại chữ viết: trên cùng là chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại, ở giữa là chữ Ai Cập thông dụng, và cuối cùng là chữ Hy Lạp cổ. Chính vì thế mà tấm bia này được coi là chìa khóa để người hiện đại hiểu được chữ tượng hình Ai Cập.
Cô đoán rằng anh đang làm việc gì đó liên quan đến đốt nóng và chuyển hóa khí ga. Khi những công thức của anh chuyển đến tính toán động lực góc, cô đoán thêm rằng anh đang điều chỉnh lại thiết kế cho một động cơ đốt trong.
Cô có những nghi ngại về xe ô tô. Chắc chắn là nó rất tuyệt vời, mới lạ và giờ đây đã trở nên hiện thực hơn. Nhưng ai sẽ muốn sở hữu và điều khiển một cái xe ô tô ngoài những người có máu phiêu lưu nhất và giàu có nhất, trong khi ở nội thành những cỗ xe ngựa đơn giản và thuận tiện hơn rất nhiều, và với những khoảng cách lớn, tàu hỏa chạy nhanh hơn và đáng tin hơn? Ít nhất những con ngựa không thể chết ba lần khi đi từ Luân Đôn đến Brighton .
Nhưng cô cũng có đủ hiếu kỳ để thực hiện một chuyến đi đến thăm Ngài Benz ở Mannheim mùa hè trước và định thương lượng một giấy phép để lắp đặt động cơ của Benz trong nhà máy của cô. Khả năng tính toán thừa kế từ tiền nhân nhà Rowland nhanh chóng giúp cô tính toán ra khoản tiết kiệm có được nếu cô có thể sử dụng thiết kế của Camden - nếu nó hoạt động.
Và nếu anh thực sự là chồng cô.
“Có vấn đề với động cơ của anh à?”
“Nó không thể đẩy nhanh khí ga khi tốc độ quay vượt quá một trăm vòng một phút”, anh nói mà không hề nhìn lên. Không hề biểu lộ bất cứ sự ngạc nhiên nào trước sự quen thuộc của cô với những đề tài nằm ngoài tầm hiểu biết của đa số phụ nữ - và kể cả đàn ông.
Nhưng, anh đã biết tất cả về nghị sĩ Williams, người đã là thầy giáo trước khi thành tình nhân của cô.
Khoảng chân không cục bộ được tạo ra do sự rút đi của khí ga dư hút không khí và nhiên liệu vào xy lanh. Khí ga giãn nở tạo ra từ sự đốt cháy hỗn hợp không khí và nhiên liệu cung cấp năng lượng cho động cơ, nhưng lượng khí ga dư thừa không được thải đi sẽ làm giảm hiệu suất của máy.
“Anh nên bắt đầu chu kỳ thải khí ở thời điểm sớm hơn trong chu kỳ quay của trục truyền động chính”, cô nói, “Điều đó sẽ hao phí một chút năng lượng nhưng tăng được hiệu suất”.
“Đúng thế”.
“Xác định thời điểm chính xác mới là khó khăn phải không?”, cô nói. Những kỹ sư của cô đã vật lộn với điện áp của đường ray xe lửa thứ ba mà họ thiết kế cho hệ thống tàu điện ngầm dưới đất mới của Luân Đôn.
“Luôn luôn thế”, anh trả lời, “Thiết kế này chỉ có thể giới hạn ở một biên độ nào đó. Anh giảm thiểu nó xuống còn hai khả năng và quyết định góc lệch của nó trong khoảng một hoặc hai độ. Hiện giờ những kỹ sư của anh ở New York đang cải biến động cơ và chạy thử”.
“Thật tốt vì anh sẽ không làm bẩn tay mình”.
“Nhưng làm bẩn tay cũng là một nửa niềm vui. Anh luôn luôn tự dựng lên những thiết kế của chính mình. Anh có thể tạo ra bất kể thứ gì”. Anh liếc nhìn cô và mỉm cười. Trái tim cô sững lại. Mặt trời như tỏa sáng hơn khi anh mỉm cười, “Em có muốn trở thành quý bà đầu tiên của Anh chạy đến Rotten Row trong một cỗ xe không có ngựa không?”
Cô mỉm cười mặc dù không muốn. Hơi ấm râm ran đó - nửa phấn khích sôi sục, nửa lơ đễnh - lan tỏa trong cô không chịu suy giảm, “Em biết anh có thể tạo ra bất cứ thứ gì. Em biết bí mật nho nhỏ của anh”.
Anh bối rối, “Bí mật?”
“Chiếc váy Claudia mặc trong buổi dạ hội đầu tiên của cô ấy”.
“À, cái đấy”, anh nói và thả lỏng mình, “Đấy không phải bí mật của anh cũng như của nó. Nếu anh nhớ chính xác thì nó đã khá khổ sở, vì những người khác có những chiếc váy dạ hội do Monsieur Worth may, trong khi chiếc váy của nó do anh trai vá víu lại”.
“Quá khiêm tốn”.
“Đúng là anh vá víu thật. Anh không biết làm thế nào để tạo ra cái kiểu cổ áo theo ý con bé mà vạt áo không rơi khỏi người nó. Vì thế anh lấy một sợi dây thép từ chiếc khung áo lót của mẹ anh và xuyên sợi dây thép qua toàn bộ cổ áo. Trong suốt buổi dạ hội con bé chỉ lo rằng chiếc váy sẽ giết nó hoặc chọc vào ngực anh chàng đẹp trai nào đó”.
“Cô ấy cho em xem chiếc váy đó khi đến Anh vào năm 1890”, Gigi nói, “Em không thể tin là anh làm ra nó cho đến khi cô ấy thề trên tính mạng tất cả những đứa con của mình”.
“Đấy là cuộc đột nhập đầu tiên và cuối cùng của anh vào lĩnh vực thời trang”, anh nói tỉnh khô, “Anh mới mười chín tuổi và nghĩ không có gì là anh không làm được. Khi Claudia khóc hàng giờ không dứt vì không còn dư một đồng nào để mua một chiếc váy mới cho buổi dạ hội đầu tiên của nó, anh nghĩ, chuyện này lẽ nào lại khó đến thế chứ? Rốt cuộc thì, trang phục cũng chỉ là phương diện mềm mại hơn của nghề kỹ sư, sau đó anh đã cắt và khâu rất nhiều cánh buồm cho những chiếc tàu mô hình của mình”.
“Cô ấy nói anh là một phù thủy”.
“Claudia luôn nhìn đời bằng màu hồng. Anh chưa bao giờ biết sợ hãi là gì cho đến khi buổi khiêu vũ chỉ còn hai ngày nữa và anh vẫn chưa tìm ra cách để túm mười thước vải váy lại với nhau và phủ lên một cái khung váy. Tất cả những hình học phi Euclid trên thế giới đều không thể lôi anh ra khỏi vấn đề đó”.
Cô nghĩ về chiếc váy đang được nâng niu gói trong những lớp vải mỏng để trong căn phòng cũ của Claudia ở Twelve Pillars. Em có người anh tốt nhất trên thế giới, Claudia đã nói vào ngày đó, một nhắc nhở không-quá-tinh-tế rằng Gigi nên gấp rút chạy lên một chuyến tàu xuyên Đại Tây Dương.
“Sau cùng thì anh đã làm được”.
“Anh cũng đã xuyên cả dây thép vào váy”, anh nói.
Họ cùng phá lên cười. Khóe mắt anh nhăn lại thành những nét cười vui vẻ mà cô chưa từng thấy trước đây - những nếp nhăn đã hình thành từ mặt trời và muối biển, dấu hiệu của một người đàn ông ở giai đoạn huy hoàng nhất.
Anh dừng lại và nhìn cô, “Tiếng cười của em vẫn như thế, anh nói. “Anh thường nghĩ em chỉ có khôn ngoan và thực tế, cho đến khi em cười. Em vẫn cười giống như một cô gái nhỏ bị cù, vẫn nấc cụt và hết hơi”.
Anh nói những điều như thế để làm gì? Nếu anh là một ai khác, cô đã xem đó là một tuyên bố, không nhất thiết là của tình yêu, nhưng cũng với rất nhiều yêu mến. Cô phải nghĩ về nó như thế nào khi điều đó phát ra từ anh?
Anh nhanh chóng thay đổi chủ đề, “À, có điều anh muốn nói với em, anh chưa bao giờ cám ơn em vì đã giữ Christopher trong tầm kiểm soát, đúng không?”
Christopher đã dính vào vài vụ rắc rối trong những năm vừa rồi. Không có gì báo động ở mức tồi tệ - không con hoang, không nợ nần chồng chất, không bạn bè tội phạm - nhưng nó đã khiến cha mẹ lo lắng. Sau Camden Thần Thánh và Claudia Lúc Nào Cũng Biết Phải Trái, Công tước và Nữ công tước khó có thể quen với việc đương đầu với một đứa con tính khí bất thường. Vì thế Gigi gánh lấy nghĩa vụ, gỡ Christopher ra khỏi những tình huống tiềm tàng nhiều hiểm nguy, rao giảng những bài học nghiêm khắc mà hai vị công tước quá mềm yếu không thực hiện được, và cứng rắn cắt bỏ trợ cấp những lúc cần thiết.
“Không cần cám ơn em”, cô nói. “Em thích việc kiểm soát cậu ấy”.
“Nó phàn nàn về em rất nhiều trong những lá thư. Nó nói em khắt khe như Gorgon (*) và khủng khiếp gấp hai lần. Rằng em có ý định tống nó lên tàu đến Vladivostok và bỏ nó lại một nơi nào đó mà không có một xu. Rằng em đe dọa sẽ làm bất cứ ai phá sản nếu dám cho nó vay tiền khi em ngừng trợ cấp cho nó”.
(*) Gorgon: Xuất phát từ chữ gorgós của Hy Lạp có nghĩa là chết chóc, theo truyền thuyết đây là nhân vật nữ đáng sợ, có tóc là những con rắn sống có độc, ánh mắt có thể biến những ai nhìn vào chúng thành đá.
Sự thích thú trong giọng nói của anh gây ra một làn hơi ấm nguy hiểm xâm chiếm cô rồi chuyển thành một cơn bốc đồng, “Anh có nhớ em không?” Cô nghe thấy mình hỏi.
Đột nhiên âm thanh duy nhất trong cỗ xe là tiếng gầm rè rè của động cơ tàu hỏa và những bánh xe thép lăn trên những đường ray thép, với tốc độ một dặm một phút. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ, cảm thấy mình ngu ngốc giống như một đám chuột lemmut chạy loạn.
Anh cũng nhìn ra cửa sổ. Anh im lặng một lúc lâu, cho đến khi cô gần như thuyết phục được mình rằng họ đều giả vờ như câu hỏi của cô chưa bao giờ được phát ra.
Nhưng sau đó anh trả lời, “Điều đó chưa bao giờ là vấn đề chính, đúng không?”
Họ về đến ngôi nhà của bà Rowland sau giờ dùng trà. Thời tiết Luân Đôn u ám và ẩm ướt lúc họ rời đi. Còn ở khu vực này của Devon mặt trời đã dịu dàng tỏa sáng, mặc dù mặt đất vẫn còn ướt và nước mưa vẫn còn nhỏ xuống từ những lá cây.
Những bông hồng đang thời kỳ nở rộ. Với những bức tường trắng sáng và đường viền đỏ tươi, ngôi nhà của bà Rowland là tất cả sức quyến rũ của thôn quê. Gigi nửa mong đợi mẹ cô sẽ ngất xỉu khi nhìn thấy Camden và cô đi cùng nhau. Nhưng Camden chắc hẳn đã gửi một bức điện trước, vì mặc dù có một chút tò mò trong vẻ chào đón của bà Rowland, bà không hề tỏ ra ngạc nhiên.
“Một ngôi nhà xinh xắn”, Camden nói và hôn lên má bà Rowland, “Bức ảnh mẹ gửi đã không miêu tả nó một cách công bằng”.
“Anh nên nhìn thấy Devon trong mùa xuân”, bà Rowland nói. “Không có gì sánh bằng những khóm hoa dại trong tháng Tư”.
“Vậy con sẽ đến vào tháng Tư”, Camden nói. “Lúc đó con chắc vẫn ở Anh”.
Gigi cảm thấy ánh mắt của mẹ gắn vào lưng khi cô đứng nhìn ra khu vườn rải rác những cánh hoa từ trận mưa trước đó. Điều anh nói không có gì mới, tất nhiên. Thỏa thuận của họ kéo dài một năm, và một năm đó không kết thúc cho đến tháng Năm tới. Nhưng vì lý do nào đó cô không thể mường tượng ra họ sẽ tiếp tục như thế này trong mười một tháng nữa, hay thậm chí là mười một tuần.
Trong mười năm mọi việc đều vẫn dừng mãi ở một chỗ, bởi vì anh đã thể hiện thật rõ ràng rằng ngay ca ở cách xa nhau cả nửa vòng trái đất cũng không đủ khoảng cách giữa hai người họ. Khi anh vừa về đến nhà, anh không những là hiện thân của sự phản kháng, mà anh còn đẩy nó lên một độ cao không ai với tới từ trước đến nay. Nhưng sự việc đã thay đổi. Tình trạng tan băng mối thù hằn đặt họ vào vùng đất giả dối, trước những khả năng nguy hiểm, những khả năng mà cô thậm chí không dám nghĩ đến trong ánh sáng ban ngày, bởi vì chúng dẫn đến sự điên rồ hoàn toàn.
“Mẹ sẽ mong đợi đấy”, bà Rowland nói, “Chúng ta ít gặp anh quá”.
“Con tin là con đã gửi khá nhiều lời mời mẹ đến thăm thành phố New York, thưa mẹ”, Camden nói với nụ cười và thách thức, “Và mẹ luôn tìm được lý do để trì hoãn”.
“Nhưng anh không hiểu sao, anh Tremaine thân mến”, bà Rowland ngọt ngào nói, “Mẹ không bao giờ có thể ghé thăm một người đàn ông không hề nói chuyện với con gái mình”.
Gigi suýt nữa quay lại vì ngạc nhiên. Cô chưa bao giờ nghĩ về mẹ cô như một đồng minh trong việc này. Có lẽ do cảm giác tội lỗi rất lớn của cô. Cô luôn tin rằng bà Rowland đổ lỗi cho cô vì cuộc hôn nhân thảm họa im lìm này. Và những lá thư mà mẹ cô viết cho Camden đã góp phần làm cô tin rằng bà Rowland có thể lao vào một mối quan hệ tình dục với chính quỷ dữ chỉ cần Camden ban phát sự tha thứ cho Gigi.
“Tất nhiên, mẹ thực sự cũng không nên thư từ với anh nữa”, bà Rowland nói,
“Nhưng thật bực mình là mẹ luôn thất bại trước những tính cách hoàn hảo kiểu đó”.
Lần này Gigi thực sự quay lại. Đó là một lời xin lỗi hay sao? Từ một người đàn bà chưa bao giờ làm gì sai trong cuộc đời mình?
Hollis bước vào phòng với bộ đồ uống trà, và cuộc hội thoại quay ngoắt sang lễ hội từ thiện gần đây nhất của bà Rowland. Thực tế cho thấy Camden rất quen thuộc với những hoạt động từ thiện của bà Rowland.
“Số tiền đó không phải nhiều hơn con số mẹ thường quyên góp được ở những sự kiện này hay sao?”, anh nói ngay khi bà Rowland đưa ra con số.
“Ừ, mẹ cho là thế”. Bà Rowland ngập ngừng, “Công tước dành cho hội một phần đóng góp lớn”.
“Cũng là vị công tước sẽ đến dùng bữa tối nay à?”, Gigi hỏi.
Chúa lòng thành, có phải có một nét ửng đỏ trên mặt mẹ cô? Chắc chắn là họ đã có vài lời nói trái ngược nhau về Công tước của Perrin trong chuyến đi đến Luân Đôn gần đây nhất của bà Rowland. Nhưng sắc hồng trên má bà Rowland dường như không xuất phát từ sự khiếp đảm hay xấu hổ.
“Đúng là người đó”, bà Rowland lần nữa trở nên kín bưng gần giống với bức tượng Thánh mẫu của nước Ý Thời kỳ Phục hưng. “Một hình mẫu ngưỡng mộ của một người đàn ông. Một học giả cổ điển. Mẹ rất vui vì con sẽ làm quen với Đức ngài”.
Camden nâng cốc lên, “Còn con, chí ít một lần, mong đợi bữa tối với sự chờ đợi run rẩy”.
Vài phút sau Camden ra ngoài cưỡi ngựa xuống Torquay ngắm cảnh theo gợi ý của bà Rowland. Gigi cảm thấy không thoải mái với anh trong căn phòng này. Đôi mắt sắc sảo của mẹ cô đánh giá mọi cử chỉ giao tiếp giữa họ, cứ như bà có thể suy diễn được lý do từ những câu như “Anh vui lòng chuyển hộ đĩa kem?” Nhưng không có sự hiện diện của anh như một vật đệm, bầu không khí kỳ cục giữa hai người phụ nữ ngay lập tức xuất hiện, mạnh mẽ và không thể nhầm lẫn như mùi của giấm chua.
“Thứ sáu vừa rồi mẹ đã đi thăm mộ của cha con”, bà Rowland nói sau gần ba phút im lặng nặng nề.
Gigi ngạc nhiên. Họ không nói về John Rowland thường xuyên lắm. Đau buồn là một vấn đề riêng tư, “Con thấy bó hoa của mẹ khi con đến đấy vào Chủ Nhật”. John Rowland sẽ bước sang tuổi sáu tám vào Chủ Nhật nếu ông qua khi cơn sốt thương hàn đã lấy đi mạng sống của ông vào tuổi bốn chín, “Cha luôn thích hoa trà”.
“Bởi vì khi con lên ba con đã tặng ông ấy một nắm hoa trà hái từ vườn. Ông ấy rất yêu con”, bà Rowland nói.
“Cha cũng rất yêu mẹ”.
Cha cô luôn mang cô theo những lúc ông đi mua quà cho vợ. Không có gì là quá tốt đối với phu nhân xinh đẹp của ông. Ông thích những đồ kích cỡ lớn và lòe loẹt - có lẽ đó là nguyên nhân đằng sau sở thích khoa trương về nữ trang của chính cô, mặc dù hiếm khi cô mang chúng - nhưng sau này ông chỉ mua những đồ trang sức chạm đá và những viên ngọc trai khiêm tốn, bởi vì ông không muốn vợ mình phải mang bất cứ thứ gì bà cho là khoa trương.
“Tính đến khi ông ấy qua đời cha mẹ kết hôn được mười năm và năm tháng”. Bà Rowland lấy một chiếc bánh kem nhỏ, đạt nó trước mặt rồi cắt ra thành bốn miếng đều nhau đến hoàn hảo. “Còn hai tuần nữa là con kết hôn được mười năm và năm tháng. Cuộc sống là bất định, Gigi à. Đừng vứt bỏ cơ hội thứ hai của con với Tremaine”.
“Con không muốn chúng ta nói về anh ấy”.
“Mẹ thì lại muốn”, bà Rowland cứng rắn nói, “Nếu con tin rằng mẹ đã lên kế hoạch bởi vì Tremaine nằm trong dòng thừa kế công tước thì con nhầm to rồi.
Con nghĩ rằng mẹ chưa bao giờ nhìn thấy hai đứa con ngồi trong phòng khách của Briarmealow, nắm tay nhau và thì thầm hay sao? Mẹ chưa bao giờ thấy con đầy sức sống và hạnh phúc đến thế hay sao? Và mẹ chưa bao giờ thấy cậu ấy như thế, hoàn toàn không dè dặt, ít nhất là một lần hành xử theo đúng tuổi của cậu ấy, khi mà cậu ấy luôn mang vác gánh nặng của thế giới trên vai”.
“Chuyện đó lâu quá rồi, mẹ ạ”.
“Không đủ lâu để mẹ quên được. Cả con. Cả cậu ấy”.
Gigi hít một hơi thở sâu và uống hết tách trà. Nó đã lạnh, và quá ngọt - bởi vì bàn tay không đi găng của Camden đã chạm vào cô khi anh đi qua bàn, và cô không biết đã cho hai hay bốn thìa đường trong một phút sau đó. “Chúng ta nhớ
những điều đó thì có ích gì? Đúng là con yêu anh ấy, con không phủ nhận điều đó. Và có lẽ anh ấy cũng yêu con. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Anh ấy không còn yêu con và con cũng không còn yêu anh ấy. Và nếu có một cơ hội thứ hai nào đó quanh đây, thì cũng không có ai cho con một cơ hội nào, đừng nói gì đến Camden”.
“Con không hiểu sao?”, bà Rowland hét lên, cáu kỉnh đặt tách trà xuống với một tiếng cạch không giống tính cách bà chút nào. Một chút chất lỏng màu nâu sữa tràn qua vành tách và lan xuống thành một chấm tròn trên tấm khăn trải bàn thêu mà Gigi đã mua trong chuyến đi bất hạnh đến Copenhagen . “Rằng cậu ấy đang ở Anh, sống trong ngôi nhà của con, hòa thuận với con, thuyết phục con cùng đến thăm mẹ - tất cả việc này, không có ý nghĩa gì với con hay sao? Nó phải được khẳng định bằng bao nhiêu từ hay phải khắc trên một phiến đá sao?”
Cô đã tự mình đấu tranh với nó còn chưa đủ hay sao? Cô không cần phải nghe mẹ cô đánh vần từng từ một, như thể cô là một đứa trẻ con ngốc nghếch trong vở kịch nào đấy của Oscar Wilde.
“Mẹ, mẹ đã quên lý do chủ yếu để anh ấy có mặt ở đây rồi”, cô lạnh lùng nói, “Chúng con đang ly dị. Con đã ràng buộc với ngài Frederick”.
Bà Rowland đột ngột đứng dậy, “Mẹ sẽ đi nghỉ một lúc. Thật không hay khi mẹ xuất hiện trước mặt công tước với vẻ phờ phạc. Nhưng nếu con nghĩ rằng con yêu ngài Frederick một chút nào giống như con yêu Tremaine - không phải đã yêu , mà là yêu - thì con thậm chí còn ngốc hơn bất kể tên ngốc nào mà Shakespeare từng mô tả”.
Gigi vẫn ở lại trong phòng khách rất lâu sau khi bà Rowland đi khỏi, một mùi hương tinh dầu hoa hồng thoang thoảng phía sau bà. Chầm chậm, lơ đãng, cô ăn hết chiếc bánh kem bà Rowland để lại, và cả hai chiếc bánh mứt quả vẫn còn nằm trên chiếc đĩa ba tầng.
Giá như cô có thể khẳng định rằng mẹ cô đã hoàn toàn nhầm lẫn.