Mười bốn tháng Giêng, dạ yến lập xuân, nem công chả phượng, ca múa thành đàn.
Sứ thần bảy nước Ni Hoa La, Nam Bì, Chú Liễn, Tích Phủ, Ương Cát Tháp, Thổ Hỏa Lỗ, Già Mãn đều nhận lời mời, tề tụ ở chính điện Quân Lôi Cung.
Đế Húc mặc cổn phục gấm đen thêu rồng vàng vờn nhật nguyệt ngũ sắc và chữ triện vạn thọ, đầu đội miện mười hai chuỗi ngọc, mặt mày uy nghiêm, thần sắc trang trọng.
Đề Lan khoác đản y song phượng ngũ sắc, được đặc cách ngồi cùng sứ thần Chú Liễn Tác Lan trên ghế đầu bên phải.
Thân phận Tác Lan cao quý, là con út của Chú Liễn vương, em trai cùng mẹ với Thục Dung phi Đề Lan.
Đề Lan quanh năm không rõ tin tức cố quốc, lúc này không khỏi mừng rỡ khôn xiết, trong đôi mắt đen láy như mây sấm rưng rưng ngậm lệ, nắm hai tay em trai, dùng tiếng Chú Liễn rủ rỉ tâm sự.
Sưởng vương ngồi ghế trên bên trái, thân bận bào son hai vai thêu rồng, rôm rả trò chuyện với sứ thần Ương Cát Tháp.
Trong khi đó, sứ thần Ni Hoa La và Thổ Hỏa Lỗ thì đều tỏ vẻ bất an, chẳng có lòng dạ nào yến ẩm.
Rượu qua ba tuần, rốt cuộc, sứ thần Ni Hoa La Ba Nam Na Yết không nhịn được, đánh mắt nhìn sứ thần Chú Liễn Tác Lan, Tác Lan cũng đưa mắt đáp lại rồi giơ bình rượu ngọc trong tay về phía Đế Húc: “Bệ hạ, nghe nói gần đây quý quốc nghênh thần đuôi rồng vào cung phụng dưỡng, có thật vậy chăng?”
Đế Húc mỉm cười nhìn Tác Lan sau rèm ngọc xanh, bình thản đáp: “Thật.”
Chư thần trên điện đều lộ vẻ kinh ngạc, xì xào bàn tán.
Ba Nam Na Yết kìm nén khiếp hãi trong lòng, chắp tay nói: “Vậy thì quả là đáng mừng.
Nước tôi và Chú Liễn, Thổ Hỏa Lỗ đều coi trọng mậu dịch đường biển, hết lòng tin thần đuôi rồng.
Nếu thần đuôi rồng hạ giáng quý quốc, tôi mong được thưởng thức tận mắt pháp tướng của ngài, cầu bình an cho thương khách nước tôi, xin bệ hạ tác thành.”
Đế Húc quay đầu nhỏ giọng hỏi Phương Chư, Phương Chư cúi đầu đáp: “Chuông trống đánh báo, nửa khắc trước đã qua Kế Hàn Môn.”
Ba Nam Ba Yết nhớ lần trước gặp mặt, chính hoạn quan này đã khiến y phải lúng túng khó xử, trong lòng đương nhiên không vui, bèn hậm hực uống một ngụm rượu thuần.
“Vậy à?” Tiếng cười Đế Húc mát lạnh như ngọc, “Ba Nam Na Yết đại nhân, ngài nhìn về phía nam đi.”
Dứt lời, trăm người trong điện đều quay đầu ngó ra cửa điện.
Quân Lôi Điện nằm trên trục đối xứng của cấm thành, hướng nam nhìn xuống có thể bao trọn ngoại đình cấm thành vào mắt, hướng bắc là chính điện triều nghị Tử Thần Điện và Ninh Thái Môn ngăn cách nội cung với ngoại đình.
Lúc này trăng mờ mây trôi, sắc trời phía nam phớt đỏ, từ cổng chính cấm thành Khai Bình Môn đến trước Quân Lôi Điện, cung thất chín dặm đều không sáng đèn, trong bóng đêm trầm nặng chỉ thấy nóc điện lưu ly nối nhau như biển, chính giữa xuyên thủng một con đường, gọi là Vân Đạo.
Ba Nam Na Yết đứng dậy dõi mắt ra xa song chẳng thấy một động tĩnh nào, nghi hoặc quay đầu lại nhìn Đế Húc, Đế Húc tuy ngậm cười nhưng hàng mày rậm thanh tú xếch chéo vào tóc mai lại đột ngột nhướng lên, ánh mắt mãnh liệt.
Trong điện xôn xao tiếng kinh hãi.
Cấm thành xây dựa theo thế núi, Tử Thần Điện trên ngọn, độ cao của Quân Lôi Điện chỉ dưới Tử Thần Điện, từ trên điện có thể nhìn thấy Khai Bình Môn rộng bảy trượng, cao năm trượng đang chậm rãi mở ra.
Giữa khe cửa hừng hực ánh đỏ, là lửa đuốc chen chúc, một người cưỡi ngựa phi vào cổng, cây đèn bằng đá hai bên Vân Đạo dẫn lửa liên tiếp, vừa châm sáng, đèn đuốc lập tức uốn lượn như rồng, đèn lần lượt sáng lên từng ngọn từng ngọn hướng về Quân Lôi Điện, rực rỡ nguy nga, dẫn dắt hàng đèn chính là người cưỡi ngựa như sấm sét kia.
Vó ngựa tung bay, năm cánh cửa cấm ầm ầm mở rộng, bảy điện Càn Tuyên, Khôn Vinh, Cửu Tĩnh, Định Hòa, Văn Thành, Võ Đức, Tường Vân theo thứ tự sáng đèn, óng ánh như châu báu khổng lồ.
Chẳng mấy chốc, người cưỡi ngựa đã đến dưới Quân Lôi Điện, trên ngựa hóa ra có hai người, thiếu niên nhảy xuống yên, ôm một người khác che mặt vào lòng, chân không chạm đất chạy lên điện.
Cuối hàng ghế, một người đàn ông râu quai nón đứng bật dậy, cả kinh lẩm bẩm: “Hải Thị?!” Sưởng vương liếc xem, đó chính là tham tướng Hoàng Tuyền Quan Trương Thừa Khiêm hộ tống sứ thần vào kinh chuyến này.
Gần như đồng thời, Ba Nam Na Yết kêu to một tiếng, quên cả đi giày, cứ thế chân trần chạy khỏi chỗ ngồi.
Thiếu niên nhanh nhẹn lướt qua người Ba Nam Na Yết, cuốn theo mùi tanh của biển.
Ba Nam Na Yết quay đầu nhìn lại, thiếu niên đã đứng trước mặt Đế Húc ở bàn trên, đuôi tóc đọng muối, thần sắc kiêu ngạo.
Người trong lòng thiếu niên bọc vải ướt từ đầu đến chân, đầm đìa nhỏ nước.
Trong điện nhất thời lặng ngắt, đến tiếng hít thở tim đập của hơn trăm người cũng bặt thinh.
“Bắt được rồi?” Đế Húc nhướng một bên mày hỏi.
Sứ thần ba nước Ni Hoa La, Chú Liễn và Thổ Hỏa Lỗ cùng tùy tùng mặt đều đổi sắc.
Nước họ tôn giao nhân làm thần đuôi rồng, địa vị cao quý, ngày thường bất kính với giao nhân, trong mắt họ đã là dị đoan, huống hồ còn dùng chữ “bắt” đại bất kính với thần linh!
Thiếu niên không nhiều lời, chỉ gỡ vải ướt trên mặt người trong lòng ra.
Khăn vải vừa mở, mái tóc xoăn xanh trong tức thì rủ xuống, một lúc sau, trong tóc có thứ gì khẽ dựng lên – là một cái tai trắng ngần nhọn mỏng.
Thiếu niên một tay ôm cô gái, để nàng tựa lên người mình, một tay bóc tầng tầng vải ướt ra, để lộ làn da xám trắng ẩm ướt.
Cô gái đứng không vững, hai tay ôm chặt cổ Hải Thị, Ba Nam Na Yết đứng gần cô gái nhất lập tức gào thét.
Trên hai cánh tay cô gái mơ hồ hiện đường vân vảy rồng, giữa ngón tay có lớp màng trong màu lam óng, giống y hệt tượng thần đuôi rồng ở Ni Hoa La, càng chẳng khác gì hình thần đuôi rồng trên mặt dây chuyền Đề Lan đeo.
Lang Hoàn nhíu chặt hàng mày xanh, đôi mắt to khác thường ngơ ngác mở ra, ngờ vực nhìn chung quanh.
Ngay đến Đế Húc cũng không khỏi thấp giọng trầm trồ.
Trong đôi mắt xanh trong của nàng chỉ có con ngươi không có tròng trắng, ánh mắt lưu chuyển, mống mắt màu bạc chiếu ra ánh châu bảy sắc, nom như xoáy nước.
Tiếng vạt áo hất tung, hai đầu gối chạm đất nổi lên bốn phía.
Sứ thần ba nước Ni Hoa La, Chú Liễn và Thổ Hỏa Lỗ cùng tùy tùng rối rít rời khỏi chỗ ngồi, đi vào giữa điện cung kính quỳ xuống hành lễ với Lang Hoàn.
Lang Hoàn kinh ngạc nhìn những con người quỳ lạy đầy đất, lại quay sang ngó Hải Thị, Hải Thị chỉ im lặng tỉnh bơ.
Giao nhân giơ ống tay áo giao tơ ướt đẫm che mũi miệng lại, một đốm sáng ngời lấp lánh rơi xuống, lúc chạm tới đất thì nảy bắn lên – là ngọc giao lệ.
Nàng đưa một tay lên, móng tay xanh nhạt dịu dàng lướt qua má Hải Thị như mang vô hạn thương tiếc và xót xa.
Đứa trẻ đáng thương.
Theo cái vuốt ve trơn mịn lạnh ướt, một giọng nói huyền ảo nhỏ nhẹ vang vọng trong đầu Hải Thị.
Lang Hoàn vùi mặt về lòng Hải Thị, trên gạch bùn trong (*) vang lên tiếng tí tách như tiếng nhạc.
Mọi người chăm chú nhìn kĩ, thì ra là vô số giao châu ào ào rơi xuống từ trong lòng thiếu niên kia.
(*) Bùn trong là loại vật liệu làm từ bùn nhuyễn gạn lọc nung thành, tính chất trơn nhẵn, thường được dùng làm nghiên mực với khả năng đựng nước không cạn, gặp lạnh không đóng băng.
Ánh mắt Phương Chư lại chẳng hề đậu lên giao nhân.
Rèm mi và đuôi tóc của thiếu niên ôm giao nhân li ti đọng muối, da bị nước biển ngâm cho trắng phờ, nom hệt một vệt u hồn.
Trong mắt chàng có vụt lóe đau thương rồi biến mất.
Trong mắt nàng có mặt gương, lạnh lùng phản chiếu mọi thứ bên ngoài, đóng băng linh hồn nàng.
Chàng rất quen thuộc với ánh mắt ấy – mười bốn năm qua, mỗi ngày khi rửa mặt chải đầu đều có thể nhìn thấy trong gương.
“Thế nào, Ba Nam Na Yết đại nhân.” Giọng nói trẻ trung êm tai của Đế Húc ngậm ba phần hài hước, “Nước ta đang định xây cung thất giữ thần đuôi rồng nán lại lâu dài đây.”
Ba Nam Na Yết dập đầu nói: “Bệ hạ! Ngài nhân ái khoan hậu, xin hãy trả thần đuôi rồng về biển đi! Nếu trong biển không có thần đuôi rồng, giao long sẽ liên tục xuất hiện, gây nên sóng dữ, trăm họ nước tôi…” Y không nói nổi nữa, tuôn lệ ròng ròng, chỉ dập đầu không ngớt.
Tác Lan cũng ngẩng đầu khẩn thiết nói: “Hơn nửa nhân dân nước tôi cũng sống nhờ biển cả, không có thần đuôi rồng, tình cảnh ắt sẽ khó lường.
Khẩn xin bệ hạ nể tình thông gia giữa hai nước, ân chuẩn lời thỉnh cầu này.”
Sứ thần Thổ Hỏa Lỗ thì ngậm miệng nín thít, lê đầu gối đến trước bàn trên quỳ cứng tại đó, người run cầm cập.
Đế Húc tựa nghiêng lên bàn, sau mười hai chuỗi ngọc xanh rủ xuống từ mũ miện, đôi mắt phượng ngang tàng thoáng lấp lóe ánh lạnh: “Trừ phi các ngươi kết đồng minh với trẫm tại đây, thề trước thần đuôi rồng chỉ cần Oanh Ca Hải và Giáng Nam Hải một ngày không khô, tất cả con cháu hậu duệ của các ngươi sẽ vĩnh viễn không được xâm lược nước ta.
Kẻ trái lời thề mãi mãi không được thần đuôi rồng chiếu cố.”
“Ngày mười bốn tháng Giêng năm thứ mười lăm, địa phương dâng cống giao nhân.
Đế Húc triển lãm trước di sứ, chư di sứ đều lấy làm tin phục, bèn thiết lập liên minh lập xuân, thề giao hảo đời đời, không dấy binh lửa.” —《 Trưng thư · Bản kỷ · Đế húc 》
“Vương, ngôi sao kia tự dưng sáng lên kìa.” Trên thảo nguyên bát ngát, cậu bé tóc vàng dắt ngựa bỗng chỉ về phía chân trời.
Chàng trai trẻ dung mạo vượt trội ngồi trên ngựa ngẩng đầu nhìn lên bầu trời hướng đông nam, “À, đó là Thanh Hủ, là ngôi sao lớn hiếm hoi trên trời sao phương bắc.
Nghe nói, nó là mệnh tinh của đế vương Đông Lục thế hệ này.” Hắn mỉm cười, con ngươi đen láy ánh kim, râu cằm nhú lên một lớp mỏng xanh thép, mái tóc dài buộc sau đầu, đen nhánh uốn lượn như sóng Minh Hà.
“Vậy sẽ thế nào ạ? Ông ta sẽ đánh Hộc Khố chúng ta ư?” Cậu bé ngước con ngươi xanh biếc, ngậm cỏ hỏi.
“Không biết.” Khóe miệng sắc cạnh của Đoạt Hãn nhếch lên một nụ cười lạnh nhạt, “Đó cũng không phải sáng lên – có lẽ sau cùng nó sẽ phát nổ.”
Trong hào quang xanh trắng ban đầu của Thanh Hủ lóe ra màu đỏ tươi bất thường, rung động mờ ảo như một trái tim đang đập.
Sao Thanh Hủ mọc rồi.
Hải Thị ôm đầu gối, cuộn tròn trong một góc sập rộng, ngửa mặt trông lên trời, mái tóc đen như một tấm áo bao phủ cơ thể nàng.
Một đầu khác trên sập, người đàn ông nằm ngủ đắp chăn gấm ngang hông, nửa thân trên săn chắc để trần, hơi thở đều đặn, Hải Thị choàng áo, im lặng bò qua, một tay nắm vạt áo, cúi đầu nhìn mặt y.
Gương mặt người này đường nét kiêu hãnh, dù hai mắt nhắm nghiền, đuôi mắt vẫn xếch lên, lạnh lùng nghiêm nghị khó tả.
Nàng thử tròng hai bàn tay vào cổ y, song trước sau vẫn chẳng siết chặt.
Nếu nàng rạch một đao lên gương mặt này, vết thương sẽ chỉ xuất hiện trên gương mặt một người đàn ông khác, nếu nàng bóp chết người trước mắt, người đàn ông kia sẽ chết trước trong tay nàng; nhưng, nếu nàng hôn người này, người kia lại mãi mãi chẳng cảm nhận được.
Đế Húc mở mắt, ánh mắt sáng quắc như băng cứng.
“Biết mười bốn năm nay, trẫm nghĩ gì khi nằm trên cái giường này không?”
Hải Thị không đáp, hai bàn tay chụp cần cổ Đế Húc cũng không buông ra, ngược lại còn tăng thêm chút sức lực.
“Mười bốn năm nay, trẫm suy tưởng sớm chiều cũng chỉ có một chữ, chết.” Tiếng nói phun ra từ cặp môi mỏng của y tựa ánh trăng trong vắt óng ánh ngoài cửa sổ, “Chỉ cần bên cạnh không có đèn, trẫm sẽ không tài nào ngủ được.
Dù ngủ được, chỉ cần có người trong vòng một thước quanh mình, cũng sẽ tỉnh lại.
Tám năm ấy, trẫm không phải ở nhân gian mà ở trong địa ngục, đợi tám năm qua rồi, trẫm đã chẳng còn là người nữa.”
“Vạn dân cũng ở trong địa ngục, không chỉ mình ông.” Hải Thị trầm giọng đáp.
“Thứ dân có thể vứt ruộng đất trốn vào núi thẳm, có thể ôm chân địch khóc lóc cầu cạnh, có thể chết đi như cỏ dại – trẫm không thể.
Bá Diệu trốn mất rồi.
Hắn treo cổ tự sát, bỏ trốn trót lọt.
Thúc Vân chết yểu từ lâu, Quý Sưởng mãi tận Chú Liễn, nếu trẫm cũng bỏ trốn…” Y bỗng ngừng lại, nở nụ cười khổ, “Năm ấy trẫm mười bảy tuổi, không có một thân võ nghệ đầy bụng thao lược, còn chưa từng giết ai bao giờ.
Phụ hoàng đột tử, phản quân áp thành, trẫm cũng sợ chứ.
Giám Minh đúng hẹn dẫn binh tới giúp ta phá vòng vây, nhưng năm ấy nó cũng mới chỉ mười bốn tuổi.”
Đế Húc nằm yên, mỗi một câu nói, tay Hải Thị lại cảm nhận được lồng ngực y rung rung.
“Trẫm phải gánh hết những thứ ấy.
Sinh tử no ấm của nhân dân và binh sĩ, thắng bại của cuộc chinh chiến, tranh chấp nội bộ và phản bội, uy hiếp đến từ các lộ tướng lĩnh cần vương nắm binh tự lập.
Trẫm không thể sợ hãi, không thể thất bại, không thể trốn tránh, thậm chí còn không thể chết.
Những năm loạn lạc, nhân gian chính là một bể máu.
Trong tám năm ấy, trẫm cứ suy nghĩ mãi…” Trong mắt Đế Húc dần hiện thần sắc ma mị trước sau như một, “Nếu nung chảy hết đao kiếm thiên hạ đúc thành lưỡi cày, binh thư đều hóa thành phân bón, có khi nào sẽ thái bình hơn không? – Vậy không được.
Con người trời sinh đã biết tranh chấp thù giết, chẳng qua vì giết nhiều rồi nên mới chú trọng đến kỹ thuật và hiệu suất, đẻ ra binh thư và đao kiếm mà thôi.
Phải làm sao đây?” Đế Húc ngẩng lên nhìn khuôn mặt xinh đẹp của Hải Thị.
“Chẳng bằng, trừ bỏ những tướng lĩnh mưu lược xuất chúng kia.” Môi Hải Thị run rẩy, giọng thều thào.
“Cái gọi là danh tướng chỉ đơn giản là đầu mục giết người cướp của xuất chúng.
Không có họ, dân gian chỉ còn lại tranh chấp ruộng đất giữa nông phu, ẩu đả giữa cuốc và ghế.
Không tốt à?” Đế Húc mỉm cười như trẻ thơ.
Hải Thị thấp giọng mắng: “Ông điên rồi.”
“Người dám nghĩ như vậy trong thiên hạ có đến vài trăm vạn, cũng chỉ mình ngươi dám nói thẳng với trẫm.” Nụ cười Đế Húc sâu hơn, dưới ánh đèn ngày đêm không tắt của Kim Thành Cung, dung mạo mang vẻ khôi ngô tà ác, “Lúc trẫm muốn sống, bao nhiêu người muốn mạng trẫm.
Hôm nay trẫm đã sống chán thì lại chẳng ai chịu giết trẫm, hạ sát thủ với họ cũng không ép được họ lên đường làm phản.
Thà giết người thay trẫm, thà gánh tiếng xấu thay trẫm, thà tự thương tổn chính mình – nó nhất định không chịu giết trẫm.
Ngươi nhìn xem, dù trẫm cướp mất ngươi, làm ngươi thương tích khắp mình, cũng không thể khiến nó chống lại ta.
Nếu trẫm tự sát thì phải giết chết Giám Minh trước, trẫm không làm được.” Đế Húc cầm hai tay Hải Thị, dễ dàng kéo nàng vào lòng mình, Hải Thị ngửi thấy mùi rượu thoang thoảng trong hơi thở của y, “Ngươi cũng không làm được.
Ngươi cũng giống trẫm, không làm được.”
Hải Thị ngã sấp vào lòng Đế Húc, rơi lệ trong câm lặng.
“Không sao.
Sắp tốt lên rồi, nhanh thôi.” Đế Húc vuốt tóc Hải Thị như đang vỗ về một đứa trẻ cùng bệnh với mình.
Đèn đuốc xán lạn xuyên thấu muôn vàn cánh cửa Kim Thành Cung, soi sáng đêm cấm thành yên tĩnh.
“Điện hạ, chính là chỗ này.” Thị vệ dẫn đường khom người thi lễ, gọi về sự chú ý của Quý Sưởng.
Hắn ném cái liếc cuối cùng về phía Kim Thành Cung rồi dời mắt sang cánh cửa trước mắt.
Cửa phòng vừa mở, trân châu chất đống cả tấc trong cửa lập tức tràn ra, lăn tới chân người, long lanh chói lóa khiến người ta hoa mắt.
Sưởng vương lùi lại một bước, nhặt một viên giao châu lên tỉ mỉ soi trước ánh sáng, không kìm được kinh sợ híp mắt.
Chỉ là một hạt châu thôi mà phảng phất bên trong như chứa đựng trời cao biển rộng, hào quang muôn mối huyền ảo.
So với lệ của Lang Hoàn, trân châu mà trai ngọc ẩn nhẫn ấp ủ, được rót năng lượng của thủy triều nhật nguyệt mà thai nghén gọt giũa nên hình chẳng khác nào mắt cá dại đờ.
Đưa mắt vào trong, sâu trong phòng tản mạn mái tóc dài xoăn xanh trong lộng lẫy như sóng biển.
Chủ nhân mái tóc có vẻ khóc mệt buồn ngủ, nằm sấp dưới sàn, mặc mái tóc dài chấm đất thành dòng chảy tứ phía giữa cả sàn trân châu, trên mắt cá chân cuộn lại bên người mọc vây cá rất nhỏ.
Như cảm nhận được hắn lại gần, những chiếc vây đó nhè nhẹ đung đưa.
Tựa mây mù tản đi để lộ một đường biển biếc, đôi mắt xanh trong to khác thường từ từ mở ra, dáng vẻ vẫn yếu ớt nhưng ánh mắt thì sáng sủa thông thấu.
Nàng giơ một bàn tay về phía hắn, năm móng tay xanh nhạt dài một tấc, giữa ngón tay phiêu diêu lớp màng óng ánh của loài thủy tộc.
Trước giờ hắn chưa từng tin tín ngưỡng của người Chú Liễn, chỉ coi nàng là sinh vật khác loài ngụp lặn trong biển.
Nhưng sinh vật khác loài này lại có vẻ đẹp biệt lập nhân thế của riêng nàng.
Mắt thấy nước da sáng bóng như đồng thau mê hoặc dưới ánh nến, hắn không sao kháng cự được, thò tay ra định thử đón lấy bàn tay tinh xảo tao nhã của nàng.
Nàng cũng chẳng dừng lại, chỉ chầm chậm lưỡng lự tiếp tục vươn về phía trước, cho đến khi ngón tay nàng chạm vào má hắn.
Đầu ngón tay trong suốt trơn mượt lướt qua gương mặt hắn.
Đầu mối hỗn loạn của kí ức như rút ra đầu sợi vải lụa, kéo nhẹ một cái, cả thớt lụa lập tức rào rào tháo tung.
Kể từ hồi học đi, hắn đã biết đường sống yên lặng như một con mèo trong cung.
Mẫu phi Nhiếp thị chưa sinh hắn ra đã thất sủng, Nhạc hoàng hậu, mẹ đẻ thái tử Bá Diệu không lâu sau đó cũng qua đời, kiêu ngạo khoa trương nhất trong cung phải kể đến Tống phi, mẹ đẻ của Trọng Húc và Thúc Vân.
Cung nhân hoạn quan cố nhiên chưa từng có ý ức hiếp mẹ con Quý Sưởng, nhưng cũng chẳng thèm che giấu gương mặt nịnh bợ khinh thường.
Thái tử Bá Diệu không được hoàng thượng thích, tin đồn phế trưởng lập thứ đã sớm rộ lên ầm ầm.
Bản thân hắn khỏi cần trông ngóng, Thúc Vân thì một mực ốm bệnh, ngôn luận của mọi người đều ngầm chỉ hướng Trọng Húc.
Khi đó, hoàng thứ tử Trọng Húc và đại thế tử Thanh Hải công Phương Giám Minh là đôi thiếu niên chói lọi nhất trong cấm thành, mà hoàng tử là hắn lại chỉ có thể đứng trong xó xỉnh nhìn bóng dáng họ phóng ngựa nô đùa, cẩn thận che giấu ánh mắt hâm mộ trẻ con.
Sợi tơ nhanh chóng rút tung, nút kết tháo rời.
Hắn còn nhớ lễ hạ thú tiết đại thử năm chín tuổi, Trọng Húc và Giám Minh lén chạy ra bãi săn, ham chơi trốn vào hầm chứa băng, không cẩn thận bị thú nhân tuần núi khóa cửa nhốt bên trong.
Lúc Trọng Húc được cứu ra đã chẳng khác nào người chết, vẫn ôm chặt Giám Minh trong lòng, giữ cho lồng ngực Giám Minh hơi ấm cuối cùng.
Hắn chạy lên sờ mặt Trọng Húc, xúc cảm cứng ngắc buốt giá đó khiến hắn sợ hãi, ngay sau đó, hắn được cung nhân vội vàng bế đi, nhường chỗ cho ngự y.
Xúc cảm lạnh băng vẫn nán lại trên đầu ngón tay, như một giọng nói ác ý.
Giọng nói đó ghé vào tai hắn, bặt câm hỏi rằng: Nếu người bị nhốt trong hầm băng là hắn, liệu Trọng Húc có bất kể tính mạng che chở cho đứa em trai khác mẹ là hắn như vậy không? – Tuy nhiên, sẽ chẳng bao giờ có cái “nếu” ấy.
Trọng Húc chưa bao giờ chơi chung với hắn, chưa chắc đã là ghét bỏ hay thù hằn mà có lẽ chỉ là từ nhỏ đã không được nuôi cùng một chỗ nên không hợp nhau.
Trong cung rối ren như một nồi cháo, từ trên xuống dưới đều bôn tẩu vì tính mạng của hai thiếu niên kia, không ai chú ý tới tứ hoàng tử Quý Sưởng đang tái nhợt khuôn mặt nhỏ, đứng ngoài cửa vọng nhìn.
Hai năm sau, Bồ Do Mã đưa Tử Trâm tới, để trao đổi, người Chú Liễn yêu cầu một hoàng tử của nhà Trưng mang về Chú Liễn làm tin.
Chẳng có gì để nghi ngờ, người đó phải là hắn.
Mẫu Đơn tỷ tỷ lấy chồng xa, ngoài mẹ ra, không ai bên cạnh cần hắn, mà mẹ thì đã sớm bệnh tình nguy kịch, không có hi vọng bình phục, cũng chẳng nhìn ra ngày chết đã định, đành phải tiếp tục trầm kha đau ốm.
Dọc đường sang tây, hắn bé nhỏ yếu ớt say nắng ngủ mê man, làm lỡ giờ lên đường, cũng bị tên sứ giả Chú Liễn Bồ Do Mã kia quát mắng.
Đại Trưng dậy loạn, thế cục không rõ, đến lễ pháp miễn cưỡng người Chú Liễn cũng chẳng buồn duy trì nữa, chỉ coi hắn là một phế vật nuôi trong hoàng cung.
Hắn đổi tiền bán của, thăm dò tin tức trong cung, ngũ thiên kị thiếu niên tùy tùng thì ra mật lệnh cho binh lính tâm phúc đổi quần áo lẻn vào dân gian tìm mua lương thảo, đưa về Hãn Châu – nếu phản quân soán vị lên ngôi, hắn sẽ hoàn toàn rơi vào tuyệt cảnh, nói không chừng người Chú Liễn còn coi hoàng tử tiền triều là hắn như lễ vật bày tỏ thiện chí, đưa vào tay tiếm vương Chử Trọng Nghi.
Phải sống sót.
Mười năm ấy, hắn từ nhi đồng trưởng thành thành thanh niên, giống như lữ khách khát khô thoát khốn trong sa mạc cần thật nhiều thật nhiều nước, hắn cần thật nhiều thật nhiều quyền thế, bằng không ban đêm sẽ không thể ngủ yên.
Có thứ gì lạnh băng rơi liên tiếp lên mu bàn tay hắn.
Hắn đột ngột bừng tỉnh khỏi thần trí mê loạn, phát hiện ra bào son của mình đã bị mồ hôi lạnh thấm ướt.
Bàn tay nhỏ nhắn yêu kiều của Lang Hoàn vẫn đậu trên má hắn, trong đôi mắt xanh tuôn giọt châu ào ào.
Đừng khóc.
Một giọng nói như vọng lại từ hang sâu núi thẳm khe khẽ cất lên trong đầu hắn, như mẫu thân nằm trên giường bệnh gắng sức vuốt ve khuôn mặt hắn.
Quý Sưởng, đừng khóc.
Hắn hoảng hốt lau má, dính đầy tay áo chẳng biết là nước mắt hay mồ hôi.
Sau đó, hắn kinh ngạc ý thức được giao nhân trước mắt không hề mở miệng, giọng nói ngọt ngào mênh mông ấy đến từ sâu thẳm trong đầu hắn.
Đừng khóc.
Lang Hoàn một lần nữa lau nước mắt không kìm nén được cho hắn.
Mỗi lần ngón tay nàng lướt qua da, hắn lại nghe thấy giọng nói dịu dàng kia.
Hắn khiếp sợ hất bàn tay xinh đẹp quái dị ấy ra, lùi về sau, lại bị câu nói vọng tới từ sau lưng làm giật mình căng cứng hai vai.
“Đó là cô ấy đang nói chuyện.” Hải Thị bưng một tước rượu lớn bằng bạc đứng ở cửa, lạnh lùng nói, “Giao nhân không phải thần tiên.
Tuy Lang Hoàn không hiểu tiếng chúng ta nhưng có thể dựa vào chạm sờ đọc được quá khứ của chúng ta mà nhờ đó chúng ta cũng có thể nghe được tiếng nói trong lòng họ.
Họ sống quá lâu dưới biển sâu, trong đôi mắt từ bi của họ, không ai trong chúng ta không phải sinh vật phù du đáng thương.”
“Vậy à?” Quý Sưởng không nhanh không chậm đứng dậy, khôi phục vẻ mặt phóng túng tùy tiện thường dùng trước mặt người khác, “Giao nhân thông minh như vậy, sao phu nhân lại có thể thuyết phục được cô ấy rời khỏi động phủ thủy tinh của mình?”
Nàng chẳng lí tới hắn, đi tới cạnh Lang Hoàn, vén y phục cẩm tú lên ngồi xổm xuống.
Im lặng hồi lâu, nàng thấp giọng đáp: “Cô ấy chỉ thương xót ta mà thôi – dưới đáy biển, cô ấy cũng xoa má ta như vậy.”
Quý Sưởng lặng thinh chốc lát, lại nói: “Vậy cứ không ăn không uống thế này, liệu có chết mất không?” Chỉ mình hắn biết trong giọng nói nhởn nhơ của hắn nhuốm nhè nhẹ run sợ.
Hải Thị đưa tước rượu kề bên miệng Lang Hoàn, cũng không quay đầu lại, đáp: “Có mặt ta, cô ấy mới miễn cưỡng uống ít nước biển, người ngoài thì không được.”
“Sao không đưa vào Cửu Liên Trì ngâm nước?”
“Trong nước ngọc Cửu Liên Trì có bột ngọc trai, cứ tới gần là cô ấy lại đau lòng muốn điên.” Hải Thị nhìn Lang Hoàn uống nước biển, nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc dài ẩm lạnh của nàng.
Thanh niên áo son thở dài: “Vậy, lễ tiễn thần về biển này chỉ e phải mời Hộc Châu phu nhân đồng hành rồi.”
Hải Thị ngoái đầu lại nhìn xoáy vào hắn, “Là ta đón Lang Hoàn đến đây, đương nhiên cũng sẽ đưa cô ấy nguyên vẹn trở về.”
Ánh mắt ấy hoàn toàn chẳng giống một phi tử tuyệt trần được sủng ái hết mực mà giống một thiếu niên quân trang tháo vát thanh tú, sắc sảo tỉnh táo.
Nàng cũng chỉ là một quân cờ không rõ tiền đồ giữa ngón tay số mệnh, nhưng lúc nào cũng tỏa ra vẻ đẹp lẫm liệt bức người mang hình dáng lưỡi đao.
Dẫu sao thời gian cũng chẳng dối lừa – Nàng còn trẻ đến thế kia mà.
Nếu nàng là một món đồ chơi quý giá có thể khóa lại cất đi, có lẽ hắn chẳng cần thiết phải phá hủy nàng.
Nhưng nàng lại minh mẫn nhuệ khí như vậy.
Ngày ấy đã đến ngay trước mắt, hắn nghĩ mà không khỏi nảy sinh chút tiếc nuối.
Trong gió mát đêm đông loáng thoáng ẩn chứa hơi thở pha tạp hơi nước, phả vào mặt ấm áp dị thường.
Đó là bào thai bão táp đang cựa mình..