Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

[1] Một câu thơ trong bài Cổ ý kỳ 6 của Ngô Vĩ Nghiệp, ý rằng một thứ dù quý báu đến mấy nhưng nếu không phải là của mình thì đừng cố níu giữ – ND.

Tôi cố ý né tránh Huyền Thanh, né tránh sự lưu luyến và khákhao đối với chuyện xưa. Đứng nhìn từ chùa Cam Lộ, tôi có thể thấy được một góc tường trắng ngói xanh của Thanh Lương Đài, thế nhưng vừa thoáng liếc qua tôi đã chua xót không thôi, không dám nhìn tiếp nữa.

Sáng sớm ba ngày sau, tôi không thể không đổi sang bộ mặt khác. Lạnh lùng nhìn bản thân trong gương, sắc mặt tôi bình lặng, không có lấy một chút biểu cảm nào. Bấy lâu nay tôi đã quen mặc áo ni cô, gần như chẳng trang điểm chút nào, và Huyền Lăng khi mới gặp lại tôi đã thấy một Chân Hoàn trong bộ dạng nữ tử Phật môn, điềm đạm mộc mạc. Vậy thì hôm nay, khi trở lại hậu cung, tôi phải ăn mặc sao cho thật diễm lệ, thật quý phái, khiến Huyền Lăng vừa nhìn thấy tôi đã phải chấn động tâm thần.

Tôi mở rương, chọn lấy bộ đồ cao quý diễm lệ nhất mà mặc vào người. Lúc này đây, trên người tôi là một chiếc áo gấm thêu hoa có ống tay áo rộng, bên trên được điểm xuyết bằng rất nhiều sợi tua ngắn có đính những viên đá quý nhỏ long lanh, ngoài ra nơi tay áo còn đính kèm một chiếc khăn sa mỏng dài chừng hơn một trượng, hết sức thướt tha. Ngó nhìn xuống dưới, đó là một chiếc váy dài chạm đất có màu vàng tươi, chất vải mềm mại, mịn màng, hơn nữa còn tỏa ra mùi hương thoang thoảng dễ chịu. Bên trên chiếc váy có hình thêu một con chim oanh đậu trên cành hải đường hết sức sống động, từng đường chỉ còn được điểm xuyết bằng những viên trân châu nhỏ long lanh, số lượng nhiều không kể xiết, thể hiện rõ sự xa hoa quý phái của hoàng gia.

Tôi đưa mắt ra hiệu cho Hoán Bích và Cận Tịch không được động tay vào, tự mình gỡ bỏ búi tóc kiểu Thái hư tượng trưng cho người xuất gia, để mái tóc đen nhánh dài gần chạm đất buông xõa ra sau đầu, dùng chiếc lược sừng tê nạm ngọc chải tóc cẩn thận. Sau đó tôi tự tay búi cho mình kiểu tóc Kinh hồng quy vân, trên mỗi búi tóc ở hai bên trái phải có cài sáu cây trâm bạch ngọc đính chuông bạc, khi bước đi sẽ vang lên những tiếng đinh đang trong trẻo vui tai. Tại búi tóc chính giữa, tôi cài một chiếc bộ dao phượng hoàng tung cánh bằng vàng ròng nạm ngọc, đầu phượng chế thành từ vàng lá, các vị trí như cổ, ngực, bụng, chân thì dùng những sợi vàng mảnh như sợi tóc làm thành hình dạng lông vũ phủ ngoài, bên trên nạm bảo thạch đủ các màu, nơi miệng phượng hoàng có ngậm một dải tua dài đính đủ các loại châu ngọc, cuối dải tua là một viên trân châu tròn xoe vừa khéo chạm đến vị trí mi tâm của tôi, cực kỳ bắt mắt. Nơi cổ tôi không hề đeo bất cứ thứ đồ trang sức gì, chỉ bảo Cận Tịch vẽ giúp lên đó một bức hình hoa hải đường thật tinh tế với bông hoa màu đỏ nổi bật giữa những phiến lá màu xanh, nền lại được trải bằng bột, sau khi hoàn thành liền toát ra một vẻ triền miên da diết khó mà miêu tả bằng lời. Hai tai tôi thì đeo một cặp hoa tai làm bằng vàng ròng nạm mã não đỏ, bên trên có những sợi tua dài chạm tới tận vai, khiến tôi cảm thấy hơi lành lạnh ngưa ngứa.

Tôi vẽ cho mình hai dải lông mày hình núi xa, lại đánh một lớp phấn đỏ rồi dùng nước sương hòa bột ngọc trai bôi lên, làm thành Phi hà trang, sắc mặt vừa trắng ngần lại vừa ánh lên những tia đỏ tươi nhàn nhạt. Đưa mắt liếc thấy cây bút vẽ trong hộp đồ trang điểm, lòng tôi thầm run lên, muốn vẽ một bông hoa lê ở nơi mi tâm của mình. Tôi bất giác nhớ lại dịp mình say rượu ngủ dưới gốc lê ở sân sau Đường Lê cung, một cánh hoa lê vừa khéo rơi xuống mi tâm, Huyền Lăng từng nói làn da tôi trắng như hoa lê, hoa rơi vào giữa đôi hàng lông mày thì không hề nổi bật, thế là bèn tự tay cầm bút vẽ một bông hoa lê vào nơi mi tâm của tôi, tạo ra kiểu trang điểm Giảo lê trang, nhất thời mọi người trong cung đua nhau học theo. Đó là thời điểm tôi còn được sủng hạnh, cũng là chút tình ý của tôi với Huyền Lăng năm xưa. Giờ đây, nếu tôi mà trang điểm theo lối đó rồi để Huyền Lăng nhìn thấy, y nhất định sẽ nhớ lại tình xưa, sự thương yêu trong lòng ắt lại càng nồng đậm.

Thế rồi tôi bèn cầm bút vẽ lên, Hoán Bích hiểu ý lập tức đưa một hộp son tới cho tôi nhúng bút. Nghiêng đầu ngó ra phía ngoài, thấy một bóng dáng cao lớn đã đợi từ lâu, lòng tôi bỗng trào dâng nỗi đớn đau vô tận. Bóng dáng ấy thật quen thuộc biết bao, dường như đời này kiếp này sẽ mãi mãi khắc sâu trong trái tim tôi. Dù đã quyết định sẽ trở lại bên cạnh Huyền Lăng, nhận sự ân sủng, dù đã quyết định một lòng một dạ diễn tốt vai “Hoàn Phi” để bảo vệ những người mà mình muốn bảo vệ, thế nhưng tôi vẫn không kìm được đờ người ra, hai mắt bỗng như tối sầm, để mặc cho cây bút vẽ trong tay rơi xuống đất.

Cận Tịch lặng lẽ nhặt bút lên, ôn tồn nói: “Chắc nương nương đã mệt rồi, để nô tỳ làm giúp vậy.” Sau đó bèn cẩn thận vẽ giúp tôi, miệng nở một nụ cười tươi rạng rỡ. “Nương nương sắc vóc nghiêng trời, còn hơn cả ngày xưa, Hoàng thượng nhất định sẽ vô cùng sủng ái.”

Tôi chăm chú nhìn vào trong gương, người trong gương đã chẳng còn chút vẻ ảm đạm nào, khắp người đều xinh tươi rực rỡ, diễm lệ đến tột cùng. Lúc này đây tôi như đang đeo một chiếc mặt nạ, tất thảy tâm trạng u ám đều được giấu đi. Tôi gượng cười, nói: “Đã lâu rồi không mặc cung trang thế này, bây giờ mặc vào có cảm giác thân thể như nặng thêm mấy chục cân vậy, thật khó chịu quá!”

Lời này vừa mới nói ra, ngay đến cả bản thân tôi cũng thấy vô cùng buồn bã. Bộ cung trang này đẹp thì có đẹp, nhưng thật chẳng khác gì gông cùm ngàn cân, khóa hết mọi niềm hy vọng trong cuộc đời này của tôi.

Cận Tịch hơi cúi đầu, cung kính nói: “Hoàng thượng sủng ái nương nương, ban thưởng hậu hĩnh, nương nương có thể ngày ngày thay đồ mới, sau khi quen rồi thì sẽ chỉ thấy đẹp chứ không còn thấy khó chịu nữa.”

Tôi gượng cười hờ hững. “Chuyện đời có lẽ đều như vậy, sau khi quen rồi thì sẽ không còn cảm thấy khó chịu nữa.”

Tôi khẽ nói: “Ra ngoài thôi!” Hoán Bích và Cận Tịch lập tức mở cửa phòng, một phải một trái đỡ tôi đứng dậy. Dưới vầng mặt trời tháng Năm rực rỡ, Huyền Thanh chắp tay sau lưng đứng một mình dưới gốc lựu ngoài sân, những cánh hoa đỏ tươi rơi đầy xuống người nhưng y lại hoàn toàn không phát hiện. Tôi đưa mắt thoáng nhìn qua phía y, ánh mắt y chợt trở nên đờ đẫn, như là một người mù lâu năm đột nhiên nhìn thấy ánh sáng nên không thể thích ứng kịp vậy.

Hoán Bích khẽ gọi y: “Lục Vương gia.” Y lập tức tỉnh táo trở lại, ung dung quỳ xuống, nói rành rọt thành từng từ: “Thần đệ Thanh Hà Vương Huyền Thanh tham kiến Hoàn Phi nương nương.”

Như thể bị người ta dùng một con dao sắc đâm thẳng vào tim, tôi phải cố hết sức mới giữ được giọng nói không run rẩy: “Thanh Hà Vương xin hãy đứng dậy đi.”

Y nhanh chóng ngẩng lên, tại nơi sâu thẳm trong mắt thoáng qua một tia buồn thương tột độ, như là một ngôi sao băng bay vụt qua bầu trời đêm, sau nháy mắt đã biến mất. Y nói: “Mời nương nương dời gót, kiệu loan đã chờ sẵn ngoài chùa rồi.”

Tôi lạnh lùng cất tiếng, cơ hồ không thể nhận ra giọng nói của mình: “Đã làm phiền Thanh Hà Vương rồi!” Khi chậm rãi đi qua bên cạnh y, tôi khẽ nói: “Trên người Vương gia có dính mấy cánh hoa rơi kìa, những vật chẳng lành như thế thực không nên để chạm tới người Vương gia.” Y dường như không hề nghe thấy, vẫn đứng im không ộng đậy.

Hoán Bích thấy tình hình không đúng lắm, bèn bước lên trước hai bước giúp Huyền Thanh phủi đi mấy cánh hoa trên người. Huyền Thanh khẽ thở dài một tiếng. “Hoa rơi vốn theo ý người, phủi nó đi làm gì?”

Lòng tôi bất giác thầm băng giá, y rốt cuộc vẫn trách tôi.

Cận Tịch buông cánh tay tôi ra, khẽ nhún người hành lễ. “Nô tỳ qua chỗ kiệu loan xem có vấn đề gì không.”


Hoán Bích cũng nói: “Ngọc bội như ý của tiểu thư hình như còn bỏ quên trong phòng, để nô tỳ đi lấy.”

Tôi khẽ cất tiếng gọi: “Thanh!”

Y không kìm được đưa mắt nhìn tôi, giọng nói xiết nỗi bi thương băng giá: “Hoàn Nhi, ta không hận người khác, chỉ hận bản thân thôi.”

Sau một hồi lâu im lặng, tôi đưa tay nhặt lấy một cánh hoa lựu đỏ tươi trên vai y, khẽ nói: “Ta tự có đạo lý của mình. Người dính hoa lựu kỳ thực cũng là việc mừng, Hoàn Nhi xin chúc Vương gia con cháu đầy nhà, phúc thọ dài lâu.”

Y nhất thời chưa hiểu, đưa mắt nhìn về phía chân trời xa xôi, ánh mắt toát ra một vẻ hiu quạnh khó mà dùng lời để miêu tả: “Không có nàng, phúc thọ dài lâu đối với ta mà nói thực chẳng có chút ý nghĩa nào cả!”

Trái tim tôi như bị một cây búa gõ mạnh vào, tột cùng đau đớn, lại giống như một lớp băng trên mặt hồ đang không ngừng nứt vỡ, cuối cùng tan ra thành từng mảnh nhỏ, không cách nào nối liền lại được. Tôi đau xót vô cùng, khó có thể nói được lời nào, chợt một làn gió man mác thổi qua, trên cành cây có bông hoa lựu nhẹ nhàng rơi xuống đất, nghe “bộp” một tiếng, rồi lại một tiếng nữa vang lên.

Sau một thoáng lặng im, Hoán Bích không biết đã tới bên cạnh tôi tự lúc nào, khẽ nói: “Thời gian không còn sớm nữa, tiểu thư mau lên kiệu thôi.” Dứt lời bèn đưa tay ra chờ tôi bám vào.

Tôi đột nhiên tỉnh táo trở lại, đang định đưa tay tới, chợt bàn tay của Huyền Thanh đã đỡ lấy tay tôi. Tay y thật lạnh biết mấy, tựa như vừa ngâm nước băng giữa tiết trời tháng Giêng, không có chút ấm áp. Hoán Bích lộ rõ vẻ kinh hãi, tôi cũng biết như thế này không hợp với lễ nghi, đang định giằng tay ra thì đã nghe y trầm giọng nói: “Thần cung nghênh nương nương hồi cung, để tỏ hoàng ân mênh mang khôn xiết.”

Tôi nhanh chóng khôi phục vẻ điềm đạm ung dung, dịu dàng cất tiếng: “Vậy xin làm phiền Thanh Hà Vương rồi.”

Tôi bám vào tay y bước đi chậm rãi, trong chùa Cam Lộ, điện Phật trùng trùng, những bậu cửa liên miên chừng như bước mãi cũng không qua hết được, trong không khí vương vất đầy mùi đàn hương. Tất cả mọi người trong chùa lúc này đều đã ra ngoài quỳ đợi, khung cảnh trở nên tĩnh lặng vô cùng, chỉ có tiếng bước đi chậm rãi của mấy người chúng tôi. Tôi chợt nhớ lại cảnh trời chiều u ám trên con đường núi ngày đó, những cành cây trên đỉnh đầu nhìn như lũ ma quỷ đang múa vuốt nhe nanh, Huyền Thanh ngoảnh đầu qua nhìn tôi, khẽ nói: “Tư thế dắt tay này có tên gọi Đồng tâm khấu, nghe đồn cặp nam nữ nào dắt tay nhau như thế này, cả đời sẽ không bao giờ ly biệt.” Tôi gượng cười buồn bã, dường như những lời đó mới được nói cách đây không lâu, chỉ chừng hơn một năm thôi, vậy mà sự đời đã biến đổi khôn lường, còn con đường này thì chẳng bao lâu nữa sẽ kết thúc.

Cẩn Thân điện đã là tòa điện cuối cùng rồi, chỉ một lát nữa thôi chúng tôi sẽ phải buông tay nhau ra. Bên ngoài cửa chùa có hai hàng cung nữ và thái giám đang cung kính cúi đầu quỳ đợi, chiếc kiệu loan màu vàng tươi mà xưa nay vốn chỉ có Hoàng hậu mới được ngồi dừng ở phía không xa. Chiếc kiệu này cao sáu thước, rộng sáu thước, dài tám thước, được làm bằng gỗ cổ đàn, hai càng sơn màu đỏ tươi, bốn góc của mui kiệu đều có treo một quả cầu vàng chạm rỗng, trong mỗi quả cầu vàng lại đặt hai chiếc chuông vàng, gió thổi tới là sẽ làm vang lên những tiếng “đinh đang” trong trẻo. Trên thân kiệu có rất nhiều bức hình tinh xảo được nạm thành từ vàng bạc, như là hình hoa mẫu đơn vờn quanh long lân quy phượng, thần tiên dạo vườn xuân, bốn phía xung quanh lại treo rèm châu lóng lánh, hai đầu trước sau của chiếc kiệu còn có mười sáu tấm bảng hiệu đỏ tươi viền vàng, thể hiện rõ khí phái của hoàng gia. Huyền Lăng, y quả nhiên đã dùng đội nghi trượng có quy cách bằng một nửa Hoàng hậu để đón tôi về cung.

Lý Trường và Cận Tịch sớm đã chờ sẵn bên ngoài, vừa nhìn thấy chúng tôi liền vội vàng bước tới hành lễ ba quỳ chín lạy, cung kính nói: “Bái kiến Vương gia, nương nương. Cung nghênh nương nương hồi cung.”

Tôi khẽ gật đầu, tỏ ý bảo bọn họ hãy đứng dậy, sau đó mới trầm giọng nói: “Hoàng thượng trịnh trọng thế này, sao bản cung dám nhận? Tùy tiện dùng nghi trượng của Hoàng hậu đã là tội đại bất kính, dù Hoàng thượng ơn cao, Hoàng hậu đức dày, bản cung cũng không dám vượt lễ.” Đưa mắt liếc nhìn Lý Trường, tôi hờ hững nói tiếp: “Lý công công, xin hãy lập tức về cung bẩm rõ với Hoàng thượng cho bản cung được dùng nghi trượng của phi tử, bằng không bản cung quyết không dám về cung.”

Lý Trường cười gượng, nói: “Nương nương ngay từ đầu đã biết rồi mà, đây là ý của Hoàng thượng…”

Tôi khẽ mỉm cười. “Bản cung cũng sớm đã nói rồi, bản cung thực không dám nhận.”

Lý Trường chỉ đành đưa mắt nhìn qua phía Cận Tịch, trên trán lấm tấm mồ hôi, vội vàng quỳ xuống, nói: “Đi đi về về như vậy chỉ e sẽ tốn không ít thời gian, làm Hoàng thượng nôn nóng, xin nương nương hãy về cung trước rồi có việc gì sẽ bàn sau.”

Tôi chẳng buồn nhìn y, chỉ nói: “Tôn ti vốn nên rõ ràng, bản cung không phải hạng người ỷ được sủng ái mà kiêu ngạo vượt lễ, cũng không muốn sau này gặp Hoàng hậu phải sinh lòng hổ thẹn.” Lý Trường không dám đứng dậy, chỉ đành dập đầu lia lịa, chẳng nói năng gì.

Cận Tịch vội vàng đỡ y đứng dậy, thấp giọng nói: “Còn không đi mau về mau!” Lý Trường vội vàng khom người lui đi, chạy nhanh xuống núi. Chùa Cam Lộ được xây dựng trên đỉnh Cam Lộ, đưa mắt nhìn đi có thể thấy hết quang cảnh ở kinh sư. Dưới chân núi có một mảnh rừng thưa có những khoảnh ruộng mênh mông bát ngát, nhìn đi xa hơn còn thấp thoáng thấy được thành quách liên miên, muôn hộ gia đình, mà đặc biệt nhất phải kể đếnchốn lấp lánh ánh vàng dưới vầng mặt trời rực rỡ, đó chính là Tử Áo Thành mà tôi đã rời xa suốt mấy năm trời.

Gần đến buổi trưa, ánh dương lại càng rực rỡ, khiến tôi không kìm được phải nheo mắt lại. Hoán Bích bước tới, nói: “Trời nắng quá, xin tiểu thư và Vương gia hãy quay lại Cẩn Thân điện ngồi nghỉ ngơi một lát chờ nghi trượng tới.”


Tôi ngoảnh đầu qua, nói: “Mời Vương gia cùng ta qua đó nghỉ ngơi một lát, tránh cái nắng hè.” Huyền Thanh khẽ gật đầu, đỡ tay tôi bước trở lại Cẩn Thân điện, cùng nhau ngồi xuống.

Các ni cô lúc này vẫn đang quỳ bên ngoài cửa chùa, chẳng hề động đậy. Trời nóng dần, những chiếc áo ni cô của bọn họ đều đã bị mồ hôi làm ướt đẫm phần cổ áo, nhưng chỉ sau một canh giờ tất cả lại bị mặt trời hong khô, để lại từng mảng trắng lóa. Tôi vừa thoáng liếc qua đã nhìn thấy Tịnh Bạch đang quỳ phía sau trụ trì, không biết có phải vì quá béo hay không, bà ta chảy nhiều mồ hôi hơn những người khác rất nhiều, chiếc áo ni cô đã ướt đẫm.

Tôi gọi bà ta lại gần, chậm rãi nói: “Bản cung thanh tu ở đây mấy năm, thực phải cảm ơn Tịnh Bạch sư thái đã chiếu cố cho rất nhiều.”

Tịnh Bạch mặt mày tái nhợt, cất giọng run run: “Người xuất gia… vốn nên lấy lòng từ bi làm đầu, nương nương… nương nương không cần cảm ơn.”

Tôi lạnh lùng nói: “Sự ‘chiếu cố’ của sư thái bản cung suốt đời chẳng dám quên, nhất định phải báo đáp mới được.” Dưới ánh mặt trời nóng nực, thân thể Tịnh Bạch run lẩy bẩy.

Huyền Thanh cho rằng tôi muốn giết bà ta tại đây để giải mối oán hận khi xưa, bèn đưa mắt liếc tôi, thấp giọng nói: “Hoàn… Nương nương, chớ nên tức giận.” Tôi chỉ cười không nói, đưa tay khẽ phủi nhẹ chiếc áo ni cô của bà ta. Bà ta như bị dao sắc cứa vào người, rùng mình một cái, mồ hôi lạnh rỉ ra không ngớt.

Tôi không để ý đến bà ta nữa, gọi Tĩnh Ngạn tới, mỉm cười nói: “Bản cung xưa nay ân oán phân minh, cái ơn chiếu cố của sư thái khi xưa bản cung vẫn luôn ghi tạc trong lòng.” Rồi ngoảnh đầu sang dặn dò Cận Tịch: “Mang hai bộ Thái Bình kinh mà bản cung chép tay lại đây thưởng cho Tĩnh Ngạn sư thái.” Sau đó lại cười nói với Tĩnh Ngạn: “Bản cung biết sư thái xem nhẹ bạc vàng, hai bộ kinh thư này coi như để tỏ chút tâm ý của bản cung.”

Tĩnh Ngạn quả nhiên rất vui mừng, lập tức mỉm cười cảm tạ rồi lại nói: “Bần ni còn có một tâm nguyện, xin nương nương thành toàn cho.”

Tôi liếc nhìn Tịnh Bạch vẫn đang run lẩy bẩy quỳ bên cạnh, trầm giọng nói: “Điều sư thái muốn nói bản cung đã biết rồi. Bản cung sẽ tha cho bà ta một lần này, hy vọng bà ta có thể sửa đổi lỗi lầm, một lòng hướng Phật.”

Tĩnh Ngạn cúi đầu, nói: “Cảm ơn nương nương có lòng từ bi, Phật Tổ nhất định sẽ phù hộ cho nương nương suốt đời bình an.” Tịnh Bạch cũng vội vàng khấu đầu tạ ơn không ngớt.

Nhìn bọn họ đã lùi đi xa, tôi trầm giọng nói với Cận Tịch: “Người này tội chết có thể miễn, tội sống thì khó mà tha được. Năm xưa bà ta vu cho ta ăn trộm tổ yến, hôm nay hãy thưởng cho bà ta một trận đòn coi như là trừng phạt.”

Cận Tịch khẽ gật đầu: “Nô tỳ sẽ đi giải quyết ổn thỏa, nương nương yên tâm.”

Tôi vẫy tay gọi Mạc Ngôn lại gần, mỉm cười, nói: “Ta sẽ đưa Hoa Nghi vào cung, còn ở đây Tĩnh Ngạn sư thái tuy là trụ trì nhưng lòng dạ lại quá mềm yếu, từ nay về sau bà hãy thay thế vị trí của Tịnh Bạch, cẩn thận quản giáo các ni cô trong chùa, giúp bọn họ sửa đổi nếp sống cũ một chút.”

Mạc Ngôn thoáng lộ vẻ buồn bã, tha thiết nói: “Nương nương hãy bảo trọng.”

Chẳng bao lâu sau, Lý Trường đã dẫn theo đội nghi trượng cùng loại kiệu chuyên dùng cho phi tử tới, tất cả mọi người nhất tề quỳ xuống, hô lên: “Cung nghênh nương nương hồi cung.”

Tôi chậm rãi đứng dậy, Huyền Thanh đỡ tay tôi chậm rãi bước đi trên tấm thảm đỏ tươi. Đôi giày thêu của tôi đã lâu lắm rồi chưa được đi trên một nơi mềm mại thế này, lớp vải gấm dày của tấm thảm khiến tôi nhất thời có chút không quen. Tôi hơi cúi xuống, nhìn thấy chiếc bụng còn chưa nhô lên mấy của mình, nhìn thấy người đang đứng bên cạnh đỡ tay tôi, trong lòng bỗng trào dâng cảm giác giá lạnh, không kìm được ngẩng lên nhìn vầng mặt trời rực rỡ trên cao.

Dưới vầng mặt trời đó, vạn vật đều có vẻ nhỏ bé biết bao, tựa như vô số hạt bụi chẳng đáng nhắc đến giữa hồng trần vạn trượng. Đứng tại nơi cao nhìn xuống thế này, tôi bỗng nhớ lại tình cảnh trên ngọn Huy Sơn ngày đó, một dòng cảm xúc lạnh băng bất giác trào dâng: Tôi phải đạp cả thiên hạ này xuống dưới chân, tôi phải nắm lấy quyền lực chí cao trong thiên hạ vào tay mình, tôi phải bảo vệ đứa bé trong bụng tôi, bảo vệ tất cả những người mà tôi muốn bảo vệ!

Phi tần vào cung từ xưa đến nay chỉ có thể đi qua cửa ngách Trinh Thuận Môn. Trong Tử Áo Thành, con đường từ Trinh Thuận Môn tới nội cung quanh co khúc khuỷu, Loan Nghi vệ và Vũ Lâm hộ quân canh gác nghiêm ngặt bên ngoài, phía bên trong, các thái giám vận đồ đỏ sẫm và các cung nữ vận đồ xanh nhạt thõng tay hai bên đứng lặng im như những bức tượng gỗ, dẫn kiệu loan đi thẳng một mạch tới Trọng Hoa điện.

Tấm thảm màu đỏ trải trên bậc thềm đá cẩm thạch kéo dài vào tận trong điện, mà nơi tận cùng của tấm thảm đó chính là Huyền Lăng đang chờ đợi tôi. Tuy chỉ là đón phi tử vào cung nhưng y vẫn mặc long bào để bày tỏ sự trịnh trọng, còn Hoàng hậu xưa nay vẫn luôn chiều ý Huyền Lăng nên cũng mặc áo phượng màu tím thêu hình mẫu đơn đứng kề bên, nhìn từ phía xa, hai con người ấy đều toát lên vẻ tột cùng cao quý.


Lòng tôi thầm cười lạnh, mấy năm không gặp, thoạt nhìn bề ngoài Hoàng thượng với Hoàng hậu vẫn là một cặp vợ chồng hòa thuận, ân ái như xưa, thật khiến người ta phải “ngưỡng mộ”.

Tôi chỉnh sửa lại trang phục một chút, chuẩn bị bước xuống kiệu loan. Vì bộ đồ trên người khá nặng nề nên tôi xuống kiệu hết sức khó khăn, nhưng không đợi thái giám mang ghế tới cho tôi đặt chân, Huyền Thanh đã bước qua đưa tay đỡ lấy tay tôi, dìu tôi xuống kiệu.

Mũi bàn chân vừa mới chạm đất, tay tôi đã hơi dùng sức muốn rụt khỏi lòng bàn tay y. Năm ngón tay của Huyền Thanh nắm chặt, tôi không thể giãy thoát ra được, bất giác đỏ mặt tía tai, hết sức xấu hổ.

Y thản nhiên nói: “Thanh phụng mệnh hoàng huynh đích thân đi đón nương nương về cung, qua đó đủ thấy nương nương có địa vị thế nào trong lòng hoàng huynh, vậy nên tất nhiên càng long trọng càng tốt. Xin hãy để Thanh được đỡ nương nương lên điện.”

Chắc đây là chút khoảnh khắc ấm áp cuối cùng giữa chúng tôi rồi. Hai mắt bất giác cay cay, tôi cố kìm nén để không bật khóc, thấp giọng nói: “Đã làm phiền Vương gia rồi!”

Y tỏ ra nghiêm túc và trịnh trọng, đỡ tay trái tôi, dắt tôi bước về phía trước. Trên ngón tay tôi có đeo một chiếc nhẫn vàng khảm ngọc, nó hệt như là sự ước thúc của ông trời với vận mệnh của tôi, viên ngọc tì vào lòng bàn tay mang tới cảm giác lành lạnh, cái lạnh còn dần truyền thẳng tới tận đáy lòng. Tôi bước đi vững chãi trên thảm đỏ, chậm rãi tiến về phía Huyền Lăng. Càng tới gần, lòng tôi càng thêm giá lạnh, mà lòng bàn tay Huyền Thanh cũng không còn ấm áp như xưa, trở nên băng giá tột cùng. Ngón tay tôi hơi co lại, y cảm giác được, bàn tay liền nắm càng chặt hơn. Lòng tôi xiết nỗi đau thương, còn trào ra một sự sợ hãi khó mà dùng lời miêu tả, chỉ mong thời gian có thể dừng lại để chúng tôi vĩnh viễn không phải đi hết con đường này.

Dấu ấn của thời gian thật rõ ràng biết mấy, trong khoảnh khắc nhìn thấy dung mạo của Huyền Lăng, lòng tôi bỗng dưng đau nhói, vội vàng nhắm chặt mắt lại theo bản năng, khi mở mắt ra thì bên trong đã tràn đầy thần thái thiết tha và kỳ vọng, dường như còn có một nỗi mừng vui khó giấu.

Tôi quỳ xuống cung kính nói: “Thần thiếp đã về đây, kính chúc Hoàng thượng, Hoàng hậu thánh thể an khang, phúc trạch hưởng mãi.”

Huyền Lăng lập tức tới đỡ tôi đứng dậy, lại cầm lấy bàn tay tôi, cười tủm tỉm, hỏi: “Đi đường có vất vả lắm không?”

Tôi khẽ lắc đầu, khi bàn tay bị y nắm lấy bất giác có chút không thoải mái, nơi đáy lòng còn trào dâng cảm giác ghê tởm.

Hoàng hậu tươi cười rạng rỡ, đưa tay tới nắm lấy bàn tay tôi, ân cần nói: “Hoàng thượng vừa nói với bản cung, bản cung lập tức vui mừng khôn xiết, mấy ngày qua lúc nào cũng mong Hoàn Phi mau mau về cung, cảm thấy ngày dài như năm vậy.” Có lẽ vì đứng nơi đầu gió quá lâu, bàn tay Hoàng hậu lạnh không kém gì tôi, thế nhưng nụ cười đậu bên khóe miệng chưa từng giảm bớt. “Hoàn Phi gầy đi rồi, sau khi về cung nhớ phải tĩnh dưỡng cẩn thận mới được.”

Sau một hồi hỏi han ân cần, chu đáo khiến bất cứ ai cũng phải xúc động, tôi cúi đầu lộ vẻ cảm kích khôn nguôi: “Hoàng hậu có lòng quan tâm như thế, thần thiếp làm sao dám nhận.”

Huyền Lăng nói: “Thanh Hà Vương đã là sứ giả sắc phong, vậy nhân lúc các phi tần trong cung đều có mặt, hãy thay trẫm tuyên đọc chiếu chỉ sắc phong luôn đi.”

Mí mắt bất giác nẩy lên một cái, nhưng mặt Huyền Thanh vẫn không đổi sắc, y đón lấy thánh chỉ từ tay Cận Tịch và hờ hững tuyên đọc:

“Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Chiêu nghi Chân thị hiền lương thục đức, thành tâm hướng thiện, bỏ tôn vị mà vào nơi cửa Phật, một lòng cầu cho vận nước hưng thịnh, cái tâm như thế thực xứng là tấm gương cho lục cung. Vâng theo lời dạy của Hoàng thái hậu nhân từ, nay phong cho làm phi chính nhị phẩm, ban hiệu là ‘Hoàn’. Mong ngươi sau này hãy ôm lòng kính cẩn, làm mọi việc theo đúng bổn phận của mình. Khâm thử!”

Trong giọng nói của y có một tia run rẩy khó mà phát giác, tựa như những lưỡi dao mỏng manh sắc bén không ngừng cứa qua thân thể tôi, nhất thời thì không có máu túa ra, chỉ cảm thấy đau, duy có bản thân tôi là biết rõ những vết thương ấy đều sâu vô cùng.

Việc gì còn phải bắt y chính miệng tuyên đọc thánh chỉ nữa chứ? Đối với tôi và y mà nói, sự hậu ái trong mắt Huyền Lăng thật chẳng khác gì một hình phạt lăng trì đau đớn nhất.

Sau khi đọc xong, Huyền Thanh hơi khom người, nói: “Hoàn Phi đã về tới đây, thần đệ cũng coi như công đức viên mãn rồi.”

Sau nhiều năm nhẫn nhịn, Huyền Thanh sớm đã mất đi tất cả, cũng học được cách luôn giữ cho mình vẻ bình tĩnh bên ngoài. Huyền Lăng gật đầu hài lòng, vui vẻ nói: “Lục đệ bôn ba vất vả như vậy, trẫm thực nên cảm tạ lục đệ một phen mới phải.”

Hoàng hậu cũng khẽ cười. “Hoàng thượng định cảm tạ lục đệ thế nào đây?”

Huyền Lăng thoáng trầm ngâm một chút rồi mới nói: “Lục đệ giờ đã hưởng bổng lộc thân vương, không phải lo gì về tiền bạc, nay trẫm ban thêm cho đệ khu vực trăm dặm xung quanh Thanh Lương Đài làm thực ấp, đệ có hài lòng chăng?”

Hoàng hậu cười, nói: “Hoàng thượng ban thưởng rộng rãi quá, thật đúng là huynh đệ tình thâm.”


Huyền Thanh còn chưa mở miệng, một giọng nói trong trẻo giòn tan như châu ngọc đã bất ngờ vang lên: “Hoàng thượng nghênh đón vị Hoàn Phi này về cung một cách long trọng như vậy, chỉ ban tặng cho thực ấp thì hình như đánh giá thấp công lao của lục biểu ca quá rồi!”

Lời này rõ ràng mang ý ghen tị, tôi không cần ngẩng lên cũng biết là chỉ có Hồ Chiêu nghi vốn xuất thân quý tộc mới dám như vậy. Tôi khẽ cười một tiếng, ung dung nói: “Vương gia đích thân tới chùa Cam Lộ đón thần thiếp về, qua đó đủ thấy dụng tâm của Hoàng thượng. Vị muội muội này rất hiểu lòng Hoàng thượng, vậy xin Hoàng thượng hãy ban cho muội ấy một hộc ngọc làm phần thưởng đi.”

Huyền Lăng cũng không muốn vì chuyện của tôi mà nổi phong ba, bèn nói: “Theo lời nàng đi, ban cho Hồ Chiêu nghi một hộc ngọc”, rồi lại hơi nhướng mày, cười nói: “Chiêu nghi đã suy nghĩ chu đáo như vậy, trẫm cũng không thể không nghe, chi bằng hãy tặng thêm cho lục đệ mấy bức tranh của Ngô Đạo Tử nữa vậy.”

Huyền Thanh cung kính cất lời cảm tạ: “Hoàng huynh đã có nhã hứng này, thần đệ từ chối thì thành ra bất kính rồi.”

Huyền Lăng vẫy tay ra hiệu cho nữ tử xinh đẹp kia bước tới, cười nói với tôi: “Vị này là Hồ Chiêu nghi, hài hước, đáng yêu vô cùng, bọn nàng còn chưa gặp nhau, bây giờ vừa hay có thể làm quen với nhau một chút.”

Tôi mỉm cười gật đầu, còn nàng ta sau khi nhìn rõ dung mạo của tôi thì thoáng ngẩn ngơ, hơi khom người tỏ ý, nhưng không vấn an mà chỉ mỉm cười nhìn qua phía Huyền Lăng. Nữ tử này thân hình yêu kiều nhỏ nhắn, tựa một áng mây màu, trên người vận một chiếc áo dài đính đầy châu ngọc quý báu, qua đó đủ thấy nàng ta hết sức đắc sủng. Tôi cẩn thận quan sát, thấy cùng là những mỹ nhân diễm lệ, nhưng so với Hoa Phi thì Hồ Chiêu nghi có thêm mấy phần yêu kiều và kín đáo, không hề giống một người không biết giữ mồm giữ miệng.

Hồ Chiêu nghi chăm chú nhìn tôi chẳng chút kiêng dè, rồi bèn cất tiếng cười giòn tan. “Quả nhiên là đẹp như tiên nữ, chẳng khác gì Lung Nguyệt Công chúa cả.” Tôi đưa mắt nhìn về phía mấy phi tần đã có con cái, thấy phía bên trái của bọn họ là các nhũ mẫu và công chúa đứng với nhau, bên cạnh Kính Phi chính là Lung Nguyệt đã gần năm tuổi của tôi. Lòng tôi bất giác ấm lên, vội bước về phía trước, khẽ gọi một tiếng “Lung Nguyệt”. Nhưng tôi vừa đưa tay ra định bế, con bé đã nép vào lòng nhũ mẫu, sắc mặt trở nên trắng bệch.

Tôi thấy Lung Nguyệt như vậy nhất thời có chút lúng túng, Kính Phi bèn cười, nói với tôi: “Công chúa hơi sợ người lạ.” Tôi thoáng thư thái hơn một chút, mỉm cười hờ hững, nói: “Chiêu nghi đã sinh được Hòa Mục Công chúa, phúc khí hơn người, ngay đến dung mạo cũng khiến người ta điên đảo.”

Hồ Chiêu nghi lập tức bật cười khúc khích. “Chẳng trách mọi người trong cung đều nói Hoàn Phi thông minh hơn người, thì ra ở một nơi thanh tịnh như chùa Cam Lộ mà Hoàn Phi cũng có thể biết được nhiều chuyện trong chốn cung đình như vậy.”

Cô ta tuy tươi cười rạng rỡ, thế nhưng cái ý khiêu khích trong lời nói thì đã rõ ràng. Tôi hơi cụp mắt xuống, cô ta càng khiêu khích tôi lại càng nhún nhường, chẳng việc gì phải tranh hơn thua vào lúc này. Hơn nữa, lúc này e là mọi người trong cung đều muốn nói ra vài lời giễu cợt giống như cô ta.

Huyền Lăng bước lên phía trước một bước, nắm lấy bàn tay tôi, đi tới giữa Trọng Hoa điện. Trong Trọng Hoa điện bây giờ có mấy trăm phi tần, dựa theo địa vị cao thấp mà chia ra ngồi ở hai bên, đưa mắt nhìn đi chỉ thấy ai cũng ăn vận sặc sỡ, trang điểm kĩ càng, nhìn như những bông hoa đang đua sắc ở Thượng Lâm uyển.

Thế nhưng giữa chốn cung đình này, không chỉ riêng các nữ nhân, mỗi bông hoa cũng đều vô cùng cô độc.

Huyền Lăng cất giọng sang sảng nói: “Năm xưa, vì muốn cầu cho vận nước hưng thịnh, Chân Chiêu nghi không tiếc thân mình xin xuất cung tu hành, bây giờ kỳ hạn năm năm đã đủ, trẫm hết sức cảm động, do đó mới đặc biệt sắc phong cho nàng ấy làm Hoàn Phi và đón về cung.”

Mấy lời đơn giản này so ra còn hơn hẳn bất cứ sự giải thích nào của tôi. Tôi nhoẻn miệng cười tươi, nhìn y chăm chú. Chợt nghe một tiếng hô yêu kiều vang lên, chỉ thấy An Lăng Dung như một cánh bướm chạy tới giữ chặt lấy mép váy của tôi, vừa buồn vừa vui, nghẹn ngào nói: “Tỷ tỷ rốt cuộc đã về rồi, xa cách mấy năm, muội cứ ngỡ đời này kiếp này sẽ không thể gặp lại tỷ tỷ nữa, không ngờ còn có hôm nay, thật đúng là…” Lời còn chưa dứt, hai hàng lệ nóng đã lã chã tuôn rơi. An Lăng Dung đã được sắc phong làm quý tần từ lâu, nhưng vẫn chỉ có chữ “An” làm hiệu, lúc này nàng ta ăn vận không hề hoa lệ, chỉ mặc một chiếc váy dài màu xanh, bên trên thêu hình những bông thủy tiên mỏng manh tha thướt, lại càng làm tôn lên vẻ yếu đuối, đáng thương.

Lòng tôi thầm chán ghét, nhưng lại không muốn lộ ra vẻ khác thường, chỉ hờ hững nói: “Đã lâu rồi không gặp muội muội, muội muội tất thảy vẫn như xưa, chẳng hề thay đổi.”

Tôi để ý quan sát sắc mặt những người xung quanh, thấy đa số các phi tần đều lộ vẻ hết sức phức tạp, còn mười mấy người vừa mới vào cung thì có lẽ chỉ tỏ ra ngơ ngẩn vì dung mạo của tôi khá giống với Phó Như Kim, có mấy người lớn gan còn không kìm được đưa mắt nhìn nhau, rì rầm trò chuyện. Huyền Lăng cho đón tôi về cung với thanh thế lớn thế này, mọi người đều không dám xem nhẹ, nhưng thấy An Lăng Dung chủ động tỏ ra gần gũi với tôi, có mấy phi tần đã không kìm được lộ vẻ khinh thường.

An Lăng Dung làm như không thấy, còn kéo tay tôi mà hỏi han ríu rít không thôi. Tôi tuy rất khó chịu nhưng vì kiêng dè việc nàng ta là sủng phi của Huyền Lăng, nhất thời không thể phát tác, thành ra hết sức lúng túng. Đoan Phi lặng im quan sát một lúc rồi bèn chậm rãi nói với tôi: “Hoàn Phi khí sắc không tốt lắm, chắc đã mệt rồi, càng không tiện nói chuyện ở nơi có gió, nên đi nghỉ ngơi thôi.” Tôi thầm cảm kích vì nàng ta giải vây giúp mình, chợt nghe thấy tiếng cọ tay áo sột soạt, liền đưa mắt nhìn khắp xung quanh, quả nhiên nhìn thấy My Trang hai mắt rớm lệ, đang lén đưa tay áo lên lau.

Kính Phi khẽ kéo tay áo My Trang, cười, nói: “Huệ Quý tần vui mừng quá mức đây mà, Hoàn Phi phải nghỉ ngơi, chi bằng hãy cùng Hoàng thượng tới Vị Ương cung trước đi”, sau đó lại nở một nụ cười thân mật. “Hoàng thượng vì muốn đón muội muội về nên đã cho xây mới Vị Ương cung, để muội muội làm chủ vị của Nhu Nghi điện đấy.”

An Lăng Dung mỉm cười dịu dàng, thẹn thùng nói: “Vì Vị Ương cung này của tỷ tỷ mà Hoàng thượng đã phải tốn rất nhiều tâm tư đấy, bao nhiêu thứ đồ vật quý giá trong kho đều được mang hết vào, nghe nói nơi đó giống như là Bồng Lai tiên đảo vậy nhưng người lại không cho bọn muội tới xem, nói phải đợi tỷ tỷ về mới được.” Ả nói năng yêu kiều, khiến người ta không đành lòng cự tuyệt: “Chi bằng tỷ tỷ hãy dẫn bọn muội qua đó mở rộng tầm mắt đi.”

An Lăng Dung cất giọng như oanh vàng réo rắt, sắc mặt các phi tần biến hóa mấy lần, nhưng rốt cuộc đều kìm nén không nói gì cả.

Huyền Lăng cười, nói: “Sau này ắt sẽ có cơ hội, việc gì phải nôn nóng nhất thời, trước tiên hãy để Hoàn Phi làm quen với nơi ở mới đã.”

An Lăng Dung vội vàng cúi đầu, nói: “Hoàng thượng nói rất phải, là thần thiếp đã nôn nóng quá rồi, cứ muốn được ở bên tỷ tỷ nhiều thêm một chút.”

Tôi chỉ cười chứ không nói gì, ánh mắt lần lượt liếc qua mọi người xung quanh, cảm thấy các nữ tử trong cung bây giờ thật có quá nhiều người xinh đẹp, khiến người ta nhìn mà hoa mắt, nhất thời không phân biệt được ai với ai.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận