Chúng tôi không hát bài đó nữa, cha và tôi, thậm chí cũng chẳng nhắc đến. Sau khi cha mất, bài hát ấy thường trở đi trở lại trong tôi. Lớn hơn, tôi dần hiểu ca từ của nó. Đoạn đầu nghe như một chàng trai cố rủ bạn gái hẹn hò bí mật lúc nửa đêm. Nhưng địa điểm hẹn lại rất kỳ quặc, cây treo cổ, nơi một người đàn ông bị treo cổ vì tội giết người. Người yêu của kẻ sát nhân chắc hẳn có liên quan tới vụ giết người, hoặc có thể đằng nào người ta cũng sắp trừng phạt cô, vì hồn ma của anh kêu gọi cô hãy chạy chốn. Rõ là quái đản, chỗ hồn ma biết nói ấy, nhưng đến đoạn ba mới gọi là sởn da gà. Ta nhận ra người hát bài hát này chính là kẻ sát nhân đã chết. Anh ta vẫn quanh quất bên cây treo cổ. Và dẫu có bảo người yêu tháo thân thì anh ta vẫn không ngừng hỏi cô có đến gặp mình không. Câu Cho tôi nhắn nhủ ‘Chạy đi để ta cùng tự do’ là câu rắc rối nhất vì ban đầu tưởng rằng anh ta đang nói về lúc bảo cô gái bỏ trốn, có lẽ là đến nơi an toàn. Nhưng sau ta lại tự hỏi có phải anh ta muốn bảo cô hãy chạy đến với mình không. Với cái chết. Ở khổ cuối, rõ ràng đó chính là điều anh ta chờ đợi. Người yêu chàng trai, cổ tròng dây thừng, treo lủng lẳng bên anh ta.
Tôi đã từng nghĩ tên sát nhân này là kẻ quái dị nhất mà ta có thể tưởng tượng ra. Giờ đây, sau khi trải qua hai kỳ Đấu trường Sinh tử, tôi quyết định sẽ không phán xét anh ta nếu không biết rõ hơn. Biết đâu người yêu anh ra bị kết án tử hình và anh ta chỉ cố khiến sự việc trở nên dễ chấp nhận hơn. Để cô biết rằng anh vẫn chờ đợi cô. Hoặc không chừng anh ta cho rằng nơi mình bỏ cô lại còn tệ hơn cả cái chết. Chẳng phải tôi từng muốn tiêm chết Peeta để cứu cậu ta khỏi bàn tay của Capitol sao? Đó có thực là lựa chọn duy nhất của tôi không? Có lẽ là không, nhưng lúc đó tôi chẳng thế nghĩ ra cách nào khác.
Dù vậy tôi đoán rằng mẹ nghĩ toàn bộ chuyện này quá phức tạp với một đứa bé bảy tuổi. Nhất là đứa tự làm cho mình cái vòng bằng dây thừng. Không phải chi tiết treo cổ chỉ xảy ra trong câu chuyện. Biết bao người dân ở Quận 12 đã bị hành hình theo cách đó. Chắn chắn mẹ không muốn tôi hát to bài này trong tiết nhạc. Có lẽ mẹ cũng chẳng muốn tôi làm thế ở đây, thậm chí vì Pollux, nhưng ít ra tôi không –khoan đã, không, tôi sai rồi. Khi liếc sang hai bên, tôi thấy Castor đang ghi hình mình. Ai nấy đều đang nhìn tôi chăm chú. Pollux thì ròng ròng nước mắt vì hẳn nhiên bài hát kỳ dị của tôi đã khơi lại một câu chuyện kinh hoàng nào đó trong đời anh. Đã tuyệt chưa? Tôi thở dài, tựa vào thân cây. Rồi chính lúc đó, lũ chim húng nhại bắt đầu biểu diễn bài “Cây Treo cổ”. Bài hát cất lên từ miệng chúng nghe thật đẹp. Nhận ra mình đang bị ghi hình, tôi đứng im, cho đến khi Cressida hô, “Cắt!”
Plutarch từ bên kia bước đến chỗ tôi, cười tươi rói. “Cô lấy ý tưởng này từ đâu ra vậy? Nếu chúng ta dựng đoạn phim này thì sẽ chẳng ai tin nổi cho xem.” Ông choàng tay quanh người tôi và hôn đánh choách lên đỉnh đầu tôi. “Cô thật đáng giá!”
“Tôi không làm thế để quay phim,” tôi nói.
“Thế thì thật may là các máy quay đang bật,” ông đáp. “Nào mọi người, quay về thôi!”
Trên đường lê bước trở ra khỏi rừng, chúng tôi đến chỗ một tảng đá, và cả tôi lẫn Gale đều quay đầu về cùng một hướng như đôi chó đánh hơi thấy mùi trong gió. Cressida nhận ra bèn hỏi phía đó có gì. Chúng tôi thú nhận, mà không nhìn nhau, rằng đó là điểm hẹn săn bắn của hai đứa. Chị muốn xem nơi đó, kể cả sau khi chúng tôi nói rằng chỗ ấy chẳng có gì hay ho cả.
Chẳng có gì ngoài chuyện là nơi khiến tôi hạnh phúc, tôi thầm nghĩ.
Gờ đá nhìn xuống một thung lũng. Có lẽ kém xanh tươi hơn mọi khi, nhưng những bụi mâm xôi thì trĩu quả. Nơi đây là khởi điểm của những ngày bất tận cùng nhau săn bắn và đặt bẫy, câu cá và hái lượm, rong chơi khắp rừng, thổ lộ mọi tâm tình khi chất đầy túi săn. Đó là ngưỡng cửa dẫn tới sinh kế và cả sự sáng suốt. Và chúng tôi là chìa khóa của nhau.
Giờ chẳng còn Quận 12 để mà chạy trốn nữa, không còn Trị an viên nào để ta phải giở mánh đối phó, cũng chẳng còn cái miệng đói ăn nào tiếp tế. Capitol đã lấy đi tất cả những thứ đó, và tôi cũng sắp mất cả Gale. Nhu cầu chung từng là chất keo kết dính hai đứa tôi ngần ấy năm đang dần tan chảy. Những trắc trở thực sự, không phải vụn vặt, chắn giữa chúng tôi. Nông nỗi nào mà hôm nay, dù đối mặt với tổn thất nặng nề của Quận 12, chúng tôi vẫn giận dữ đến mức chẳng thể mở miệng nói với nhau?
Gale nói dối tôi cũng thật tài. Đây là điều không thể chấp nhận được, dù anh làm thế vì lợi ích của tôi. Dẫu vậy lời xin lỗi của anh có vẻ thật lòng. Thế mà tôi lại ném trả vào mặt anh kèm theo lời sỉ nhục để chắc chắn làm anh tổn thương. Chuyện gì đang xảy ra với chúng tôi vậy? Tại sao giờ đây lúc nào chúng tôi cũng đối địch nhau? Thật đúng là mớ bòng bong, nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác nếu mình lần lại cội rễ của vấn đề thì cốt lõi chính là hành động của tôi. Tôi có thực muốn xua đuổi anh không?
Tôi nắm trái mâm xôi ngắt khỏi cuống. Nhẹ nhàng vê nó giữa ngón trỏ và ngón cái. Rồi đột nhiên tôi quay sang ném nó về phía anh. “Và chúc cho may mắn...” tôi bỏ lửng. Tôi ném nó lên cao để anh có nhiều thời gian quyết định xem sẽ hất nó sang bên hay đón lấy.
Mắt Gale chĩa vào tôi, không phải trái mâm xôi, nhưng vào giây phút cuối cùng, anh há miệng ra đỡ trọn. Anh nhai rồi nuốt, ngừng hồi lâu mới nói “...sẽ luôn mỉm cười với bạn.” Ít nhất anh cũng có nói.
Cressida bảo chúng tôi ngồi trong góc thụt của tảng đá, cái chỗ không thể nào không gây xúc động được, và dụ chúng tôi nói về săn bắn. Điều gì đã thúc đẩy chúng tôi vào rừng, chúng tôi gặp nhau thế nào, những khoảnh khắc yêu thích nhất. Chúng tôi bớt dè dặt hơn, bắt đầu cười chút ít khi kể về những lần gặp tai nạn với lũ ong, chó hoang và chồn hôi. Khi cuộc nói chuyện lái sang việc chúng tôi cảm thấy như thế nào khi thế hiện kỹ năng sử dụng vũ khí trong trận đánh bom ở Quận 8 thì tôi ngưng bặt. Gale chỉ nói, “Lẽ ra phải làm từ lâu rồi.”
Đến khi chúng tôi tới quảng trường thị trấn thì chiều đã ngả hẳn về tối. Tôi dẫn Cressida tới tiệm bánh đổ nát bảo chị quay một thước phim. Thứ cảm xúc duy nhất tôi có thể gom góp lại chỉ là sự rã rời. “Peeta à, đây là nhà cậu. Không ai nghe tin gì về gia đình cậu từ sau vụ đánh bom. Quận 12 mất rồi. Thế mà cậu lại kêu gọi đình chiến ư?” Tôi liếc quanh bốn bề trống rỗng. “Ở đây chẳng còn lại ai để nghe cậu nói đâu.”
Khi chúng tôi đứng trước đống kim loại xưa là giá treo cổ, Cressida hỏi có ai trong chúng tôi từng bị tra tấn hay không. Thay cho câu trả lời, Gale cởi áo sơ mi ra quay lưng lại ống kính. Tôi chằm chằm nhìn những vết sẹo do roi vọt để lại, trong tai lại vang lên tiếng roi quất phần phật, thấy hình hài đẫm máu của anh bị trói cổ tay lủng lẳng, bất tỉnh nhân sự.
“Thôi xong rồi,” tôi tuyên bố. “Tôi sẽ gặp mọi người ở Làng Chiến thắng. Thứ gì đó... cho mẹ tôi.”
Có lẽ tôi đã đi bộ đến đây, nhưng đến khi ý thức của tôi quay trở lại thì tôi đã thấy mình đang ngồi trên sàn trước tủ bếp ở ngôi nhà nơi Làng Chiến thắng. Cẩn thận xếp những chiếc bình gốm và lọ thủy tinh vào hộp. Nhét băng bông sạch vào giữa để tránh vỡ. Gói hàng bó hoa khô.
Thốt nhiên tôi nhớ ra bông hồng trên bàn phấn. Liệu nó có thật không? Nếu thật thì nó còn ở đó chứ? Tôi cố cưỡng lại thôi thúc đi kiểm tra. Nếu nó còn đấy thì chỉ khiến nỗi sợ hãi cứ trở đi trở lại trong tôi thôi. Tôi cập rập gói đồ.
Khi các ngăn tủ đã trống trơn, tôi đứng lên thấy Gale đã vào bếp từ lúc nào. Thật bực mình vì anh lại xuất hiện êm ru như thế. Anh cúi xuống bàn, ngón tay choãi rộng trên thớ gỗ. Tôi đặt chiếc hộp giữa hai đứa. “Nhớ không?” anh hỏi. “Đây là nơi em đã hôn anh.”
Hóa ra lượng ma phiện liều cao tiêm cho anh sau trận đòn roi không đủ mạnh để xóa nhòa điều đó khỏi nhận thức của anh. “Em tưởng anh không nhớ,” tôi nói.
“Đến chết mới quên được. Có khi tới lúc ấy cũng không,” anh bảo tôi. “Có lẽ anh sẽ giống người đàn ông trong ‘Cây Treo cổ’. Vẫn chờ đợi câu trả lời.” Gale, người mà tôi chưa từng thấy nhỏ lệ bao giờ, đang ngân ngấn nước mắt. Để ngăn lệ trào, tôi bước tới áp môi trên môi anh. Chúng tôi nếm thấy hơi nóng, tro tàn, cùng mùi khổ hạnh. Một hương vị đáng ngỡ ngàng cho nụ hôn dịu nhẹ nhường ấy. Anh rứt ra trước, đoạn gượng cười. “Anh đã biết thế nào em cũng hôn anh mà.”
“Tại sao?”
“Vì anh đang đau đớn,” anh đáp. “Đó là cách duy nhất khiến em chú ý đến anh.” Anh bê chiếc hộp lên. “Đừng lo, Katniss. Rồi sẽ qua thôi.” Anh rời đi không cho tôi kịp trả lời.
Tôi quá rệu rã không biết phải đối phó ra sao với pha chớp nhoáng vừa rồi của Gale. Suốt chuyến bay ngắn trở về Quận 13 tôi chỉ cuộn tròn trên ghế, cố tảng lờ Plutarch đang thao thao bất tuyệt về một trong những chủ đề yêu thích – những thứ vũ khí không còn có sẵn cho nhân loại tùy nghi sử dụng nữa. Máy bay tầm cao, vệ tinh quân sự, máy nghiền tế bào, máy bay không người lái, vũ khí sinh học có hạn sử dụng. Bị xóa sổ do bầu khí quyển bị hủy hoại, thiếu tài nguyên hay trái đạo đức. Có thể nghe thấy nỗi nuối tiếc của vị Trưởng Ban Tổ chức Đấu trường Sinh tử, giờ ngài chỉ biết mơ về những món đồ chơi đó và đành chấp nhận tàu bay với tên lửa mặt đất với mấy khẩu súng cũ đơn giản.
Sau khi trút bỏ bộ đồ Húng nhại, tôi đi thẳng về giường không thiết ăn uống. Thế mà Prim vẫn lay tôi dậy sáng hôm sau. Ăn sáng xong, tôi không đếm xỉa gì đến thời gian biểu mà lại chợp mắt trong tủ dụng cụ. Ngủ dậy, lồm cồm bò ra giữa đống hộp phấn và bút chì lỉnh kỉnh thì đã đến giờ ăn tối. Tôi dùng một suất xúp đậu cỡ đại và đang được dẫn trở về Phòng E thì bị Boggs chặn lại.
“Có cuộc họp ở Bộ Tư lệnh. Bỏ qua thời gian biểu hôm nay của cháu đi,” ông nói.
“Rõ,” tôi đáp.
“Hôm nay cháu có tuân theo thời gian biểu tí nào không đấy,” ông hỏi vẻ bực bội.
“Ai mà biết được? Cháu bị rối loạn tinh thần mà.” Tôi giơ cổ tay lên định cho ông xem chiếc vòng y tế thì nhận ra nó đã biến mất. “Thấy chưa? Cháu còn chả nhớ là người ta đã lấy chiếc vòng. Sao họ lại muốn cháu đến Bộ Tư lệnh nhỉ? Cháu có bỏ lỡ gì không?”
“Chắc là Cressida muốn cho cháu xem ĐTT Quận 12. Nhưng ta đoán rồi cháu cũng sẽ xem khi nào phát sóng thôi,” ông đáp.
“Thế nên cháu mới cần thời gian biểu. Khi ĐTT lên sóng ấy,” ông nói. Ông quắc mắt nhìn tôi nhưng không nhận xét gì thêm.
Mọi người đã ngồi kín Bộ Tư lệnh, nhưng vẫn dành cho tôi một chỗ giữa Finnick và Plutarch. Màn hình đã hiện lên bàn, trưng ra đường dẫn quen thuộc tới kênh Capitol.
“Chuyện gì vậy? Không phải chúng ta sắp xem ĐTT Quận 12 sao?” tôi hỏi.
“Ôi, không,” Plutarch nói. “Ý tôi là, chắc thế. Tôi không biết rõ Beetee định sử dụng cảnh nào.”
“Beetee cho rằng ông ấy đã tìm ra cách đột nhập vào đường dẫn toàn quốc,” Finnick lên tiếng. “Để ĐTT của chúng ta cũng sẽ lên sóng Capitol. Hiện ông ấy đang nghiên cứu dưới Ban Phòng thủ Đặc biệt. Tối nay sẽ có chương trình trực tiếp. Snow sẽ xuất hiện hay sao đó. Có lẽ bắt đầu rồi đây.”
Dấu triện Capitol hiện ra, được tăng cường hiệu quả bởi bài quốc ca. Rồi tôi chằm chằm nhìn thẳng vào cặp mắt rắn của Tổng thống Snow khi ông ta chào hỏi quốc dân. Ông ta có vẻ bị bao bọc kín sau chiếc bục, nhưng vẫn trông thấy trọn vẹn bông hồng trắng trên ve áo. Máy quay chĩa sang hướng khác thu cảnh Peeta ngồi một bên trước tấm bản đồ Panem được phát bằng máy chiếu. Cậu ngồi trên ghế treo, chân đặt trên thanh ngang kim loại. Chiếc chân giả của cậu gõ gõ theo nhịp kỳ quặc bất thường. Những giọt mồ hôi lấm tấm xuyên qua lớp phấn nơi môi và trán cậu. Nhưng chính ánh mắt cậu – giận dữ nhưng thiếu tập trung – mới là thứ khiến tôi sợ hãi nhất.
“Cậu ấy tàn tạ hơn rồi,” tôi thì thầm. Finnick nắm chặt tay tôi cho tôi chỗ bấu víu, còn tôi cố gắng bám riết lấy.
Peeta não nề cất tiếng về sự cấp thiết của việc đình chiến. Cậu nhấn mạnh những tổn thất đối với cơ sở hạ tầng chủ chốt ở nhiều quận, và trong khi cậu nói, một số phần trên bảng đồ sáng lên cho thấy những hình ảnh tàn phá. Một con đập bị vỡ ở Quận 7. Một đoàn tàu bị trật bánh khiến nước thải độc hại tràn lênh láng khỏi toa chứa hàng. Một kho thóc sụm nát sau vụ cháy. Tất cả những thiệt hại này cậu đều quy cho hành động nổi loạn.
Bùm! Không hề báo trước, tôi thình lình xuất hiện trên màn hình ti vi, đứng trước tiệm bánh đổ nát.
Plutarch nhảy cẫng lên. “Ông ấy làm được rồi! Beetee đột nhập được rồi.”
Mọi người trong phòng đang lao xao phản ứng thì Peeta xuất hiện trở lại, vẻ sao nhãng. Cậu đã thấy tôi trên màn hình. Cậu cố tiếp tục bài diễn văn bằng cách chuyển sang nói về vụ đánh bom nhà máy lọc nước thì bị một cảnh phim ngắn có cảnh Finnick nói về Rue chen vào. Rồi tất cả thành một trận chiến truyền thông khi các chuyên gia kỹ thuật của Capitol cố ngăn chặn đòn tấn công của Beetee. Nhưng họ đã bị phủ đầu, còn Beetee, hình như đã dự đoán rằng mình sẽ không thể nắm thế kiểm soát, thì có cả một kho vũ khí gồm những đoạn phim ngắn dài từ năm tới mười giây để xoay xở. Chúng tôi chứng kiến bài phát biểu chính thức chìm dần khi từ ĐTT phóng ra tới tấp cách chọn lựa.
Plutarch bừng bừng phấn khích và hầu hết mọi người đều chúc mừng Beetee, nhưng Finnick vẫn đứng lặng người bên tôi. Tôi bắt gặp ánh mắt của Haymitch ở bên kia phòng, và nhìn thấy vẻ khiếp đảm của mình đang được phản chiếu trong đó. Cái vẻ ngộ ra rằng với mỗi lời chúng mừng thì Peeta lại tuột xa hơn khỏi tay của chúng tôi.
Dấu triện Capitol xuất hiện trở lại, kèm theo giọng thu âm đều đều. Nó kéo dài chừng hai mươi giây thì Snow và Peeta quay lại màn hình. Cảnh tượng thật rối loạn. Chúng tôi nghe thấy những lời trao đổi nhốn nháo từ các ca bin của họ. Snow nhoài ra trước, rành rọt nói rằng phiến quân đang tìm cách cản trở việc truyền bá những thông tin buộc tội họ, nhưng sự thật và công lý sẽ lên ngôi. Toàn bộ buổi phát sóng được chiếu lại sau khi tình hình an ninh vãn hồi. Ông ta hỏi Peeta xem trong màn thể hiện tối nay như vậy, cậu có muốn nói lời chào tạm biệt nào với Katniss Everdeen không.
Nghe nhắc đến tên tôi, Peeta gồng mình đến rúm ró mặt mày. “Katniss à… cậu nghĩ chuyện này sẽ kết thúc thế nào đây? Sẽ còn lại những gì? Không ai được an toàn hết. Cả ở Capitol. Cả ở các quận. Còn cậu... ở Quận 13...” Cậu hít mạnh vào, như thể cố hớp không khí, cặp mắt trông hoảng loạn. “Sáng mai là chết!”
Đằng sau ống kính, Snow ra lệnh, “Kết thúc đi!” Beetee đẩy tất cả vào mớ hỗn loạn bằng cách cứ ba giây một lần cho phát nhanh một cảnh tĩnh với hình ảnh tôi đứng trước bệnh viện. Nhưng giữa những hình ảnh đó, riêng chúng tôi được biết hành động thật đang diễn ra tại hiện trường. Peeta nỗ lực nói tiếp. Máy quay chĩa xuống sàn gạch trắng tinh. Những đôi giày hỗn loạn. Lực của cú đấm giáng xuống đi liền với tiếng thét đau đớn của Peeta.
Và rồi máu của cậu văng tung tóe ra sàn gạch.