II. Percy Jackson và con rồng bằng đồng.
Một con rồng có thể làm hỏng cả một ngày của bạn.
Hãy tin tôi đi, là một á thần, tôi phải trải qua những thời khắc tồi tệ nhất. Tôi đã từng bị đớp, bị cào, bị đốt và bị đầu độc. Tôi đã từng chiến đấu với những con rồng một đầu, hai đầu, tám đầu, chín đầu và cả những con có quá nhiều đầu đến nỗi nếu bạn ngừng để đếm chúng, bạn sẽ nhận được một cái chết cực kỳ khốc liệt.
Nhưng còn quãng thời gian với con rồng bằng đồng? Tôi nghĩ chắc chắn rằng những người bạn của tôi và tôi sẽ kết thúc như Kibbles ‘n’ Dragon Bits.
Đêm đó bắt đầu khá đơn giản.
Hôm đó là ngày cuối cùng của tháng Sáu. Tôi quay trở lại từ cuộc truy tìm gần nhất khoảng hai tuần trước đây, và cuộc sống ở Trại Con Lai đang quay trở lại với guồng quay bình thường. Các thần rừng đang đuổi theo các nữ thần cây. Các con quái vật rít gào trong các khu rừng. Các trại viên đang chơi khăm lẫn nhau, và giám đốc trại của chúng tôi, thần Dionysus, đang biến bất cứ ai không vâng lời thành cây bụi. Những chuyện thường ngày của trại hè.
Sau bữa ăn tố tất cả các trại viên đang ở nhà ăn. Tất cả chúng tôi đều rất phấn khởi vì lần Cướp Cờ tối hôm đó sẽ rất ác liệt.
Đêm trước đó, nhà của thần Hephaestus đã tạo ra được sự lật đổ lớn. Họ đã cướp được cờ từ nhà của thần Ares – với sự giúp đỡ của tôi, cám ơn rất nhiều – điều đó có nghĩa là nhà thần Ares sẽ bị hạ nhục. Ừm... họ luôn hạ nhục người khác, nhưng tối nay lại đặc biệt.
Phía đội xanh gồm nhà thần Hephaestus, thần Apollo, thần Hermes, và tôi – á thần duy nhất thuộc nhà thần Poseidon. Tin xấu là, nhà nữ thần Athena và thần Ares – cả hai nhà thần chiến tranh – sẽ đối đầu với chúng tôi ở đội đỏ, cùng với nhà nữ thần Aphrodite, thần Dionysus và nữ thần Demeter. Nhà nữ thần Athena giữ lá cờ khác, và bạn tôi Annabeth là đội trưởng của họ.
Annabeth không phải là người mà bạn muốn làm kẻ thù.
Ngay trước cuộc thi đấu, cô ấy đi về phía tôi. “Này, Óc Tảo Biển.”
“Cậu ngừng việc gọi tớ như thế được không?”
Cô ấy biết tôi ghét cái tên đó, phần lớn vì tôi không tìm ra được lời nào hay ho để phản bác lại. Cô ấy là con gái của nữ thần Athena, điều đó không mang lại cho tôi nhiều sự kiện. “Đầu cú” và “Cô Gái Uyên Thâm” là những lời sỉ nhục nhàm chán.
“Tớ biết cậu thích cái tên đó mà.” Cô ấy đâm mạnh vào vai tôi, nhưng tôi đoán hành động đó thể hiện tình bạn, nhưng cô ấy đang mặc toàn bộ bộ giáp Hy Lạp, vì thế nó khá là đau. Đôi mắt xám của cô ấy sáng lấp lánh bên dưới chiếc mũ sắt. Mái tóc đuôi ngựa vàng óng của cô ấy quăn lại một bên vai. Chẳng mấy ai trông xinh trong bộ áo giáp trận, nhưng Annabeth thì khác.
“Nói cho cậu điều này.” Cô ấy hạ thấp giọng xuống. “Bọn tớ sẽ tiêu diệt cậu vào tối nay, nhưng nếu cậu chọn một vị trí an toàn... như ở hông núi bên phải, ví dụ thế... Tớ chắc cậu sẽ không bị đánh quá nhiều.”
“Gee, cám ơn,” tôi nói, “nhưng tớ chơi để giành chiến thắng.”
Cô ấy mỉm cười. “Gặp lại cậu ở trận chiến nhé.”
Cô ấy đi về phía đồng đội của mình, tất cả đều đang cười lớn và đánh tay với cô ấy. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy hạnh phúc như thế, như thể cơ hội đánh bại tôi là điều tốt nhất mà cô ấy từng có
Beckendorf bước đến với mũ sắt bên dưới tay anh ấy. “Cô ấy thích cậu đấy, anh bạn.”
“Chắc rồi,” tôi lầm bầm. “Cô ấy thích em vì mục tiêu luyện tập.”
“Không, họ luôn làm thế. Một người con gái bắt đầu muốn giết cậu, cậu biết cô ấy say mê cậu.”
“Nghe có vẻ đúng quá nhỉ.”
Beckendorf nhún vai. “Anh biết nhiều về điều đó. Cậu nên mời cô ấy đến lễ hội pháo hoa.”
Tôi không thể nói liệu anh ấy có nghiêm túc không. Beckendorf là người đứng đầu nhà thần Hephaestus. Anh ấy là một anh chàng to lớn với một cái nhìn cau có thường trực, cơ bắp như một cầu thủ nhà nghề, và hai bàn tay bị chai sạn do làm riết trong các lò rèn. Anh ấy vừa mới được mười tám tuổi và đang chuẩn bị theo học ở NYU vào mùa hè. Vì anh ấy là người lớn tuổi hơn, tôi thường lắng nghe về những điều nhỏ nhặt, nhưng ý tưởng về việc mời Annabeth đến lễ hội pháo hoa vào ngày lễ quốc khách mùng 4 tháng 7 ở bãi biển – như, một sự kiện hẹn hò lớn nhất của mùa hè – khiến dạ dày tôi lộn nhào.
Rồi Silena Beauregard, người đứng đầu nhà nữ thần Aphrodite, đi ngang qua. Beckendorf đã không giấu giếm gì chuyện phải lòng cô ấy trong ba năm. Cô ấy có mái tóc đen dài và đôi mắt nâu lớn, và khi cô ấy đi ngang qua, các chàng trai đều chăm chú nhìn theo. Cô ấy nói, “Chúc may mắn, Charlie.” (Chưa bao giờ có ai gọi Beckendorf bằng tên.) Cô ấy nở một nụ cười tươi rói với anh ấy và đi đến gia nhập cùng với đội Annabeth.
“Ừ...” Beckendorf nuốt như thể anh ấy quên cách để thở.
Tôi đánh vào vai anh ấy. “Cám ơn vì lời khuyên, anh bạn. Rất vui vì anh rất có kinh nghiệm về con gái và mọi điều. Đi thôi. Chúng ta đi vào rừng thôi.”
***
Dĩ nhiên, Beckendorf và tôi đảm nhận công việc nguy hiểm nhất.
Trong khi nhà thần Apollo làm nhiệm vụ phòng thủ với cung tên của họ, nhà thần Hermes sẽ đảm nhận nhiệm vụ đánh lạc hướng đối thủ ở giữa rừng. Trong khi đó, Benkendorf và tôi sẽ theo dõi quanh sườn trái, xác định cờ của đối thủ, đánh bật những người bảo vệ, và lấy cờ quay trở lại lãnh địa của chúng tôi. Đơn giản thế thôi.
Tại sao lại là sườn núi bên trái?
“Vì Annabeth muốn em đi về phía bên phải,” tôi nói với Beckendorf, “điều đó có nghĩa là cô ấy không muốn chúng ta đi về phía bên trái.”
Beckendorf đồng ý với tôi. “Hãy trang bị đồ nào.”
Anh ấy đang làm một loại vũ khí bí mật dành cho hai chúng tôi – bộ áo giáp bằng đồng có thể biến đổi màu sắc để hòa lẫn với bối cảnh. Nếu chúng tôi đứng trước núi đá, giáp che ngực, mũ sắt và khiên của chúng tôi biến thành màu xám. Nếu chúng tôi đứng trước một bụi cây, lớp kim loại biến thành màu xanh lá. Nó không thật sự vô hình, nhưng chúng tôi sẽ có được một vỏ bọc hoàn hảo, ít nhất là từ đằng xa.
“Cái thứ này mất rất nhiều thời gian để rèn,” Beckendorf cảnh báo tôi. “Đừng làm hỏng nó!”
“Đã biết, đội trưởng.”
Beckendorf càu nhàu. Tôi có thể nói anh ấy thích được gọi là “đội trưởng”. Toàn bộ trại viên nhà thần Hephaestus chúc chúng tôi may mắn, và chúng tôi lẻn vào rừng, ngay lập tức biến thành màu nâu và xanh lục phù hợp với màu cây.
Chúng tôi đi băng qua con sông nhỏ được xem như ranh giới của hai đội. Chúng tôi nghe tiếng đánh nhau ở đằng xa – tiếng kiếm va chạm vào khiên. Tôi nhìn thoáng qua ánh sáng từ một vài loại vũ khí phép thuật, nhưng chúng tôi không thấy một ai.
“Không có người bảo vệ biên giới sao?” Beckendorf thì thầm. “Thật kỳ lạ.”
“Quá tự tin,” tôi đoán. Nhưng tôi cảm thấy hơi lo lắng. Annabeth là một nhà chiến lược đầy kinh nghiệm. Cô ấy không phải là một người tùy tiện trong việc phòng thủ, ngay cả khi đội cô ấy nhiều người hơn đội chúng tôi.
Chúng tôi đi vào lãnh địa của đối thủ. Tôi biết chúng tôi phải vội vàng, vì đội chúng tôi đang chơi một trò chơi không cân sức, và trò chơi này sẽ nhanh chóng kết thúc. Những đứa trẻ nhà thần Apollo sẽ nhanh chóng tấn công sang phần lãnh thổ của chúng tôi không sớm thì muộn thôi. Nhà thần Ares cũng sẽ không bị chậm lại bởi những điều nhỏ nhặt như mũi tên.
Chúng tôi bò men theo gốc của các cây sồi. Tôi gần như dựng đứng cả người khi khuôn mặt của một cô gái ló ra từ thân cây. “Shoo!” cô ấy nói, rồi biến mất sau lớp vỏ cây.
“Nữ thần cây,” Beckendorf cằn nhằn. “Thật hay giận dỗi.
“Không phải thế mà!” một giọng nói nghẹt lại phát ra từ cây.
Chúng tôi tiếp tục đi. Thật khó để nói chính xác nơi chúng tôi đang ở. Một vài cột mốc nhô ra, như dòng sông và các vách đá và một vài cây thật sự cổ xưa, nhưng rừng cây thường di chuyển vòng quanh. Tôi đoán các linh hồn thiên nhiên đang thao thức. Các con đường thay đổi. Các cây di chuyển vị trí.
Rồi đột nhiên chúng tôi đang ở rìa của khu rừng. Tôi biết chúng tôi đang gặp rắc rối khi tôi thấy ngọn núi đất tơi.
“Thần Hephaestus linh thiêng,” Beckendorf thì thầm. “Ngọn đồi Kiến.”
Tôi muốn lùi lại và bỏ chạy. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Ngọn đồi Kiến trước đây, nhưng tôi đã nghe những câu chuyện từ các trại viên lớn hơn. Ụ đất cao gần đỉnh ngọn cây – cao ít nhất bốn tầng. Các mặt của nó lỗ chỗ các đường hầm, và bò lúc nhúc vào và ra từ các đường hầm đó là hàng ngàn con...
“Myrmekes,” tôi thì thầm.
Đó là từ Hy Lạp cổ của từ “con kiến”, nhưng những điều này còn nhiều ý nghĩa hơn những gì nó thể hiện. Chúng sẽ làm cho những người hủy diệt lên cơn đau tim mất thôi.
Con Myrmekes có kích thước của những con cừu Đức. Vỏ của chúng được vũ trang sáng lấp lánh màu đỏ tươi. Đôi mắt chúng có màu đen, tròn, nhỏ và sáng, hàm trên sắc bén có thể cắt và đớp. Một số chúng tha những cành cây. Một số tha những miếng thịt tươi mà tôi thực sự không muốn biết. Hầu hết chúng đều tha những miếng kim loại – áo giáo cũ, kiếm, đĩa đựng thức ăn mà bằng cách nào đó tìm được cách xuất hiện ở ngoài này từ nhà ăn. Một con kiến đang tha một ca-pô xe hơi thể thao màu đen bóng loáng.
“Chúng yêu thích kim loại sáng chói,” Beckendorf thì thầm. “Đặc biệt màu vàng. Anh từng nghe nói trong tổ chúng có nhiều vàng hơn cả Fort Knox.” Anh ấy nói với vẻ ghen tị.
“Đừng bao giờ nghĩ về điều đó,” tôi nói.
“Anh bạn, anh không làm thế,” anh ấy hứa. “Chúng ta hãy ra khỏi đây khi chúng ta...”
Đôi mắt anh ấy mở lớn.
Cách đó mười lăm mét, hai con kiến đang cố gắng tha một mảng kim loại lớn về phía tổ chúng. Nó có kích thước của một cái tủ lạnh, tất cả đều có màu vàng và đồng sáng lấp lá với những ụ và chóp kỳ lạ ở một bên và một chùm dây ló ra từ bên dưới. Rồi khi những con kiến lăn các vật qua, và tôi nhìn thấy một khuôn mặt.
Tôi gần như nhảy dựng lên. “Đó là một...”
“Shhh!” Beckendorf kéo tôi lùi vào bụi cây.
“Nhưng đó là...”
“Đầu rồng,” anh ấy nói trong sự sợ hãi. “Đúng vậy, anh đã thấy nó.”
Cái mũi của nó dài bằng cơ thể tôi. Cái miệng của nó đang hé mở, cho thấy những chiếc răng kim loại, như của con cá mập. Da của nó là sự kết hợp của lớp vảy màu vàng và đồng, mắt của nó là những viên ngọc ruby to bằng nắm tay của tôi. Cái đầu như thể vừa bị chặt ra khỏi cơ thể - bị nhai bởi hàm của những con kiến. Các sợi dây bị tước vỏ và xoắn tít.
Chiếc đầu ắt hẳn cũng rất nặng, vì những con kiến đang cố gắng, di chuyển nó chỉ một vài phân với mỗi lần kéo.
“Nếu chúng kéo nó lên đồi,” Beckendorf nói, “những con kiến khác sẽ giúp chúng. Chúng ta phải ngăn chúng lại.”
“Gì chứ?” tôi hỏi. “Tại sao?”
“Đó là dấu hiệu từ thần Hephaestus. Đi nào!”
Tôi không biết anh ấy đang nói gì, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy Beckendorf kiên quyết như thế. Anh ấy chạy hết tốc lực dọc theo rìa của cánh rừng thưa, áo giáp của anh ấy hòa trộn với màu của cây rừng.
Khi tôi chuẩn bị đuổi theo thì có cái gì đó sắc và lạnh áp sát vào cổ tôi.
“Ngạc nhiên không?” Annabeth nói, ngay sát bên tôi. Cô ấy ắt phải đang đội chiếc mũ Yankees ma thuật, vì cô ấy hoàn toàn vô hình.
Tôi cố di chuyển, nhưng cô ấy ấn con dao vào bên dưới cằm tôi. Silena xuất hiện phía ngoài khu rừng, kiếm được rút ra khỏi vỏ. Áo giáp nhà nữ thần Aphrodite có màu hồng và đỏ, màu sắc hợp với màu áo quần và trang điểm. Cô ấy trông như một búp bê Barbie Chiến tranh Du Kích.
“Làm tốt lắm.” cô ấy nói với Annabeth.
Một bàn tay vô hình tịch thu kiếm của tôi. Annabeth lấy mũ ra khỏi đầu và xuất hiện trước mặt tôi, nở một nụ cười tự mãn. “Thật dễ để theo đuôi các chàng trai. Họ còn ồn ào hơn cả một con Minotaur bị tương tư.”
Khuôn mặt tôi nóng bừng. Tôi cố nhớ lại, hy vọng tôi đã không nói bất cứ điều gì gây xấu hổ. Chưa kể đến việc Silena và Annabeth đã lắng nghe chúng tôi không biết trong bao lâu.
“Cậu là tù nhân của bọn tớ,” Annabeth thông báo. “Hãy đi bắt Beckendorf và...”
“Beckendorf!” Trong một phần giây tôi đã quên anh ấy, nhưng anh ấy vẫn đang tiến về phía trước – theo hướng của đầu rồng. Anh ấy chắc chắn cách đây mười hai mét. Anh ấy đã không chú ý gì đến các cô gái, sự thật là tôi đã không hỗ trợ anh ấy.
“Đi nào!” tôi nói với Annabeth.
Cô ấy kéo tôi lại. “Cậu nghĩ cậu đi đâu vậy, tù nhân?”
“Nhìn này!”
Cô ấy nhìn ra phía khoảng rừng thưa và trong lần đầu tiên cô ấy dường như nhận ra nơi chúng tôi đang ở. “Ôi, thần Zeus...”
Beckendorf nhảy vào cửa ra vào và tấn công một con kiến. Thanh kiếm của anh ấy kêu leng keng trên mai của nó. Con kiến quay lại, đớp anh ấy bằng càng của nó. Trước khi tôi có thể gọi to báo cho anh ấy, con kiến đã cắn vào chân của Beckendorf khiến anh ấy sụm người xuống trên mặt đất. Con kiến thứ hai phun chất nhờn vào mặt anh ấy, và Beckendorf gào thét đầy đau đớn. Anh ấy thả kiếm xuống và đập mạnh vào mắt của mình.
Tôi lao tới trước, nhưng Annabeth đã kéo tôi lại. “Không.”
“Charlie!” Silena hét lớn.
“Không!” Annabeth rít lên. “Đã quá trễ rồi!”
“Cậu đang nói gì thế?” tôi gặng hỏi cô ấy. “Chúng ta phải...”
Rồi tôi nhận ra có nhiều con kiến hơn đang tụ lại quanh Beckendorf – mười, hai mươi con. Chúng chộp vào áo giáp và tha anh ấy về phía đồi nhanh đến nỗi anh ấy lướt nhanh vào các đường hầm và biến mất.
“Không!” Silena đẩy Annabeth ra. “Cậu để chúng bắt Charlie!”
“Không có thời gian để tranh cãi đâu,” Annabeth nói. “Đi thôi!”
Tôi nghĩ cô ấy sẽ dẫn đầu chúng tôi trong cuộc tấn công vào tổ kiến để cứu Beckendorf, nhưng thay vì làm thế, cô ấy lại chạy về phía chiếc đầu rồng mà những con kiến đã quên trong giây lát. Cô ấy túm lấy đầu dây điện của nó và kéo nó về phía các cánh rừng.
“Cậu đang làm gì thế?” tôi gặng hỏi cô ấy. “Anh Beckendorf...”
“Giúp tớ,” Annabeth làu bàu. “Nhanh, trước khi chúng quay trở lại.”
“Ôi, thánh thần ơi,” Silena nói. “Cậu lo lắng cho cái đống kim loại này hơn cả Charlie sao?”
Annabeth quay người lại và lắc vai mình. “Nghe này, Silena! Chúng là những con Myrmekes. Chúng giống như những con kiến phun lửa vậy, thậm chí còn tệ hơn một trăm lần. Vết cắn của chúng có chất độc. Chúng phun acid. Chúng liên lạc với tất cả những con kiến khác và tụ lại thành bầy để tấn công bất cứ thứ gì đe dọa chúng. Nếu chúng ta xông vào đó để giúp anh Beckendorf, chúng ta cũng sẽ bị kéo luôn vào trong đó. Chúng ta sẽ cần sự giúp đỡ - thật nhiều sự giúp đỡ - để đoạt lại anh ấy. Giờ, hãy nắm lấy một vài cái dây điện và kéo!”
Tôi không biết Annabeth dự tính làm điều gì, nhưng tôi đã cùng cô ấy phiêu lưu đủ lâu để biết được cô ấy có lý do chính đáng cho những gì cô ấy đang làm. Cả ba chúng tôi kéo cái đầu rồng kim loại vào rừng. Annabeth không để chúng tôi dừng lại cho đến khi chúng tôi ở cách bìa rừng mười lăm mét. Rồi chúng tôi đổ sụp người xuống, người đầy mồ hôi và thở dốc.
Silena bắt đầu khóc. “Anh ấy ắt hẳn đã chết.”
“Không đâu,” Annabeth nói. “Chúng sẽ không giết anh ấy ngay. Chúng ta có khoảng nửa tiếng nữa.”
“Sao cậu biết được điều đó?” tôi hỏi.
“Tớ đã đọc về Myrmekes. Chúng làm tê liệt con mồi để chúng mềm đi trước khi...”
Silena nức nở. “Chúng ta phải cứu anh ấy!”
“Silena,” Annabeth nói. “Chúng ta sẽ cứu anh ấy, nhưng tớ cần cậu kiềm chế. Đó chính là cách.”
“Hãy gọi thêm các trại viên khác,” tôi nói, “hoặc bác Chiron. Bác Chiron biết phải làm điều gì.”
Annabeth lắc đầu. “Họ đang ở rải rác khắp khu rừng. Vào thời điểm chúng ta tập hợp được mọi người đến đây, đến lúc đó đã là quá muộn. Ngoài ra, toàn bộ trại sẽ không mạnh đến nỗi để xâm chiếm Đồi Kiến.”
“Thế thì cái gì
Annabeth chỉ về phía đầu con rồng.
“Được rồi,” tôi nói. “Cậu sẽ dọa những con kiến đó với một con rối kim loại lớn sao?”
“Nó là một người máy.”
Điều đó cũng chẳng khiến tôi cảm thấy tốt hơn. Người máy là những con robot bằng đồng ma thuật được thần Hephaestus tạo ra. Hầu hết chúng đều là những cổ máy giết người điên cuồng, và chúng là những con xinh nhất.
“Thế thì sao?” tôi nói. “Nó chỉ là phần đầu. Nó đã bị hỏng.”
“Percy, đây không phải là bất cứ người máy nào,” Annabeth nói. “Nó là con rồng bằng đồng. Cậu chưa bao giờ nghe chuyện về nó sao?”
Tôi ngây người nhìn cô ấy. Annabeth đã ở trại lâu hơn tôi rất nhiều. Cô ấy chắc còn biết hàng đống chuyện mà tôi không hề biết.
Đôi mắt Silena mở lớn. “Ý cậu là người bảo vệ cổ đó sao? Nhưng đó chỉ là truyền thuyết mà thôi.”
“Whoa!” tôi nói.
Annabeth hít thật sâu. “Percy, vào những ngày trước khi có cây của Thalia – quay trở lại trước ngày trại có ranh giới phép thuật để ngăn chặn các quái vật – các cố vấn trại cố thử tất cả các cách khác nhau để bảo vệ chính họ. Cái nổi tiếng nhất chính là con rồng bằng đồng. Nhà thần Hephaestus đã tạo ra nó với lời chúc phúc từ cha mình. Với sự hung dữ và sức mạnh, nó đã bảo vệ trại qua hơn một thập kỷ. Và rồi... cách đây mười lăm năm, nó biến mất vào rừng.”
“Và cậu nghĩ đây là đầu của nó sao?”
“Nó phải là thế! Những con Myrmekes ắt hẳn đã đào nó lên khi chúng tìm kiếm kim loại quý giá. Chúng không thể di chuyển toàn bộ, vì thế chúng nhai đứt cái đầu. Phần cơ thể không thể cách xa đây.”
“Nhưng chúng đã nhai đứt nó. Nó đã trở nên vô dụng.”
“Không nhất thiết.” Đôi mắt Annabeth nheo lại, và tôi có thể nói bộ não của cô ấy đang làm việc ngoài giờ. “Chúng ta có thể lắp ráp lại nó. Nếu chúng ta có thể khởi động nó...”
“Chờ đã,” tôi nói. “Sao có nhiều từ nếu thế. Nếu chúng ta tìm thấy nó, nếu chúng ta có thể phục hồi lại sự hoạt động của nó đúng lúc,ó sẽ giúp chúng ta. Cậu nói con vật này đã biến mất mười năm trước đây sao?”
Annabeth gật đầu. “Một vài người nói động cơ của nó bị hao mòn vì thế nó tự đi vào rừng để tự làm mất đi các chức năng của chính mình. Hoặc việc lập trình của nó bị nhiễu. Không ai biết rõ.”
“Cậu muốn lắp ráp lại một con rồng kim loại bị nhiễu sao?”
“Chúng ta phải thử!” Annabeth nói. “Nó là hy vọng duy nhất của anh Beckendorf! Ngoài ra, nó có thể là dấu hiệu từ thần Hephaestus. Con rồng sẽ muốn giúp một trong số những đứa con của thần Hephaestus, Beckendorf sẽ muốn chúng ta thử.”
Tôi không thích ý tưởng đó. Mặt khác, tôi không có bất cứ ý tưởng nào tốt hơn nó. Chúng tôi đang cạn dần thời gian, và Silena trông như thể cô ấy sẽ cảm thấy đau buồn nếu chúng tôi không nhanh chóng làm một điều gì đó. Beckendorf đã nói điều gì đó về một dấu hiệu đến từ thần Hephaestus. Có thể giờ là thời điểm để tìm ra.
“Được rồi.” tôi nói. “Chúng ta hãy đi tìm con rồng không đầu nào.”