Nỉ đỏ thêu hoa văn hình sấm và chữ Vạn chỉ bạc chỉ vàng trải dài từ trong đại điện ra ngoài, con đường hoa lệ còn chưa thấy điểm cuối đã bị ánh nắng trắng lạnh ngoài cửa vùi lấp dấu hình.
Phương Chư đứng sau đoàn người, nhìn nàng bước từng bước trên thảm nỉ đỏ.
Trĩ y nền đen lớp lớp hoa chìm quấn quít với những đóa hoa thêu nổi vàng hồng, trang nghiêm diễm lệ, tôn lên nét son nhũ đỏ bạc.
Mắt phượng mi dài nặng trĩu, tựa một cặp khóa khóa kín đôi mắt từng lúng liếng trong veo.
Thiếu nữ nam trang cược rượu luận kiếm khi xưa như đã bị đuổi ra khỏi cơ thể này, còn mỹ nhân điềm đạm không dính bụi trần trước mắt thì chỉ là một linh hồn đã chết mượn xác chàng chẳng hề quen biết.
Khoảnh khắc bước ra cửa Tử Thần Điện, ánh nắng lạnh lùng nhất thời làm lóa mắt nàng, nhưng nàng vẫn tiếp tục cất bước không nghiêng không lệch.
Sáng sớm không gió, khắp trời tuyết nhỏ như hạt gạo thong thả rơi xuống thẳng tắp, người đen nghìn nghịt im ắng quỳ đầy đất.
Vì tiễn thần đuôi rồng về nơi cư ngụ, mồng một tháng Hai, Sưởng vương và nhóm sứ thần ba nước xuất phát từ Thiên Khải, Hộc Châu phu nhân, sủng phi của Đế Húc dẫn sáu mươi nữ quan đồng hành, tám ngàn cấm quân hộ vệ, trong đó cỗ kiệu nóc nhọn mái cong mạ vàng là tọa liễn của thần đuôi rồng và Hộc Châu phu nhân.
Khoảnh khắc leo lên cỗ kiệu, nàng thoáng ngoái đầu, ánh mắt xanh trong nhẹ lướt lên thềm son như bươm bướm vỗ cánh.
Người kia vẫn đang đứng đấy – như ẩn như hiện sau trùng trùng bóng người, đó chính là vị trí của chàng từ trước tới nay.
Mắt thấy Sưởng vương nắm binh tự lập chỉ ngay trong sớm chiều, mấy ngày tới thế nào cũng sẽ xảy ra một trận binh loạn, không ở kinh thành thì cũng ở ven biển.
Chuyến này tới chân trời, duyên phận mỏng manh giữa chàng và nàng hôm nay có lẽ đã đến cuối.
Cách nhau quá xa, dẫu ánh mắt có từng chạm nhau, bản thân họ cũng chẳng thể hay biết.
Màn tuyết mịt mùng ngăn cách giữa hai người họ, chậm rãi mà bất khả kháng cự.
Hàng ngũ nghi trượng uốn lượn ra khỏi thành từ Kế Hàn Môn, kéo dài mấy dặm, đồ sộ tráng lệ.
Đầu xuân năm Thiên Hưởng thứ mười lăm, in sâu nhất trong kí ức trăm họ lại chẳng phải hàng ngũ xa hoa này mà là sóng gió phản loạn kinh hoàng trỗi dậy vào mấy ngày sau đó, đợi đến khi tân hoàng lên ngôi thì đó đã là chuyện của cuối thu đầu đông.
Trong bảy ngày rời khỏi đế đô, từ đầu đến cuối Lang Hoàn chỉ một mực ngủ li bì trên đầu gối Hải Thị, thỉnh thoảng tỉnh dậy uống mấy ngụm nước biển.
Mọi người cũng chẳng biết phải làm thế nào, chỉ có thể trơ mắt nhìn làn da mát rượi trơn ướt của Lang Hoàn mất đi độ bóng từng ngày, mái tóc dài chấm mắt cá chân ngưng tụ đọng muối, ốm gầy xác xơ như một cánh bướm sắp trôi đi theo gió, nhưng lại không chịu cho ai tới gần ngoài Hải Thị và Ngọc Nhiễm.
Họ đành phải không ngừng thay phiên dùng khăn ướt thấm nước biển lên da nàng.
Đêm ấy lúc đến được hành dinh nghỉ chân, rốt cuộc Hải Thị mệt nhọc quá mức, không chờ được Ngọc Nhiễm trở lại đã chìm vào giấc ngủ.
Ban đêm, Hải Thị bị đánh thức khẽ khàng, nàng ngồi bật dậy nhìn quanh, thấy Lang Hoàn vẫn yên bình ngủ bên cạnh mới thở phào nhẹ nhõm.
“Sao vậy?” Hải Thị quay sang hỏi Ngọc Nhiễm đánh thức mình, thấy trong mắt Ngọc Nhiễm mơ hồ rưng rưng, lòng không khỏi nghẹn ứ.
Ngọc Nhiễm lùi ra sau một bước, nghiêm trang quỳ xuống bên mép giường, hai tay dâng lên một chồng quần áo, nói: “Phu nhân, ngài đi đi.”
Hải Thị lật giở chồng quần áo, đều là trang phục đàn ông, thần sắc càng thêm bén nhọn: “Đi? Bà muốn ta đi đâu?”
“Phu nhân, trưa nay phó tướng Cận Kỳ Doanh Phù Nghĩa giam lỏng đại tướng Hạ Nghiêu, hiện giờ đang tụ tập binh mã, rạng sáng ngày mai lãnh hai vạn binh đánh vào cấm thành, ủng hộ Sưởng vương lên ngôi.”
“Cái gì?” Hải Thị thất thanh.
Lang Hoàn bị kinh động cũng nhập nhèm hé mắt.
Ngọc Nhiễm dúi quần áo vào tay Hải Thị, khấu đầu nói: “Chuyện xảy ra quá đột ngột, tướng quân Trương Thừa Khiêm đang nghĩ cách giải cứu đại tướng Cận Kỳ Doanh Hạ Nghiêu, lấy binh phù.
Ngày mai chúng ta sẽ tới được bờ biển, thuyền rồng tiễn thần chỉ có phu nhân, Sưởng vương, sứ thần ba nước và tùy tùng của mỗi người, họ nhất định sẽ thừa cơ gây bất lợi cho phu nhân, bây giờ phu nhân không đi thì khó còn cơ hội khác lắm.”
Hải Thị nhìn Ngọc Nhiễm chăm chú một lúc, nở nụ cười: “Ngọc cô, thì ra bà cũng là thuộc hạ của nghĩa phụ?”
Ngọc Nhiễm nghe vậy mỉm cười hiền hòa, khóe mắt hiện nếp nhăn: “Nô tì chỉ là một cung nhân lâu năm nhìn hoàng thượng và thế tử lớn lên mà thôi.”
Hải Thị lắc đầu cười nhẹ.
Người kia ấy à, rõ ràng thân đã sa vào lớp lớp vòng vây mà vẫn canh cánh lo nghĩ thả nàng tự do.
Nhưng chuyện đến nước này không khỏi đã quá muộn rồi.
Chàng cứ như vậy tự tay rạch lên người nàng vết thương rồi lại uổng công bưng đá quý châu ngọc tới thoa lên vết thương nàng, thuốc trị thương tầm thường đơn giản mà nàng cần nhất thì bất kể thế nào chàng cũng cho không đặng.
Hải Thị lấy tay áo che mặt, ngồi lặng chốc lát, lúc thẳng người trở lại dường như đã có quyết định.
Nàng kéo Ngọc Nhiễm dậy, hỏi: “Ngọc cô, bà có thể hỏa tốc đưa tin về đế đô không?”
Mắt Ngọc Nhiễm sáng bừng, đáp: “Có thể.
Đưa tin đi lúc này, sáng sớm mai là có thể đến được đế đô.”
“Được.
Vậy bà hãy bảo họ rải lời đồn trong dân gian, nói là…” Hải Thị chớp mắt, “Nói là Sưởng vương vừa ra biển thì gặp gió lốc, thuyền đắm người mất.
Như thế, nếu Đế Húc bị giết, huyết thống hoàng thất sẽ đoạn tuyệt, trong phản quân tất sẽ xảy ra lục đục nội bộ vì tranh đoạt quyền lực.
Đi mau.”
Ngọc Nhiễm gật đầu thật sâu, xoay người ra cửa truyền tin.
Chỉ một lát sau, Ngọc Nhiễm đã đẩy cửa đi vào, dáng vẻ khấp khởi: “Tin tức đã lên đường.”
Hải Thị cũng thở phào: “Kế duy nhất hiện giờ cũng chỉ có vậy, có kịp hay không thì phải xem ý trời.”
Ngọc Nhiễm lấy đống nam trang kia ra, nói: “Phu nhân, để Ngọc Nhiễm hầu ngài thay y phục.”
Hải Thị nhẹ nhàng khoát tay, “Không gấp.
Ngoài hành dinh có binh lính canh phòng, thừa dịp họ giao ban canh ba giờ Sửu đi cũng không muộn.”
“Vâng.
Mời phu nhân nghỉ ngơi, giờ Sửu nô tì sẽ gọi phu nhân dậy.” Đoạn, Ngọc Nhiễm định lui ra.
“Ngọc cô.” Hải Thị gọi.
“Vâng?”
Hải Thị vuốt lại tóc cho Lang Hoàn, cầm khăn thấm ước biển lên da nàng, “Khi còn bé, nghĩa phụ là người thế nào?”
Ngọc Nhiễm ngờ người, ngay sau đó nở nụ cười ấm áp.
“Thế tử và hoàng thượng là hai đứa bé đáng yêu lanh lợi nhất trong cung khi đó.
Lúc được đưa vào đông cung nuôi dạy cùng thái tử, thế tử mới chỉ năm tuổi, thường cưỡi ngựa nhỏ ra ngoài chơi với các hoàng tử.
Trong các hoàng tử, thuật cưỡi ngựa của hoàng thượng cao minh nhất nên đương nhiên thế tử và hoàng thượng cũng thân thiết với nhau hơn.
Hoàng thượng thiếu niên lão thành, tuy hơn thái tử mọi bề song vì mẹ đẻ xuất thân thấp hèn, đi đâu cũng bị hạn chế, trong cung hiếm có một người bạn cùng lứa, thế nên cũng rất mực yêu mến thế tử.
Thái tử đối xử với ai cũng hất hàm vênh váo mà cứ đến gần ngựa là run như cầy sậy, cũng không thích xem người khác cưỡi ngựa bắn tên, thường làm mình làm mẩy không cho thế tử ra ngoài chơi với hoàng thượng.” Ngọc Nhiễm vừa nói vừa mỉm cười thở dài như chìm vào hồi ức xa xôi.
“Thế nên mỗi dịp lễ tết các hoàng tử tề tụ ngự tiền là thời điểm hoàng thượng vui vẻ nhất.
Các hoàng tử khác đều lấy lòng tiên đế và thái hậu, chỉ có hoàng thượng kéo thế tử sang một bên chơi đùa.
Năm hoàng thượng mười lăm tuổi, đêm Nguyên Tiêu mười lăm tháng Giêng, hoàng thượng dẫn thế tử trốn cung nhân giả trang làm công tử quý tộc ra ngoài chơi, định vào dân gian ngắm đèn.
Ai ngờ còn chưa ra khỏi cung thì bị thái tử bắt gặp, bèn xúi thái tử cũng thay xiêm áo, ba người mỗi người cưỡi một con ngựa cùng đi.
Nào hay trên đường Vĩnh An, vật cưỡi của thái tử bị pháo dọa sợ, đá người khác bị thương đã đành, người còn ngã khỏi yên, một chân mắc trong bàn đạp không thoát thân được, cứ thế bị lôi xềnh xệch đi mấy trượng.
Khi đó thân thủ hoàng thượng đã vô cùng linh hoạt, phóng ngựa đuổi theo vật cưỡi của thái tử, nhẹ nhàng tung mình cưỡi lên, muốn khống chế con ngựa rồi kéo thái tử lên yên.
Ngờ đâu con ngựa kia hoảng sợ, chồm lên lồng lộn gần như hất ngài ra khỏi yên.
Lúc này thế tử đuổi theo phía sau vội vàng bắn liền năm mũi tên, tất cả đều trúng vào khoeo hai chân sau của con ngựa, con ngựa mới khụy xuống, hoàng thượng lập tức rút dao găm giết nó.
Năm ngàn Vũ Lâm quân nghe tin ào ào xông vào chợ đèn, đón họ về cấm thành.
Hoàng thượng và thế tử chỉ mặt mũi tái xanh, nói không ra lời, hôm sau đã lại khỏe như vâm, thái tử thì phải nghỉ ngơi trọn một tháng.
Đó chính là tai vạ ầm ĩ nhất trong kinh thành năm ấy.
Lúc đó thế tử mới chỉ mười một tuổi.
Tiên đế vốn định phạt nặng họ, lại thương họ thân mật như vậy, đành hạ chỉ đánh mỗi đứa ba trượng cho qua chuyện.
Sau đó, hai đứa bé này càng thân nhau hơn, cùng cưỡi ngựa luyện võ, nghiên cứu binh thư, dùng cờ suy diễn trận thế, y như hai cây dương kề vai sát cánh, gặp gió vươn mình.
Nếu không xảy ra cuộc chiến loạn kia, họ đã chẳng đến nỗi…” Ngọc Nhiễm bỗng không kể nổi nữa, im lặng quay mặt đi.
“Ngọc cô.” Hải Thị lau khóe mắt ẩm ướt như một đứa trẻ, cười nói: “Cảm ơn bà.”
“Phu nhân, ngài biết không?” Ngọc Nhiễm quay đầu trở lại, đầu ngón tay nhón chiếc phàn chỉ vàng khảm lưu ly xanh nhạt Hải Thị đeo trên cổ lên, “Cái này là Thanh Hải công tặng cho thế tử, năm đó hoàng thượng xin xỏ mấy bận thế tử đều không cho.”
Hải Thị trầm mặc chốc lát, ngẩng lên rầu rĩ nói với Ngọc Nhiễm: “Xin lỗi, Ngọc cô, ta không đi được.
Nếu ta còn có thể làm điều gì cho chàng thì ta không thể đi.”
Ngọc Nhiễm còn chưa kịp thu ngón tay nhón phàn chỉ về, mặt đã hứng một cái bạt tai nóng rát, trong tai nổ đùng đoàng không dứt.
“Lão nô láo xược!” Hải Thị đứng phắt dậy, trỏ vào trán Ngọc Nhiễm khắc nghiệt trách mắng: “Thật to gan! Đừng tưởng bà hầu hạ hoàng thượng lâu năm là có thể bất kính với chủ tử!” Nàng cao giọng gọi: “Vệ binh! Vệ binh! Mau lôi mụ tiện nhân này ra cho ta!”
Ngọc Nhiễm bưng má, ngây phỗng nhìn Hải Thị.
Vệ binh nghe thấy tiếng huyên náo đằng xa, vội chạy tới, vừa hay chứng kiến Hộc Châu phu nhân nổi giận lôi đình, giao nhân ôm chặt lấy cánh tay phu nhân, không ngừng lắc đầu rơi lệ.
“Ngày mai phải ra biển tiễn thần, không thể phá xằng sát giới, thật quá hời cho bà!” Dưới cơn thịnh nộ, hoàng phi trẻ tuổi hất vỡ chung trà trên bà, oán hận ra lệnh: “Các ngươi lôi mụ ra ngoài trông coi sát sao cho ta, ngày mai quyết không cho mụ ta lên thuyền, đợi ta tiễn thần trở về rồi sẽ từ từ trừng trị con mụ này!”
Ngọc Nhiễm ngơ ngác nhìn gương mặt nom như trẻ con, xinh đẹp mà đoạn tuyệt, chợt nhắm mắt, lệ tuôn ròng ròng, để mặc vệ binh dìu mình ra ngoài.
Tên lính đi sau cùng kính cẩn đóng cửa phòng cho Hải Thị.
Lang Hoàn vẫn quỳ gối ở mép giường, ôm chặt cánh tay Hải Thị, khẩn khoản lắc tay nàng, Hải Thị lại nhắm mắt, hồi lâu không đáp lại nàng.
Chân trời đã lấp ló ban mai.
Nhưng người trong kinh ấy liệu có còn kịp thấy bình minh?
Trên đỉnh cấm thành.
Trên nóc trùng diêm Tử Thần Điện gió mạnh rít gào, tay áo hai người đứng sóng vai trên đó phần phật như muốn bay đi.
Đường phố ngang dọc như bàn cờ, nhà cửa như hạt đậu, đế đô mênh mông thu hết vào mắt, cho đến khi tầm mắt bị dãy núi lam mờ chặn mất.
“Giám Minh, giải quy ước nối mệnh đi.
Chuyện tới giờ đệ có không đồng ý nữa cũng chỉ cho ta thêm được nửa ngày tuổi thọ, còn cuốn mình vào không, chẳng có ý nghĩa gì hết.” Đế Húc nhìn xuống ngoài Khai Bình Môn, hai vạn phản quân lúc nhúc như kiến, vây quanh mười mấy chiến xa thiết giác công thành, ồn ào ầm ĩ đánh vào Khai Bình Môn.
Phương Chư lặng im một chốc, bỗng cất tiếng: “Húc ca, đệ hiểu được câu huynh nói khi đó rồi.”
“Cái gì?” Đế Húc chẳng quay đầu lại, vẫn dõi thẳng về phía trước.
“Ngày đó chúng ta ngồi ở đây, núp sau thôn tích thú và mỏ diều hâu xem trộm Quý Sưởng lên đường đi Chú Liễn, huynh nói, nếu chúng ta không sinh ra ở đây thì thật tốt biết bao.” Trong mắt Phương Chư có nụ cười ấm áp.
“Nhưng nếu chúng ta không sinh ra ở đây…” Đế Húc hiên ngang ngẩng đầu nhìn trời, kền kền ngửi thấy mùi máu đã liệng vòng xa xa, chờ cơ hội sà xuống.
Y cười nhạt, không nói nữa.
Phương Chư cười bảo: “Húc ca, vẫn còn thời gian đánh một ván cờ đấy.”
Đế Húc nhìn đế đô dưới chân, lát sau, nói: “Đi thôi.”
Trong Kim Thành Cung, cung nhân đã trốn sạch bách, rương tủ nghiêng đổ, tơ lụa châu ngọc xếp đống khắp nơi.
Hơn trăm ngọn đèn da bò trắng không có ai tắt, vẫn tỏa sáng lờ mờ giữa sắc trời ban ngày.
Quân cờ đen trắng đan xen trên bàn cờ phỉ thúy, thế lực tăng giảm, thôn tính đấu đá, bị hạn chế vĩnh hằng trong ngang dọc tung hoành là phù du sáng sinh chiều chết trong bàn tay khổng lồ của số mệnh.
Giữa nửa bàn cờ dang dở, mấy chục năm đời người chênh vênh.
“Trận dưới Thông Bình Thành năm ấy, nếu đệ không cứu trẫm thì thật tốt biết bao.
Sau khi cha đệ qua đời, thế gian đã không còn người thứ hai biết bí mật huyết mạch Phương thị, đệ không cần phải làm bách hề của ai, trẫm muốn chết được chết, đến Quý Sưởng cũng có thể lấy được ngai vàng như mong ước, cũng coi như ổn thỏa.
Nhưng đệ lại không chịu.” Đệ Húc chẳng cần nghĩ ngợi, tiện tay hạ một quân cờ.
“Quen biết ba mươi năm, lấy mạng đổi mạng lẫn nhau không biết đã bao lần, là hoàng đế hay không có can hệ gì đâu.”
Phương Chư trầm ngâm một thoáng, đang định hạ một quân cờ trắng xuống thì Đế Húc bình thản hỏi:
“Kể cả trẫm cướp đi người con gái đệ yêu cũng được?”
Ngón tay hạ cờ của Phương Chư hơi khựng lại, vẫn chuẩn xác đặt một nước: “Đứa bé ấy chưa bao giờ là của đệ.”
Đế Húc ngước mắt nhìn người đối diện bàn cờ, vẻ mặt ranh mãnh như thiếu niên, trong mắt lại cất thầm đau thương: “Đệ tưởng trẫm không còn nhận ra chiếc phàn chỉ đó nữa à?”
Đáp lại y là trầm mặc kéo dài.
Đế Húc chống tay đỡ trán, giữa ngón tay vân vê một quân cờ, thái độ nhàn nhã.
Giữa lúc đăm chiêu, y thoáng liếc ra cửa, nói: “Ai bảo còn thời gian đánh một ván cờ? Mới thế đã có người tìm tới cửa rồi.” Đoạn thò tay quờ bừa, đảo loạn cờ trên bàn.
Phương Chư bật cười: “Lại trò cũ, mắt thấy sắp thua là y như rằng lấy cớ bỏ ván.” Vừa nhặt từng quân trắng vào chén phỉ thúy, vừa thoải mái hỏi: “Tiêu Tử, là anh?”
Người lính áo đen xuất hiện ngoài cửa đáp: “Là tôi, tổng quản.”
“Người của đệ?” Đế Húc nhặt quân đen, hỏi.
Phương Chư đậy nắp chén cờ phỉ thúy nạm vàng, “Không hẳn.”
“Người của Quý Sưởng?” Đế Húc cũng thu dọn quân cờ, hai chén cờ ngay ngắn đặt trên bàn cờ.
Tiêu Tử đi vào cửa, lẫm liệt đáp: “Cũng không hẳn.
Tự ta một mình.”
Đế Húc bật cười, nói: “Người này thú vị đấy.”
“Hôn quân.” Trường kiếm bên hông Tiêu Tử keng một tiếng rời khỏi vỏ, chỉ vào Đế Húc, “Ban đầu ta cũng không tin ngươi có thể ngu ngốc đến nông nỗi này, tình nguyện lừa mình dối người, mạo hiểm bản thân, náu trong Vũ Lâm quân mười năm, âm thầm ngăn cản âm mưu làm phản của Sưởng vương.
Nhưng mười năm quả thực quá dài, dài đến độ khiến ta không nhìn thấu nổi ngươi nữa.
Hôm nay giết ngươi chẳng oan uổng chút nào, là thay trời hành đạo.”
Đế Húc bỗng đứng bật dậy, tay áo rộng phất phơ, “Càn khôn bỡn cợt trẫm, trẫm cũng bỡn cợt càn khôn.
Nếu trời có đạo thì vì sao không giết phứt trẫm đi mà còn phải mượn tay người phàm? Mười mấy năm trẫm hung tàn bạo ngược, vì sao đến giờ mới có báo ứng?” Y dời mắt sang Tiêu Tử, mắt mày càng thêm ngang tàng, ngông cuồng không ai bì nổi, “Là trẫm tự tay giết mình, liên can gì đến trời?”
Tiếng trống da như vạn ngựa tung vó, chấn động mặt đất lao tới.
Chín điện Càn Tuyên, Khôn Vinh, Cửu Tĩnh, Định Hòa, Văn Thành, Võ Đức, Tường Vân, Quân Lôi, Tử Thần bên ngoài bị đánh chiếm hoàn toàn, Ninh Thái Môn đã bị phá, phản quân ập vào hậu cung.
Tiếng trống như bước chân cự thú, tiếng gào rít hỗn tạp của ngàn vạn người dâng trào, khiến rượu bồ đào hảo hạng tím lịm trong chén dạ quang Đế Húc cầm trong tay gợn lên lớp lớp ngấn mịn.
Hướng Nhân Tắc Cung, gió hất cao tinh kỳ đỏ thẫm, sóng người như mây mù mang sấm chớp ùn ùn đâm bổ về Kim Thành Cung.
Y hệt như năm xưa, phía nam sông Li Lan nhạn bay thẳng cánh.
Khi đó, họ đều đương tuổi phóng ngựa vung roi, vương kỳ nền đen rồng vàng và quân kỳ Lưu Thương đỏ thẫm như máu đan xen tỏa sáng trong mưa rào.
Đế Húc quay sang Tiêu Tử, cười ngạo mạn: “Người lưu danh sử sách chỉ có thể có một, cơ hội chỉ lóe trong chớp mắt.
Ngươi muốn động thủ thì làm sớm đi.”
Tiêu Tử còn chưa kịp phản ứng, sau lưng lại vang lên một giọng nói khác.
“Trần Tiêu Tử, tới bước này rồi mới phản bội chủ tử ngươi thì không khỏi quá muộn rồi.” Một người đàn ông đứng ngoài cửa rút trường đao ra, khua hờ trỏ vào Tiêu Tử từ xa.
Ông ta quay lưng với ánh sáng, mặt mũi đen sì một màu.
Tiêu Tử đứng lên, nhe hàm răng trắng tinh, “Chủ tử ngươi thì đối đãi với ngươi thế nào? Hắn không yên tâm về ngươi, sắp xếp ta trà trộn vào Vũ Lâm áo đen chờ cơ hội ám sát, ngươi có từng biết có một người như ta vậy không? Tin tức trong phủ do ta tiết lộ, hắn cũng chẳng nghi ngờ đến ta, lại một hơi giết hai mươi gia nô.
Ngươi nghe lời chủ tử ngươi, nhưng chủ tử của ta chỉ có chính ta.”
Gương mặt đen thui của Phù Nghĩa vẫn không một biểu cảm, kim đao trong tay bị sát ý kích thích, phát ra tiếng u u xa xăm.
Bức tường người yên lặng sau lưng Phù Nghĩa bỗng bị một tiếng la hoảng loạn xô tách, chưởng quản Chức Tạo Phường Thi Lâm ục ịch mặt tròn chen vào, nhón chân rỉ tai Phù Nghĩa mấy câu.
Gương mặt trước sau như một cứng ngắc tựa sắt của Phù Nghĩa lộ vẻ khiếp sợ rõ ràng, kim đao trong tay lật ngược về, áp sát cần cổ ngắn ngủi không đến một tấc của Thi Lâm: “Ngươi có dám thề lời ngươi nói là sự thật không?!”
Cặp môi dày đỏ thắm như đàn bà của Thi Lâm run rẩy theo đống thịt lỏng lẻo khắp thân, lắp bắp nói: “Sao, sao tôi biết được có thật hay không… Nhưng chưa qua một buổi sáng, trong kinh đã truyền khắp rồi!”
“Ra ngoài truyền lệnh, bất kể chiến công, bậc hàm, xuất thân, tất cả người tung tin vịt đều coi là làm nhiễu loạn lòng quân trước trận, xử tử không luận tội!” Phù Nghĩa thu đao, tóm Thi Lâm đẩy thẳng vào tường người.
Cơ thể tròn vo kia như một tảng đá rơi tõm vào biển, dấy lên làn sóng càng khuếch rộng càng lan xa.
Một luồng kiếm phong ác liệt thoắt chốc sượt qua tai Phù Nghĩa.
Ông ta ngạc nhiên quay đầu, thấy Tiêu Tử thừa dịp mọi người không để ý đã đâm một kiếm như chớp giật vào ngực Đế Húc.
Đế Húc chẳng tránh chẳng né, thân hình dong dỏng, nở nụ cười kiêu ngạo.
Thân kiếm đâm sâu vào ngực Đế Húc, xuyên ra sau lưng.
Đám người náo loạn ồn ào.
Tiêu Tử trợn trừng cặp mắt thất thần như tận mắt chứng kiến ác mộng khó tin nhất trong đời.
Đợi đến lúc gã nghĩ đến chuyện cần rút kiếm về, Đế Húc đã bắt được cổ tay gã.
Tiêu Tử nghe thấy xương cổ tay và khuỷu tay mình lách cách gãy vụn từng tấc.
Đế Húc mặt không đổi sắc, nhưng người bên cạnh y lại chợt cúi gập người.
Trong hư không có thứ gì lạnh băng đâm thủng ngực chàng.
Thoạt đầu không cảm thấy đau đớn, chàng chống tay lên bàn cờ phỉ thúy, cúi đầu nhìn ngực mình dần thấm ra máu.
Rốt cuộc vẫn đi đến bước này, quả thực quá mệt mỏi.
Chàng khoan khoái thở dài, cuối cùng ngẩng đầu nở một nụ cười với Đế Húc, vết đao cũ bên khóe miệng nhẹ nhàng nhếch lên.
Cách năm tháng thênh thang như nước chảy, hệt như cái năm mười ba tuổi ấy, chàng sóng vai cùng Trọng Húc giương cờ thoát khỏi đế đô, trên gương mặt ngây thơ treo nụ cười không lo không sợ.
Dung mạo cao ráo khôi ngô của người thiếu niên đôi mươi trên bức tranh cuộn vẽ Lục Dực Tướng đến nay như vẫn còn y nguyên.
Tường người ngoài cửa điện nhất thời lùi vài thước.
Những binh sĩ này đều là lính Hoàng Tuyền Quan cũ theo Phù Nghĩa chuyển vào Cận Kỳ Doanh, ai cũng từng thành kính dâng hương trước bức tranh Lục Dực Tướng trong quân từ.
“Chẳng lẽ là…”
“Không thể sai được, là Tĩnh Dực Vương!”
“Thái giám…”
“Không, Thanh Hải công…”
“Không phải Thanh Hải công đã sớm chết rồi sao?”
Tiếng người xì xào hỗn loạn như một sợi dây thừng từ từ quấn chặt lấy ý thức tan rã.
“Nhu đức an tĩnh viết Tĩnh, cương khắc vi phạt viết Dực”… Quả thực chàng đã sớm là một người chết, một bài vị sơn đen, chiếm cứ một góc không thấy ánh mặt trời trong miếu đường, phấn vàng tô thụy hiệu – Tĩnh Dực vương.
“Giám Minh.” Giọng nói sáng sủa mát lạnh chọc thủng bóng tối, tạm thời kéo thần trí chàng về.
Chàng muốn nói gì đó nhưng máu đã sặc vào khí quản, mỗi lần hít thở đều bật tiếng khí suy kiệt vỡ nát và mùi tanh như sắt.
Đế Húc đỡ vai chàng, mỉm cười: “Đệ ưa sạch sẽ, vậy ta không rút kiếm ra nữa, đỡ cho đệ bị máu phun đầy mặt.”
Phương Giám Minh cũng nhoẻn cười, không nói gì, chỉ gật đầu thật nhẹ.
Đế Húc quay sang nhìn đám quân sĩ nơm nớp dè dặt áp sát tới, thò ba ngón tay ra, bẻ gãy chuôi kiếm trước ngực mình để lưỡi kiếm trong lồng ngực không gây trở ngại đến động tác rồi rút trường kiếm bên hông đánh cheng, nghênh ngang chỉ vào bầy người trước mắt.
Nhưng đúng lúc này, tiếng người như sóng thần tụ lại từ bốn bề.
Dẫu đã ra lệnh xử tử không luận tội cũng chẳng áp chế được lời đồn kia, cuối cùng, âm thanh hội tụ từ vô số tiếng thì thầm sợ hãi rợp trời ào tới.
“Thuyền lật, Sưởng vương chết!”
Giữa mắt mày Đế Húc thình lình bừng sáng, lẩm bẩm độc thoại: “Ha, trẫm thích kết cục náo nhiệt này hơn đấy.
‘Giết hơn trăm người, kiệt sức mà hoăng’ – viết như vậy trong sử sách mới giống trẫm chứ.”
Y quát một tiếng, mũi kiếm phát ra sát khí nhanh như tia chớp, chém ngang ngàn quân, máu me nhòa mắt.
Phương Chư như trông thấy dây mây tối tăm và lạnh giá thần tốc đâm chồi một chiếc lá sống, từ trong suối vàng leo về phía mình.
Kí ức hóa thành biển mây mênh mông, dâng trào muôn vẻ.
Đau đớn xuyên thấu lồng ngực như một mũi tên bắn vào thời gian sâu thẳm, kéo chàng lội ngược dòng.
Thương tích trên ngàn vạn gương mặt dính máu vỡ vụn khép lại, nếp nhăn phai mờ, trên tóc mai nhuốm sương bạc trắng, đốm sương dần dần tan đi – tuế nguyệt băng băng chảy ngược.
Đèn hoa chập chờn.
Thiếu niên mười chín tuổi hai tay ôm đèn, ngọn lửa nhấp nháy dần đứng yên.
Thiếu niên nhìn ánh đỏ tươi đẹp thấm qua kẽ tay, đó là máu tươi chảy trong cơ thể chàng được đèn đuốc soi sáng.
Chàng quay đầu nhìn người đàn ông trẻ trên giường bệnh.
Từng là vị vua phục chế khí khái bất khuất, quát tháo vạn quân, lúc này chỉ như một tượng đá hình người không có hơi thở, ngoại trừ vết thương trúng tên vẫn đang ương ngạnh rỉ máu.
Thiếu niên lấy một con dao tinh xảo mỏng tang ra, không nhanh không chậm hơ trên ngọn đèn.
Trên lò đất sét đỏ bên cạnh, thuốc đã sắc xong, ục ục nổi lên bong bóng to như mắt cá trên ngọn lửa liu riu.
Thiếu niên đặt con dao mỏng sang một bên, đứng dậy rót thuốc vào bát, thoáng lắc, nhìn chằm chằm nước thuốc đen kịt hỗn độn đang bốc nghi ngút hơi nước trắng xóa.
Ánh mắt chăm chú như một thanh kiếm mới khai đao, lạnh lẽo căm căm chiếu rọi.
Thiếu niên đặt bát thuốc xuống, lại cầm con dao lên, nhắm vào cổ tay thoáng dùng lực, rạch cổ tay mình ra.
Chàng giơ cánh tay lên cao, nhìn linh dược đỏ thẫm kia nhỏ xuống như say mê, dưới ánh đèn mờ tối, máu tươi tựa châu ngọc.
Đỏ nồng đậm hòa từng tia vào đen đục ngầu, cuối cùng lặn tăm.
Chất lỏng sánh đặc trong bát bỗng gợn ánh như hổ phách, càng tỏa càng sáng, dần không thể nhìn thẳng.
Kể từ hôm hoàn thành bí thuật, tính mạng của chàng và Trọng Húc đã đan xen khó gỡ, máu thịt cộng sinh, không thể chia lìa.
Giống như hai hạt giống bụi bặm, cùng ngoan cường nảy mầm khỏi lòng đất, xòe lá, dần lớn thành đại thụ che trời qua mỗi một lần bên bờ sinh tử, mỗi một trận liều mạng chém giết.
Sau đó trơ mắt nhìn nó bắt đầu thối rữa từ gốc rễ mà đành chịu bó tay.
Hoặc giả là sai rồi nhưng chàng không cam lòng quay đầu ở đây.
Từ đầu đến cuối, người muốn buông tay không phải Trọng Húc mà là chính chàng.
Là chàng lấy gông xiềng vận mệnh ràng buộc hai người, đi tới điểm cuối đời người, đi đến khi phía trước hết lối, con đường đằng đẵng gian khổ này hôm nay cuối cùng cũng tới cuối, chẳng còn cái gì có thể trói buộc nữa.
Thiếu niên tộc Man tự do rong ruổi trên thảo nguyên kia là con chim cắt xanh chàng thả ra từ hai cánh tay mình, cũng sẽ là vị vương giả cai trị Hãn Châu.
Mà Hải Thị – nghĩ đến đây, một cơn đau bổ nứt khác xé toang lồng ngực chàng – thiếu nữ anh tư hiên ngang ấy sẽ trở lại chốn nhân gian cuồn cuộn hồng trần, lấy chồng sinh con, thi thoảng sẽ nhớ tới chàng giữa những khoảng trống của cuộc sống đời thường, cũng có thể sẽ hoàn toàn bỏ chàng vào quên lãng.
Cả đời này, nàng sẽ chẳng bao giờ biết được chàng trân trọng nàng đến nhường nào.
Như xạ thủ trân trọng đôi mắt mình, như trai ngọc trân trọng viên minh châu duy nhất giữa hai mảnh vỏ – chàng cũng chưa bao giờ cần nàng phải biết.
Chàng nguyện trải mình thành đường, đưa nàng tới cõi an vui.
Nếu chúng ta không sinh ra ở đây.
Tiếng Đế Húc tựa sấm rền tối tăm vụt lướt bên tai.
Nếu không sinh ra ở đây thì sao? Nếu chỉ là anh em thường dân sống nơi phố chợ, có lẽ nghiệt duyên sẽ chẳng nặng nề như vậy; nếu chỉ là trai gái tầm thường trong loạn thế, ruồng bỏ phụ lòng lẫn nhau, phỏng chừng cũng chẳng đậm sâu đến mức máu chảy đầm đìa như thế.
Từng bàn tay ma quỷ tử vong quấn lên, che đậy tầm mắt chàng, gò bó hơi thở chàng.
Ánh sáng trong mắt dần tan rã, cơ thể mất đi lực chống đẩy bàn cờ phỉ thúy đổ xuống đất, quân cờ đen trắng rào rào tản mát tán loạn.
Lúc này hẳn nàng đã bình an thoát hiểm rồi, nhỉ? Tầm mắt dần ảm đạm, kiếm quang như rồng múa trong tay Đế Húc dần không còn khả năng đâm xuyên bóng tối.
Sát na trước sụp đổ tan tành, chàng ngưng tụ nụ cười sau cuối bạc màu xám trắng.
Màu nước biển càng lúc càng sâu như sắp ngưng kết thành một mặt gương lam tối, thuyền rồng tựa một con thoi nhỏ, vững vàng hướng về đông bắc, cắt lên mặt gương con sóng trắng như tuyết.
Gió biển mát lạnh lùa vào khoang thuyền bày trí hoa lệ qua cửa sổ, vạt váy giao sa lam lạnh biếc trong bay lên, nhẹ nhàng như một cơn gió lành nhuộm ánh sáng kỳ ảo.
Trong mái tóc xanh dài phủ kín đầu gối lác đác những viên châu giao lệ như đốm sao, một chiếc tai nhọn thanh tú khẽ động đậy.
Lang Hoàn dần tỉnh lại trong tiếng sóng, nhoẻn cười với Hải Thị, thần sắc vẫn yếu ớt song ánh mắt thì như sống lại một lần nữa.
Ngón tay thon dài mơn trớn mái tóc Lang Hoàn, Lang Hoàn chợt cau mày, nhẹ nhàng nắm tay Hải Thị.
Hải Thị mỉm cười: “Lang Hoàn, bây giờ tôi cũng chỉ còn mười ngón tay này là sai bảo được thôi.
Cũng may bây giờ đã ra biển rồi, chị muốn rời đi rất dễ dàng.”
Chẳng biết từ lúc nào, thanh niên bào son đã đứng lặng ở cửa khoang, tủm tỉm nhìn nàng, khoan thai nói: “Thế nào? Gân cốt tê nhũn nhưng không còn cảm nhận được đau ngứa nữa phải không? Không tới nửa giờ, mắt sẽ dần không mất đi thị giác, sau đó đến lượt câm điếc rủ nhau tới, cuối cùng ngay cả tư duy cũng chẳng nổi.
Phấn hoa Mạn Đà La đặc sản của Thổ Hỏa Lỗ có mùi thơm ngọt, chỉ cần trộn một ít vào son là có thể khiến người ta chết giả ba ngày rồi mới hết hiệu lực.
Nhưng cô thì chẳng cần đến ba ngày này đâu nhỉ.
Bây giờ chắc hai người họ đã chết cả rồi, một mình cô sống cũng chẳng có ý nghĩa gì.”
Hải Thị ngẩng đầu, nhìn Ba Nam Na Yết và Tác Lan đang lại gần, cười lạnh: “Một mặt thề hẹn không bao giờ phái quân tiến vào Đông Lục, một mặt ngấm ngầm trợ giúp phản loạn, thái độ của các người đối với thần đuôi rồng chẳng qua cũng chỉ lá mặt lá trái như vậy.”
Một tay Tác Lan nắm gọn hai cổ tay Lang Hoàn, kéo nàng ra sau mình, giọng chế giễu: “Phu nhân, tuy Đế Húc khinh nhờn thần linh, xem thường bọn ta, nhưng tấn công cấm thành là Cận Kỳ Doanh của người Đông Lục các cô mà.”
Hải Thị đưa mắt ra ngoài cửa sổ xem sắc trời, thấp giọng nói: “Đã là giữa trưa rồi.
Trong cấm thành tiếng chém giết dậy trời, lại có lời đồn rằng Sưởng vương gặp gió lốc táng thân nơi biển khơi.
Hiện giờ phỏng chừng lòng dân đế đô đang hỗn loạn lắm đây.”
“Cái gì?” Sưởng vương không kìm được giật mình.
“Tốc độ lan tràn của tin vịt còn nhanh hơn ôn dịch.
Thuộc hạ của ngươi không phải đang cắn xé lẫn nhau vì quốc tỉ thì chính là lòng quân tan rã, bị Trương Thừa Khiêm ngoạm từng miếng.” Hải Thị run rẩy chống tay đỡ thân mình bải hoải dậy, chậm rãi đứng lên, huy y màu huyền lộng lẫy phục sức cho lễ tế tung bay phần phật trong gió biển.
“Trương Thừa Khiêm? Thằng con nhà mổ lợn chỉ cần hai mươi vạn lượng bạc trắng là có thể mua chuộc ấy à?” Sưởng vương cả cười.
“Phải, con trai nhà mổ lợn, cũng là một trong vài chục lính tốt Giám Minh từng cứu trên chiến trường năm xưa.” Hải Thị gian nan bước từng bước về phía Sưởng vương, bỗng bật cười.
Vẻ mặt tủm tỉm này của Quý Sưởng mới giống Đế Húc làm sao, sợ rằng chính hắn cũng chưa bao giờ ý thức được đâu nhỉ?
Sưởng vương cười khẩy: “Hắn có giữ được cấm thành thì cũng chẳng thể cầm cự được bao lâu.
Thang Càn Tự sẽ không ngồi yên xem đế đô biến loạn không quản – dẫu không phải vì ta thì trong đế đô cũng có người y không thể không bảo vệ.”
“Thang Càn Tự tuyệt đối sẽ không rời Hoàng Tuyền Quan.
Hai bộ Tả Hữu Bồ Đôn của Hộc Khố ngoài quan đã liên minh, không bao giờ hao tổn nội bộ nữa, chỉ cần Hoàng Tuyền Quan có dị động, người Hộc Khố sẽ ùn ùn kéo tới, Thàng Càn Tự vẫn còn lương tâm, đây chính là phần thắng của ta.
Trương Thừa Khiêm sẽ bảo vệ Đề Lan an toàn, đó cũng sẽ là một quả cân tốt lôi kéo Thang Càn Tự.”
Nụ cười của người con gái trước mặt hả hê như vậy khiến trong lòng Sưởng vương nổi lên cảm giác không lành.
“Vương tỷ mà có mệnh hệ gì, phụ vương nhất định sẽ không bỏ qua cho các ngươi!” Tác Lan vừa giận vừa sợ.
Lời còn chưa dứt, kiếm quang đã vụt lóe, cắt một lọn tóc đen của Sưởng vương rơi xuống.
Người con gái đáng ra phải vô cùng yếu ớt lúc này lại vươn tay nhanh như chớp giật rút trường kiếm đeo bên hông Sưởng vương, đâm xéo vào ngực hắn, mẫn tiệp đến độ người ta phải kinh hãi.
Song, dẫu sao độc mạn đà la cũng đã làm tê liệt tay chân nàng, cú đâm tựa mống này ngưng tụ tất thảy tâm thần sức lực của nàng, giữa chừng mất đi chuẩn xác, bị Quý Sưởng bổ ngang một chưởng, nàng không cầm cự nổi nữa, theo thế ngã khỏi cửa sổ khoang lầu tầng ba, lăn xuống sàn thuyền.
Lúc Quý Sưởng thong thả xuống đến sàn thuyền, Hải Thị vừa mới dựa lưng vào mạn thuyền khó nhọc đứng dậy, mái tóc dài rối tung, hành động nhọc nhằn khó khăn.
Quý Sưởng vứt trường kiếm trong tay đi, áp sát một bước về phía Hải Thị.
Nàng chẳng còn hơi sức đâu mà tránh nữa, buộc phải trơ mắt nhìn tay hắn thò tới, từng chút tóm chặt cổ áo nàng.
“Nhìn ánh mắt không chịu nhận thua như lang sói này đi, nếu là đàn ông, chỉ sợ cũng là một kiêu hùng trong loạn thế.” Không khí dần mỏng manh, nàng mất đi sức kháng cự cuối cùng, tiếng thì thầm của Quý Sưởng lởn vởn bên tai mãi không tan, “Nhưng, đàn bà dẫu sao cũng chỉ là đàn bà.
Là chính tay Phương Giám Minh ép cô vào đường cùng, sao cô phải khổ sở bồi mạng mình vào vì một người như vậy?”
Hắn tàn nhẫn chậm rãi tăng thêm sức lực nơi tay, eo Hải Thị dần bị bẻ ngửa xuống, nửa người trên treo ngược trên mạn thuyền hướng ra biển, áo gấm hoa lệ dày nặng tung bay như đang múa.
Hải Thị mở mắt, thế giới vùn vụt đảo lộn, biển xanh mênh mông như bầu trời treo trên đỉnh đầu, cuộn trào mãnh liệt như có thể đổ ập xuống bất cứ lúc nào.
Từ bờ môi nhợt nhạt của nàng gợi lên một nụ cười nhạt nhòa mà bướng bỉnh, thấp giọng nói: “Ngươi không hiểu được đâu.”
Nàng cắn môi dưới.
Một dòng máu chói mắt từ khóe miệng chảy dọc theo gò má, uốn lượn xuống dưới.
Nàng nhắm mắt với thần sắc cơ hồ là dịu dàng, để dòng máu mảnh mai trượt qua mi mắt đóng chặt, thấm vào tóc mai, tụ thành giọt trên đuôi tóc, treo rủ, rồi tựa một áng mây đỏ thẫm bé nhỏ tiêu tan không một dấu vết.
Trong tiếng sóng tựa hồ dậy lên âm vọng trong vắt.
“Trong Giao Hải có gì, quý tộc hoàng gia các người sẽ không bao giờ biết được đâu.” Hải Thị một lần nữa mở mắt, dấu vết trên mặt như nước mắt đỏ ngầu, diễm lệ ma quái, “Tin đồn lưu truyền trong đế đô tuyệt chẳng phải tin vịt – chúng sắp tới rồi.”
Dưới đại dương xanh lam bát ngát, có thứ gì đang bị mùi máu tanh đánh thức.
Trên sàn thuyền vang lên một trận rào rào, giữa dao động nhấp nhô của thân thuyền, có ngọc trai lăn lóc đụng vào mạn thuyền.
Đó là lệ của Lang Hoàn.
Trong con ngươi xanh trong của nàng giao nhân ấy như chứa đựng mặt nước mênh mông, lặng lẽ phản chiếu bức tranh nhân gian khói lửa bốn bề.
Mà nàng thì đã nghe thấy tiếng trào dâng từ nơi sâu thẳm đang dần đến gần dưới sóng biếc yên ả.
Thuỷ triều biển người, thời tiết đổi thay.
Bát hoang tứ cực, thời gian tuần hoàn.
Chỉ có khoảnh khắc trước khi cái chết cuồng bạo giáng xuống này, gió mặn thổi phất vết thương, gợi cơn đau ngứa châm chích lâm râm, như xuyên thủng vết chai cứng ngắc, khiến Hải Thị cảm nhận được rõ ràng hơn bao giờ hết là mình còn sống.
Trong chớp mắt, nàng nhoẻn cười như một đứa trẻ không sợ không lo.
Có lẽ đã chẳng kịp cứu vãn tòa lâu đài sập đổ này nữa rồi, cũng có lẽ, chàng đã xuống suối vàng trước nàng một bước.
Nhưng ít nhất nàng cũng có thể làm được cho chàng một chuyện cuối cùng.
Sau đó nàng sẽ nhắm mắt lại, buông bỏ tất thảy cố chấp và đấu tranh, mãi mãi yên giấc dưới biển sâu – nàng mệt mỏi lắm rồi.
Chàng là vết thương quanh năm không thể khép lại trong lồng ngực nàng, không chết đi không thể chữa lành.
Tiếng vang khổng lồ như tiếng sấm xa dậy lên từ chân trời, sóng dữ dâng từ bốn bề vây lại, trong đầu sóng như núi tuyết có thân hình to lớn màu thép xanh xẻ nước nhảy ra.
Long cốt thuyền rồng dài mười tám trượng răng rắc gãy lìa thành hai nửa trước sau, cột buồm bị sóng đè gãy như cây ngải, vô số vây lưng rợp trời xé toang mặt nước, dưới bọt nước trắng xóa quay cuồng dòng đỏ hỗn loạn.
Tiếng than khóc nhỏ bé của loài người chìm nghỉm trong ba đào.
Nàng như một chiếc lá bị ném thật cao lên trời rồi rơi xuống biển với tốc độ chóng mặt.
Mặt biển xanh đục như bầu trời của một thế giới khác, ván thuyền đứt gãy và chân què tay cụt của con người điên cuồng xoay tròn trong hải lưu.
Bóng hình to lớn qua lại ngang dọc, nàng cơ hồ sắp bị dòng nước xé tan.
Chuỗi ngọc.
Ngọc bội.
Gấm vóc trải bày.
Chén vàng thất bảo hoa văn cầu long, đao kiếm của người hà lạc.
Mọi cẩm tú phồn hoa đều chìm sâu xuống lòng biển vô tận.
Hải Thị mỉm cười, ho ra một chuỗi bong bóng nhỏ.
Chính nàng lại chẳng phải một nhân vật sứt sẹo trong vở kịch phồn hoa đó ư? Chẳng bằng cũng chìm đi thôi.
Từ nay an nghỉ dưới đáy biển, trọn đời không thấy ánh mặt trời, sống cùng hàu trai, được bao quanh trong san hô hải tảo.
Nàng nhắm mắt, chìm xuống nghĩa địa tịch mịch ấy.
Trong hỗn loạn, một đôi tay mảnh khảnh kiên định quấn lấy nàng.
Hải Thị mở mắt, trong tầm mắt dần trở nên mơ hồ, nàng trông thấy khuôn mặt khẩn thiết của Lang Hoàn.
Lang Hoàn, để tôi đi đi.
Hải Thị mở cánh môi trắng bệch, cách dòng nước hỗn loạn, mấp máy khẩu hình với giao nhân.
Lang Hoàn nôn nóng lắc đầu, đưa tay phủ lên bụng nàng.
Ánh sáng trắng trong bàn tay nàng khuếch trương, bao bọc cơ thể Hải Thị.
Trong trung tâm vầng sáng êm dịu có một bào thai cuộn tròn bé bỏng, yếu ớt như một con cá bột trong suốt.
Lệ nóng tràn ra hốc mắt, tiêu tan trong nước biển lạnh băng.
Nàng dần không còn nhìn thấy bầu trời xanh đục kia nữa.
Hôm ấy, tám ngàn cấm quân chờ trên bờ biển thề thốt rằng họ đã trông thấy thần đuôi rồng.
Thần đuôi rồng có mái tóc xoăn xanh trong diễm lệ, màng ngón lam óng như vải sa, trong mắt ngậm ánh châu bảy sắc, tựa xoáy nước khó lường chốn lòng biển sâu nhất.
Nàng cưỡi cá mập rẽ sóng đi tới, trả lại Hộc Châu phu nhân về nhân gian.
Hơn mười ngày sau, sóng biển đánh vài mảnh xác vụn của thuyền rồng lên bãi cát.
Tháng Mười năm ấy, Chử Duy Doãn, đứa con sót lại của Đế Húc giáng sinh, tháng Mười một lên ngôi, xưng Đế Doãn, cải nguyên Cảnh Hành.
Thuần Dung phi Phương thị sắc phong thái hậu, nhiếp chính hai mươi hai năm.
Cảnh Hành năm thứ nhất, hai bộ Tả Hữu Bồ Đôn Hộc Khố thôn tính bộ Bà Đa Na, bộ Kì Đóa Lí, bốn bộ hợp nhất, Ngạch Nhĩ Tề lên ngôi vương Hộc Khố.
Cùng năm, Ngạch Nhĩ Tề đột tử, Đoạt Hãn đăng cơ.
Cảnh Hành năm thứ ba, quận Li Lan nổi loạn, nửa tháng dẹp yên.
Cảnh Hành năm thứ tư, Hộc Khố xâm lăng Già Mãn..