Sườn Tịch Tà trúng kiếm tuy hung hiểm nhưng bởi vì không tổn thương tới nội tạng, chỉ dưỡng thương trên giường một ngày là có thể xuống giường đi lại cho nên chưa theo Hồng Định Quốc cùng vào kinh, không phải vết thương nghiêm trọng gì.
Ngày ấy hắn mò được Lý Trình từ trong con thuyền chìm rồi được Lý Song Thực đón lên trên thuyền, nhìn bốn phía chung quanh, không thấy một bóng người.
“Lý Sư đâu?” Hắn giữ chặt vết thương trên ngực, chất vấn Lê Xán.
Lê Xán cũng ngẩn ra, “Không trông thấy, tôi đi ra từ trong khoang thuyền, bên ngoài chỉ còn lại ba người nhưng không thấy y”.
“Chỉ sợ là đã rơi xuống nước rồi”.
Lý Song Thực nói.
Tịch Tà vịn mép thuyền, nhìn nước sông nhíu mày, “Y là người Bạch Dương, chưa chắc đã biết bơi”.
Lúc bấy mọi người mới hoảng loạn cầm gậy trúc mò người, Tịch Tà hối hả băng bó qua chỗ đau rồi cũng đứng ở đầu thuyền không ngừng nhìn ra giữa giữa sông.
Mãi đến lúc máu tươi từ ngực rỉ ra đầm đìa mới thấy mê man.
Khương Phóng dùng thuyền qua đây, thấy thế tất nhiên là đau lòng trách móc một trận, không cho phân trần mà đón hắn về chỗ của thủy quân ở Thượng Giang.
Lê Xán đã tự lĩnh người hộ tống Hồng Định Quốc đi trước.
Chiến thuyền của thủy quân trên mặt sông và vài con thuyền qua lại của cục Thừa Vận đều bận rộn lạ thường, mò tới đêm vẫn không có tin tức của Lý Sư.
“Sống phải thấy người, chết phải thấy xác”.
Tịch Tà cắn răng nói, “Đợi có tung tích của y thì tôi lại về kinh”.
Khương Phóng không vui nói: “Không phải ban đầu gia đã không thích người này rồi ư? Nhiều chuyện lớn như vậy để đó không làm, chỉ đợi một cỗ thi thể, gia thật kỳ lạ”.
“Cho dù khiến người ta ghét nhưng chết như vậy cũng đáng tiếc”.
Tịch Tà nói: “Y rơi xuống nước không lâu thì bắt đầu mò, nước chỗ này lại không xiết, nửa ngày vẫn không thấy bóng dáng thì sao không ra bờ xem thử”.
Khương Phóng gật đầu lia lịa, “Rất có lý, giờ tôi sẽ dặn cấm quân Thượng Giang tìm kiếm ở hai bờ sông”.
Nửa đêm Tịch Tà bị Khương Phóng đánh thức, báo cho biết đã tìm được Lý Sư, bình yên vô sự, chỉ uống mấy ngụm nước thôi.
“Vậy thì khởi hành về kinh đi”.
Tịch Tà khoác quần áo đứng dậy.
“Có cần gặp Lý Sư hỏi không?”
Tịch Tà mỉm cười, trông có vẻ hứng thú hơn đối với thi thể của Lý Sư, “Nếu đã biết không sao thì không gặp nữa, bảo y về chỗ của Lê Xán ở kinh doanh, rồi sẽ có thời cơ để hỏi thôi”.
Hôm sau Tịch Tà đến kinh thành, hoàng đế đã ban bố chiếu thư thân chinh.
Bên ngoài cửa Tử Nam bố trí đội nhạc, sau khi chiếu thư được đóng dấu, hiệu úy nâng lên đi ra ngoài cửa Tử Nam dưới đám mây hình lọng che, Lưu Viễn vừa ngâm thơ khen ngợi trước mặt mọi người vừa không ngừng nghẹn ngào, cứ như đương kim đã băng hà.
Hoàng đế ngự trên ngai báu của điện Thanh Hòa nghe người ta tấu lại thì tất nhiên cực kỳ tức giận.
Nếu hoàng đế đã ban bố chiếu thư thì tất nhiên quần thần không thể tranh luận được nữa.
Song chúng thần lại hết sức hoang mang về hai ý chỉ muốn viết sau đó.
Hoàng đế không nói rõ chuyện Thành Thân vương giám quốc, bảo Giám Khâm Thiên chọn ngày tốt xuất chinh mà lại nói về hai việc nhỏ.
Một, lang trung bộ Lễ là Đỗ Dự phụng lệnh điều làm đồng tri[1] phủ Việt Hải ở Long Môn.
Thứ hai, yêu cầu Trịnh Bích Đức tuyển chọn ba mươi thị vệ cửa Càn Thanh, chuẩn bị theo giá lên bắc.
Khâm định trước một người tên Úc Tri Thu.
“Hoàng thượng có ý gì?” Hoắc Viêm đang muốn viết chỉ, thấy Thành Thân vương thì hỏi.
“Viết ý chỉ cho Đỗ Dự kia không sao cả, ý chỉ cho Úc Tri Thu thì chờ một lát”.
“Phủ Việt Hải? Sao tôi còn chưa từng nghe nói đến?”
“Nó ở phía nam của Long Môn, hoang vu hẻo lánh, đầy chướng khí, người Miêu ngang ngược làm loạn, đúng là một chỗ tốt”.
“Thế chẳng phải là…” Hoắc Viêm lấy làm kinh hãi, thấy bốn phía không người mới thấp giọng hỏi, “Thể chẳng phải là biếm truất rồi sao? Quan trong kinh nhiều như vậy, hoàng thượng cũng chưa chắc đã quen người này”.
Thành Thân vương cúi xuống bên tai anh ta, cười nói như gió mát: “Mẫu đơn trắng…”
Hoắc Viêm chợt tỉnh ngộ.
Một câu xu nịnh tự cho là đúng của Đỗ Dự lại chạm ngay kiêng kỵ của Tịch Tà, chỉ sợ hoàng đế nghe ra ý châm chọc khiến mặt rồng tức giận.
Thành Thân vương cười, “Hiểu rõ trong lòng là được rồi.
Người nọ không rõ sống chết, không cần bàn về hắn nữa”.
Y nhẹ nhàng đi vào, tìm đến Lý Cập hỏi, Lý Cập thần bí nhìn hai bên rồi đáp: “Vương gia đoán không sai.
Tịch Tà lập công lớn, hoàng thượng hỏi hắn muốn ban thưởng gì, hắn đã xin hai ý chỉ này”.
Nếu một ý chỉ trong đó đã biếm truất Đỗ Dự thì một ý chỉ khác dù nhìn qua thì không hề liên quan nhưng cũng không thấy là ý tốt.
“Vẫn là tin tức của ông nhanh nhạy”.
Thành Thân vương than thở, đưa ngân phiếu, “Làm cho tốt việc của ngươi đi”.
“Vương gia”.
Lý Cập cất ngân phiếu xong liền nói, “Hoàng thượng thân chinh thì tất nhiên thị vệ phải lên bắc theo, e là sẽ giao việc phòng thủ trong cung này vào tay Du Vân Dao, hoàng thượng đang định đặc cách thăng chức cho anh ta”.
“Vậy ư?” Thành Thân vương liếc mắt nhìn gã, “Việc này mà ngươi cũng biết?”.
“Hoàng thượng trọng dụng hai người đó, một người theo giá, một kẻ ở lại phòng thủ, không phải vừa vặn sao ạ?”
“Có ý chỉ cất nhắc Úc Tri Thu không?”
“Không ạ.
Nhưng hoàng thượng đã hỏi một câu, có cần cho một chức hàm không, Tịch Tà đáp chưa lập được một tấc công đã có ân điển thì sợ lời ong tiếng ve”.
“Nói không chừng thật sự muốn cho anh ta một cơ hội lập công thì sao?” Thành Thân vương hỏi.
“Chẳng qua chỉ là một trong ba mươi thị vệ bên cạnh, Trịnh Bích Đức ở phía trước, chắc Úc Tri Thu cũng không bước qua được”.
Lý Cập đĩnh đạc nói, cực kỳ đắc ý.
“Ôi!” Thành Thân vương thở dài, “So với Du Vân Dao thì đúng là trên trời dưới đất rồi”.
“Về đám thị vệ cửa Tử Nam này, chẳng phải vạn tuế gia đều nghe theo Tịch Tà ư?”.
Thành Thân vương cười to, “Nói không sai”.
“Vương gia đang vui vẻ gì thế?” Úc Tri Thu đã đi tới.
Thành Thân vương nháy mắt với Lý Cập, Lý Cập liền vội vàng vái chào rồi đi nhanh.
“Anh đã làm việc ở cửa Càn Thanh rồi à?” Thành Thân vương nói với vẻ mặt ôn hoà.
“Vâng.
Đợi hoàng thượng thân chinh, tất nhiên phải theo giá Bắc Phạt”.
Úc Tri Thu đã nghe được tin đồn, muốn lập công ở trước quân đội nên không khỏi có vẻ nóng lòng.
“Cũng là một kẻ không biết sống chết”.
Thành Thân vương không khỏi cảm thán.
“Vương gia?” Úc Tri Thu ngạc nhiên.
Thành Thân vương híp mắt mỉm cười, “Anh hãy thành thật nói cho ta biết, anh và Tịch Tà từng có va chạm à?”.
“Không ạ!” Úc Tri Thu sợ lui lại một bước, “Cớ sao vương gia lại nói thế? Đều là kẻ ra sức vì hoàng thượng, huống chi thần còn là thám hoa mà Tịch Tà chọn thay hoàng thượng…”.
“Vậy thì tốt”.
Thành Thân vương thở phào một hơi, “Nhưng nói cho anh biết, cùng là người hoàng thượng thích, Du Vân Dao sẽ thăng chức còn anh phải liều mạng ở tiền tuyến, tất cả đều là do một mình Tịch Tà định đoạt.
Trong đao thật giáo thật, vạn quân tung hoành, chỉ một câu nói của hắn cũng đủ để anh chết cả nghìn lần rồi”.
“Vương gia nhìn rõ mọi việc”.
Úc Tri Thu thấy không ổn bèn quỳ phịch xuống dưới chân Thành Thân vương, khuôn mặt trắng bệch run rẩy, túm góc bào của Thành Thân vương, “Vương gia cứu tôi!”.
“Chuyện này có gì khó đâu?” Thành Thân vương cúi người, siết cằm gã, không ngừng cười.
Úc Tri Thu rùng mình, triều đình và dân gian có nhiều tin đồn về Thành Thân vương, không khỏi vừa xấu hổ vừa giận dữ, không nói không rằng, cắn răng xoay mặt đi.
Thành Thân vương sa sầm mặt cười nhạt, hai tay nâng gò má của gã, nhìn chằm chằm vào mắt gã, “Nếu anh có can đảm và hiểu biết thì cứ ra tiền tuyến chịu chết.
Nếu như không có thì nói cho rõ đi”.
Ánh mặt trời nóng rát, Úc Tri Thu đầm đìa mồ hôi, lửa giận trong mắt từ từ biến mất, bất giác phun ra âm thanh yếu ớt: “Vương gia, xin để tôi bẩm riêng”.
Thành Thân vương thản nhiên thu tay về, “Tốt, chúng ta hàn huyên nào”.
***
Thời tiết nóng lên, lầu tránh nóng ở cầu Phiêu Hạ lại nườm nượp khách khứa, ông chủ không để ý tới khách khắp lầu mà đứng ở trước cửa không ngừng trông về hướng bắc.
“Ngài đang nhìn gì thế?” Tiểu Thuận Tử mặc thường phục đi tới bên cạnh ông ta.
“Ôi! Tiểu công công đến rồi à?” Ông chủ cười xòa nói, “Tôi nghe công công Tịch Tà sẽ cưỡi ngựa tới nên đang ngóng đây”.
“Thầy tôi không khỏe, ngài xem người trên thang lầu có nhiều không, đừng để đụng vào thầy tôi”.
Tiểu Thuận Tử vừa vén màn kiệu lên cho Tịch Tà vừa không ngừng dặn dò.
Quả nhiên thang lầu được chưởng quỹ dẹp đường, Tịch Tà đi lên mười bước, liên tục nói lời cảm ơn.
Trong phòng bao đã đặt trước, Lê Xán, Lý Sư và Lục Quá đều đã đến, đã uống rượu trước rồi.
Tịch Tà cười nói: “Đây là tiệc mừng công, sao không đợi tôi tới đã mở tiệc?”.
“Anh sao rồi?” Lý Sư nhảy dựng lên hỏi.
“Khá hơn nhiều rồi, chỉ là cử động tay vẫn chưa thuận tiện, cũng lười cử động.
Anh Lục là người tiếp khách của tôi, xin anh rót một lượt rượu thay tôi”.
Tất nhiên chủ đề của bữa tiệc là quá trình kiềm kẹp Hồng Định Quốc vào kinh, Lục Quá thở dài nói: “Thật nguy hiểm”.
“Nói hiểm thì cũng chưa đến mức”.
Tịch Tà bảo, “Chỉ là thủy quân Thượng Giang không ngờ thuyền của chúng ta nhanh vậy nên tiếp ứng muộn.
Anh thì sao?” Hắn hỏi Lý Sư, “Sao lại rơi xuống nước? Sáu người kia gộp lại cũng không phải đối thủ của anh, đã xảy ra biến cố gì sao?”.
“Còn có người thứ bảy.
Không xông lên từ chính diện”.
Lý Sư nói, “Tôi cảm thấy gã lặn ở dưới nước rồi lên thuyền, tóm lấy cổ tôi từ đằng sau, dùng…”
“Dao găm?” Tịch Tà chen lời.
“Làm sao anh biết?” Lý Sư kinh ngạc.
“Sau đó thì sao?”
“Tất nhiên là tôi tránh thoát trong chớp mắt.
Người nọ hơi ngẩn ra, xoay mình rồi rơi xuống sông”.
Lý Sư đỏ mặt, “Tôi uống phải mấy ngụm nước sông, tỉnh lại thì đang ở trên bờ”.
Y miêu tả qua loa, người khác tưởng tượng ra lại vô cùng sợ hãi, quá đỗi nguy hiểm.
Tiểu Thuận Tử cười châm biếm: “Vịt ở đất gò!”
Lý Sư hiện vẻ xấu hổ, thấp giọng lẩm bẩm, “Bạch Dương không nhiều sông hồ, không nhiều sông hồ”.
Tiểu Thuận Tử không thích Lý Sư gây họa, đương nhiên sẽ không bỏ qua cho y, nói lải nhải: “May mà thế nước ở Thượng Giang không xiết, nếu không cao thủ như anh mà chết chìm thật thì sông Ly phải dổi tên thành “sông Lý chìm” rồi”.
“Được rồi”.
Tịch Tà quát cậu, “Xem ra dưới trướng Lôi Kỳ Phong còn có một cao thủ, sau này phải cẩn thận”.
Lại uống mấy chén nữa, Lục Quá hỏi: “Hoàng thượng đã ban bố chiếu thư thân chinh, kinh doanh cũng phải lên bắc ư?”.
“Chỉ sợ phải xuất phát hết đấy.
Anh Lục, anh Lê thì tất nhiên không cần phải nói nữa, Lý Sư cũng đi với tôi đi”.
Lý Sư cả mừng, “Được được, cuối cùng cũng chờ được ngày này rồi”.
Lê Xán lười biếng dựa vào bên cạnh, “Không lâu trước đây còn nói tuy kinh doanh tinh nhưng ít có đất dụng võ.
Chỉ hai tháng thôi mà thời cuộc đã thay đổi nghiêng trời lệch đất rồi”.
“Chi bằng uống một chén, cầu chúc chúng ta chiến thắng trở về”.
Lục Quá giơ chén lên, mọi người đều tán thành, Tịch Tà cũng hiếm khi uống cạn một chén.
“Trước khi xuất phát kinh doanh sẽ cho nghỉ, có thân thích gì thì hãy đi lại đi”.
Tịch Tà liếc Lê Xán, “Người khó gặp mặt thì thôi”.
Lê Xán oán hận quay đầu đi, ngoài cửa sổ trời nước mênh mang, góc lưu ly xán lạn như thiên giới chính là lớp lớp cung điện của cung Thanh Hòa.
***
Tịch Tà về cung mới biết hoàng đế đã đổi ý, thị vệ trợ thủ ở lại phòng thủ Ly đô đã đổi thành Úc Tri Thu.
“Úc Tri Thu thành thạo bắn cung cưỡi ngựa, thiên về dã chiến, theo giá bắc phạt chính là cơ hội lập công”.
“Trẫm cũng nghĩ vậy”.
Hoàng đế không quá để tâm, “Nhưng Cảnh Nghi ở lại phòng thủ Ly đô, nó thích dùng ai thì dùng”.
“Vâng”.
“Gọi giám Khâm Thiên, Thành Thân vương và các thần vào đi”.
Hoàng đế nói.
Hôm nay sẽ quyết định ngày thân chinh, giám Khâm Thiên bẩm ngày tốt là mùng hai tháng Sáu, sau đó là ngày hai mươi tám tháng Sáu và ngày mười tháng Sáu nhuận.
“Trong tháng Năm không có à?” Hoàng đế hỏi.
“Trong tháng Năm chỉ có mùng sáu thôi ạ”.
“Dùng binh quý ở thần tốc, chuyện liên quan đến muôn dân trung nguyên, không thể chờ một mình trẫm.
Quyết mùng sáu đi.
Dặn bộ lễ, mặc dù không thể thiếu quy định tổ tông đặt ra nhưng hãy giản lược mọi thứ, thứ xa hoa lãng phí đều không cần, đi chuẩn bị đi”.
“Thế thì gấp quá ạ”.
Thành Thân vương khuyên nhủ, “Chi bằng để binh mã tập kết ở Lạc châu xuất phát trước, đại giá của hoàng thượng xuất phát vào tháng sáu?”.
“Quân Thành thì sao?” Hoàng đế hỏi ngược lại, “Hành dinh của hắn sẽ chờ chúng ta bày nghi trượng, khua chiêng gõ trống mới đến à?”.
“Thần thấy mùng sáu tháng Năm cũng tốt”.
Ông Trực nói, “Cờ xí mũ giáp đều có sẵn, đủ để kinh doanh nai nịt gọn gàng chờ xuất phát, vả lại đã qua tiết đoan ngọ rồi.
Mọi thứ trong triều đình có thể trì hoãn, chỉ có chiến sự là không thể chậm một giây”.
“Đúng thế.
Viết chỉ theo ý này đi”.
Hoàng đế hết sức hài lòng, “Tất cả giải tán”.
Thành Thân vương ở bên ngoài gọi Tịch Tà, nói: “Ta khuyên hoàng thượng đổi ý, để Úc Tri Thu ở lại.
Vừa nãy nghe nói hắn là do anh tiến cử, đáng ra nên thương lượng trước với anh mới phải”.
Tịch Tà đáp: “Sao vương gia lại nói vậy? Nô tì chỉ muốn hắn nhân cơ hội này lập công, không biết hắn là ái tướng của vương gia, có trọng trách khác.
Mạo muội rồi”.
“Đâu có!” Thành Thân vương kéo Tịch Tà cười bảo, “Đều là vì cất nhắc hắn, thế nào cũng được”.
Tịch Tà cũng cười, “Vương gia luôn chăm sóc cho người dưới, nô tì còn mong vương gia ngó đến, vương gia không được thiên vị đâu đấy”.
Những lời này bay đến theo cơn gió nhẹ, Thành Thân vương hơi lâng lâng.
“Sao lại thế được?” Y vội vàng đáp, “Người như hắn hòng một cuộc sống thái bình là đủ rồi, không có chí lớn gì, không tranh được với anh đâu”.
“Chuyện này thì chưa chắc đâu ạ”.
Tịch Tà khẽ than, “Hắn nhiều mưu kế lắm đấy, vương gia cứ chờ mà xem”.
Hai người đều thấu tỏ, đều hiểu ý án binh bất động rồi khách sáo chia tay.
Tịch Tà chỉ cảm thấy hơi có lỗi với Du Vân Dao, đành khuyên hoàng đế cho Du Vân Dao mười ngày nghỉ sau khi hạ chỉ.
Hắn không hề giấu Minh Châu nỗi phiền muộn của mình, thấy Tiểu Thuận Tử đi ra thì nói: “Lần này Úc Tri Thu lại cấu kết với Thành Thân vương, nghe giọng điệu của Thành Thân vương thì hình như không biết tình hình.
Chưa diệt tên Úc Tri Thu này, sớm muộn cũng sẽ thành họa lớn”.
Minh Châu gật đầu, lại bảo: “Nói thì nói vậy nhưng ngày hoàng đế thân chinh ngay trước mắt, dù thế nào thì trong kinh không thể có người chết được nữa”.
“Không cam lòng song không làm sao được”.
Tịch Tà không khỏi cười, “Tôi chưa từng đụng phải kẻ khó giải quyết như thế”.
Minh Châu cười rằng: “Nếu không phải tôi theo Lục gia lên bắc thì có thể giao kẻ này cho tôi”.
“Cái gì?” Tịch Tà giật mình, “Cô vừa nói muốn theo tôi lên bắc?”.
“Không được sao?” Minh Châu nghiêm túc nhìn chằm chằm Tịch Tà.
“Không được!” Tịch Tà quả quyết nói, “Quân pháp không cho nữ đi theo.
Thân phận của tôi thế nào, sao bảo vệ cô được?”.
“Tôi cải trang nam nhi, trà trộn trong đám thái giám thì ai biết?”
“Không cần nói nữa”.
Tịch Tà sa sầm mặt, “Thầy Tống đã khởi hành từ Đại Lý, giữa tháng sẽ đến Ly đô, đến lúc đó tôi báo cáo với hoàng đế, nghĩ bừa một lý do để cô rơi cung, cô ở bên cha mình thì tôi mới yên tâm”.
Minh Châu cả giận nói: “Vì sao không hỏi ý của tôi? Gia quen chuyên quyền độc đoán rồi, không cho tôi có chủ kiến”.
“Đây mà là chủ kiến? Một mình ở trong cung, nếu bị kẻ khác bắt giữ thì cô cảm thấy tôi sẽ lo cho cô mà nghe theo sự sắp xếp của chúng ư?”
“Tôi vốn không trông mong ngài sẽ lo cho tôi”.
Minh Châu cười nhạt, “Ai nói tôi không trở về bên cạnh cha thì sẽ ở lại trong cung? Tôi là kẻ nhất định sẽ nghe lời ngài, xoay quanh ngài hay sao?”.
Tịch Tà cười, “Đừng dỗi”.
Minh Châu liếc Tịch Tà rồi đứng dậy, phẩy tay áo bỏ đi không quay đầu lại.
Cái liếc này rất sâu sắc, Tịch Tà bỗng thấy mê man, ngỡ ngàng nhìn nàng ra khỏi sân.
Rõ ràng việc sắp xếp cho Minh Châu đã rất cấp bách, hôm sau Tịch Tà gặp hoàng đế, chỉ chờ thời cơ mở miệng cầu xin hoàng đế ban ân cho Minh Châu rời cung.
Không ngờ Lý Cập đã vào tâu trước: “Vạn tuế gia, thái hậu nương nương gọi Tịch Tà đến cung Từ Ninh ạ”.
“Chuyện gì thế?” Hoàng đế đứng lên hỏi, cũng có chút lo lắng, “Ngươi đi theo”.
Hoàng đế bảo Lý Cập, “Có chuyện gì thì mau trở lại báo”.
Bên cạnh thái hậu chỉ có Hồng Tư Ngôn, thấy Tịch Tà đã hành lễ xong, vẫn không nói một lời, hình như đang chờ ai đó.
Cung nữ ở bên ngoài kéo cửa ra, nữ quan quần áo lòa xòa quỳ gối ở bên Tịch Tà, dập đầu thưa: “Nô tì Minh Châu cung thỉnh thái hậu vạn phúc kim an”.
“Đứng lên hết đi”.
Thái hậu thở một hơi, “Ta biết đại khái chuyện trong cung, Minh Châu là người ngươi dẫn về từ Hàn châu, luôn qua lại gần gũi, đám nhỏ trong cung đáng thương một thân một mình vùng vẫy mà sống, muốn một chốn dựa dẫm, không có gì đáng trách cả”.
Minh Châu đỏ mặt cúi đầu không nói.
Hồng Tư Ngôn cười bảo: “Thái hậu nói khiến nàng xấu hổ rồi”.
“Xấu hổ cái gì?” Thái hậu kéo tay Minh Châu, “Đáng tiếc ta không sinh được con gái, từ lúc nó vừa vào cung đã rất thích rồi.
Nữ công của người trong cung nhờ nó dạy dỗ mà đã tiến bộ biết bao, con gái như vậy chơi với bọn con trai thì đáng tiếc quá”.
Hồng Tư Ngôn liếc Tịch Tà nói: “Thái hậu thích thì giữ lại cung Từ Ninh dùng đi ạ”.
“Cũng tốt, hôm nay hãy dọn tới, từ nay về sau ta sẽ thương yêu”.
“Ngươi yên tâm rồi chứ?” Hồng Tư Ngôn hỏi Tịch Tà.
“Thái hậu cất nhắc Minh Châu là phúc của nàng ấy, nô tì cũng mừng thay cho nàng”.
Tịch Tà né tránh câu hỏi của bà ta, thuận miệng nói cho có.
“Ngươi theo hoàng đế lên bắc phải cẩn thận hầu hạ, đừng để ta biết ngươi giở trò lười biếng”.
“Vâng”.
“Tạ ân đi”.
Hồng Tư Ngôn vui mừng hớn hở, không ngừng thúc giục.
Tịch Tà dập đầu rồi chậm rãi lui ra, Minh Châu cố chấp cúi đầu, không liếc hắn lấy một cái.
Thái hậu rất tinh mắt.
Tim Tịch Tà thắt lại, trống rỗng khó chịu khôn tả.
Mình thật sự có thể buông tay không lo cho nàng giống như lời nói như tối hôm qua ư? Dù sao cũng là Minh Châu đấy, dẫu không có đôi mắt sáng, đôi mày thanh tú ấy, chỉ cần chạm vào một cái thôi đã đau như chặt đứt tay mình rồi.
Nhưng đau tựa kiếm sắc xuyên tim thì có thể làm gì được? Lòng dạ được đúc từ máu tươi của mười người anh em ruột há lại để thái hậu khinh thường? Tịch Tà khẽ cười khẩy.
“Chuyện gì mà vui thế? Được ân điển à?” Lý Cập lại gần hỏi.
“Không có chuyện gì hết”.
Tịch Tà cất tiếng cười to ra khỏi cung Từ Ninh.
Ngày mùng một tháng Năm, hoàng đế bắt đầu đứng ngồi không yên, lật bản ghi chép của Nhan vương mà ánh mắt lại lơ lửng.
“Trong cung có ngôi chùa, khanh biết không?” Hoàng đế khép bản chép tay lại.
Tịch Tà suy nghĩ rồi thưa, “Phía sau vườn hoa Thọ Ninh đâu chỉ có một ngôi, có cả đạo quán nữa ạ”.
“Trẫm chưa bao giờ tới cả”.
Hoàng đế cười, “Hôm nay mùng một, đi xem đi”.
E sợ lời tà thuyết của sư vãi mê hoặc chủ nên gia pháp nhiều đời tổ tông đều không cho sư vãi hầu giá, cuối cùng biến thành không cho hoàng đế thăm chùa miếu.
Tịch Tà uyển chuyển nói: “Gần đây công việc bề bộn, hoàng thượng muốn yên tĩnh một lúc, tất nhiên không cần dẫn ai theo”.
“Chí phải”.
Hoàng đế cười nói, “Khanh theo là được”.
Tịch Tà truyền lời cho Cát Tường, lệnh cho người trên đường đều lảng tránh rồi hầu hoàng đế lặng lẽ đi tới nội đường đại phật sau vườn hoa Thọ Ninh.
Kẻ đi tu chăm nom hương khói ở chỗ này đều là hoạn quan già cả, lúc này đã lui ra thật xa.
Phật tổ mặt vàng điềm tĩnh trông xuống, khoan thai im ắng.
“Dâng hương”.
hoàng đế nói.
Tịch Tà thắp hương dâng lên lư hương, thấy hoàng đế chắp tay sau lưng ngửa mặt nhìn, ánh mắt trầm tĩnh, vẻ u sầu nơi khóe miệng càng rõ nét trong khói nhang.
“Khanh không cầu xin gì à?”
Tịch Tà mỉm cười đáp: “Có hoàng thượng ở đây là được rồi ạ, thứ khác đều là hư vô”.
“Khanh ung dung thoải mái ghê”.
Hoàng đế bật cười, “Trẫm thì có thể dựa vào ai được chứ?”.
Tịch Tà trỏ vào ngực mình thưa: “Dầu nô tì không thể san sẻ nỗi lo với vạn tuế gia nhưng trong tim có một lỗ hổng, phiền não không được chứa tất nhiên sẽ chảy ra ngoài.
Hoàng thượng nói gì, nô tì nghe xong đều bó tay”.
Bên ngoài Phật đường như có dăm ba cô gái dừng chân.
Hoàng đế nhíu mày, vẫy tay với Tịch Tà rồi núp mình sau màn trướng.
“Nô tì dâng hương thay nương nương”.
Giọng cung nữ kia lanh lảnh, hoàng đế thấy quen tai, hình như là người bên trong cung Tiêu Cát.
Quả nhiên nghe Mộ Từ Tư nói: “Không cần, để ta tự làm”.
Tiếng cung nữ phủi đệm quỳ, tiếng quần áo bước chân giao thoa, có chút náo nhiệt.
Đoạn yên tĩnh một hồi, chỉ có thể nghe thấy tiếng Mộ Từ Tư gảy phật châu.
“Phật tổ phù hộ hoàng thượng bắc phạt chiến thắng trở về”.
Mộ Từ Tư thầm tụng kinh Phật xong thì nhỏ giọng cầu phúc, sau đó lại im lặng lẽ một lát.
Hoàng đế cười, đang muốn đi ra ngoài thì Mộ Từ Tư lại run giọng nói tiếp: “Nếu như hoàng thượng có gì bất trắc thì xin Phật tổ thương xót, đừng để tôi biết, chỉ cầu có thể lìa bỏ cõi trần cô độc này trước hoàng thượng một khắc, tươi cười đón chào hoàng thượng ở bên dưới.
Tôi chỉ cầu việc này, vinh hoa con nối dòng gì khác đều không màng, dù từ nay về sau hoàng thượng không quan tâm lâm hạnh cũng không hề gì…”.
“Nương nương!” Cung nữ bên cạnh kinh hãi hô lên, “Tuyệt đối không nên nói lời không cát tường”.
“Nói cũng nói rồi”.
Mộ Từ Tư như trút được gánh nặng, “Dập đầu đi thôi”.
Từ bỏ tất cả tôn quý hạnh phúc, chỉ cầu được chết sớm.
Hoàng đế cảm thấy Mộ Từ Tư thật dại dột, ngốc nghếch, bỏ ra tất cả cho mình.
Nghe tiếng bước chân nàng đi xa, hắn ta vén màn trướng lên đi tới bên ngoài Phật Đường đầy ánh mặt trời, trong muôn nỗi sầu lo lại có thêm một mối tâm sự.
“Trẫm dự định cất nhắc hai thục nghi Hòa Hài”.
Hắn ta nói.
Tịch Tà không có hứng thú đối với chuyện như vậy, lười biếng qua loa, “Vâng.
Nô tì sẽ báo tin vui cho hoàng thượng”.
Thứ đàn bà mong muốn, thông thường đàn ông đều không cho được.
Lúc này, hoàng đế cũng chẳng có dũng khí bảo đảm như đinh đóng cột sẽ mãi nắm tay nhau đến đầu bạc răng long, dù chết cũng ở bên nhau.
“Đều sách phong thành phi”.
Tiếng hoàng đế rõ ràng, thay vì nói là thoát khỏi chút áy náy thì chi bằng nói là vô cùng vui vẻ do đã cho người mình thích ân điển và chỗ dựa bằng hết khả năng.
“Vậy thì hôm nay phải giao cho phủ nội vụ chuẩn bị rồi”.
Tịch Tà nói, “Chí ít phải mua sắm chiếu thư sách phong bằng lá vàng”.
“Mau đi đi, sau khi dặn phủ nội vụ thì hãy đến cung của hai thục nghi báo tin vui”.
“Hoàng thượng, nô tì từng nhận ý chỉ, không được đi lại trong cung phi tần”.
“Trước mắt không có ai khác, khanh cứ đi đi”.
Hoàng đế cười, “Cho khanh cơ hội phát tài, còn muốn kén cá chọn canh à?”.
Tịch Tà đành chịu, đến nội các và phủ nội vụ rồi bất đắc dĩ lê chân đi tới cung Tiêu Cát.
Thái giám nhỏ trước cửa trông thấy hắn thì không ngừng cúi người, luôn miệng “Lục gia” và mời vào trong cung.
“Chúc mừng nương nương”.
Tịch Tà tươi cười dập đầu, “Vạn tuế gia hạ chỉ, cũng đã xin được ý chỉ của thái hậu nương nương, sẽ sách phong nương nương làm phi đấy ạ”.
“Vậy ư?” Mộ Từ Tư ngỡ ngàng trước tin vui, đôi mắt đen láy nhìn phương xa, càng lộ vẻ sâu xa.
“Chúc mừng nương nương!” Người trong cung Tiêu Cát bắt đầu hoan hô tưng bừng, báo cho nhau biết, trong nháy mắt mọi người đã quỳ đầy cả phòng, đồng loạt dập đầu chúc mừng.
“Hoàng thượng nghĩ thế nào vậy? Còn nói gì không?”
Tịch Tà che giấu nụ cười khẩy của mình, “Nương nương thông minh, không cần nô tì nói cũng hiểu mà”.
“Các ngươi đi ra ngoài cả đi”.
Mộ Từ Tư mỉm cười nói với mọi người, “Lát nữa hãy ăn mừng một phen”.
Nghĩa là có lời quan trọng cần nói, mọi người lui ra ngoài cửa như gió cuốn mây tan, trên điện chỉ có một mình Tịch Tà vẫn quỳ trên sàn.
“Làm phiền công công một việc”.
Mộ Từ Tư nói.
“Không dám.
Nương nương có việc gì xin cứ sai bảo”.
Mộ Từ Tư đứng dậy bước đi chậm rãi, làn váy mây khẽ lướt qua, phấp phới trước mắt Tịch Tà.
“Nương nương”.
Tịch Tà cảm thấy quáng mắt, vội nói.
“A, công công đứng lên nói chuyện”.
Mộ Từ Tư hoàn hồn lại, “Tôi có một người anh cả, tên Xán, tự Ly Rư.
Bây giờ làm việc trong kinh doanh”.
“Trong kinh doanh không có người này”.
Tịch Tà hỏi, “Nương nương chắc chắn không ạ?”.
“Quả thực ở trong kinh doanh, nhưng không biết đã đổi thành tên gì.
Lần này chắc chắn anh ấy sẽ hộ giá lên bắc”.
Mộ Từ Tư nói, “Công công! Dù thế nào cũng hãy xin dẫn anh ấy còn sống trở về”.
“Nô tì cả gan nói một câu, lời này của nương nương sai rồi! Chuyện này chỉ cần nhắc hoàng thượng, vạn tuế gia chắc chắn sẽ điều anh nương nương tới làm việc trước vua, thế thì tuyệt đối không có bất trắc, chẳng phải sẽ ổn thỏa ư? Hơn nữa, nô tì là một kẻ hèn mọn, chẳng có bản lĩnh gì, chỉ là giám quân của kinh doanh, không nhúng tay vào chuyện đổi nơi đóng quân được, làm sao có thể cống hiến sức lực cho nương nương?”
Mộ Từ Tư bảo: “Không, chuyện này làm sao có thể kinh động thánh thượng? Công công, không ai trong cung nói chắc được anh có bản lĩnh cỡ nào, nếu như công công không thể làm chuyện này thì thiên hạ không còn ai có thể giữ được tính mạng của anh trưởng ta rồi”.
Tịch Tà nhanh chóng hiểu được ý trong lời nói của Mộ Từ Tư, cười rằng: “Nương nương làm khó nô tì rồi, chuyện nô tì không làm được thì không thể đồng ý bừa với nương nương”.
Mắt Mộ Từ Tư hiện vẻ nghiêm túc sâu xa lạ thường, hắn nói câu xin cáo lui rồi nghiêng người muốn đi mà không màng lễ nghi.
“Tịch Tà, chờ một chút”.
Mộ Từ Tư đi trước một bước, kéo ống tay áo Tịch Tà lại.
“Buông tay!” Trong lòng Tịch Tà đột nhiên có một cơn căm ghét chán ngán vô tận, chợt phất tay áo hất tay Mộ Từ Tư ra, biểu cảm đau đớn của Mộ Từ Tư khiến hắn chợt tỉnh táo lại, rụt tay về khom người chậm rãi nói, “Nương nương, buông tay”.
Hai người thở hổn hển nhìn nhau, vẻ tức giận trong mắt cả hai khiến đôi bên dần dần hiểu ra.
“Thì ra là thế”.
Mộ Từ Tư hiểu nhanh hơn, nhẹ nhàng nở nụ cười như hoa đào rơi xuống nước, ráng mây đầy trời, nàng lại ngồi xuống ghế nói, “Coi như ta cầu xin anh giúp chuyện này”.
Tịch Tà vẫn chưa hiểu hàm ý của “Thì ra là thế”, lạnh lùng nói: “Không dám, nô tì chỉ có thể cố hết sức làm thôi”.
“Vậy thì tốt”.
Mộ Từ Tư từ từ thu ánh mắt sắc bén lại, lẳng lặng cụp mắt, “Cho lui”.
Tịch Tà dập đầu rồi đi ra ngoài, thái giám nhỏ của cung Tiêu Cát đuổi theo, “Đây là phần thưởng của nương nương ạ”.
“Nô tì tạ ân”.
Tịch Tà nhận lấy hai mươi lượng bạc đó, nói, “Quên không nói một chuyện quan trọng, đợi ý chỉ xuống, nương nương phải chuẩn bị tắm rửa trai giới”.
“Chúng tiểu nhân sẽ hầu hạ, xin Lục gia yên tâm”.
Mắt thấy là ngày quan trọng, hoàng đế phải trai giới tổng cộng ba ngày vì hai chuyện sách phi và thân chinh.
Từ ngày mùng hai tháng Năm đã dọn vào trai cung ở.
Các phủ, bộ, viện, tự đã bận tối mặt tối mũi từ lâu, tấu chương lại ít đi, chỉ có thư can gián của các nơi vấn liên tục trình lên, mong hoàng đế đổi ý vào một khắc cuối cùng.
“Đều coi trẫm là trò cười, không xem cũng chả sao”.
Hoàng đế nhìn Hoắc Viêm đưa tấu chương tới, đột nhiên nói, “Trong đám người cùng trẫm đi xuất chinh có khanh không?”.
“Bẩm hoàng thượng, thần được tính là một văn thần, các vị đại nhân trong nội các đều không nhớ đến thần”.
“Cũng tốt.
Thành Thân vương giám quốc nhiều chính vụ, khanh phải hết sức trợ giúp”.
“Dù thần bất tài nhưng luôn khắc ghi những lời trước đây hoàng thượng nói với thần ở trong lòng”.
“Tốt”.
Hoàng đế khen ngợi, “Lúc nào hãy đón mẹ già và vợ hiền của khanh tới kinh đi, con trai không ở bên thì không thể xưng là hiếu thuận được”.
Trong xó có tiếng khúc khích, là Tịch Tà đang lén cười.
Hoắc Viêm đỏ mặt, thưa: “Hoàng thượng dạy phải.
Song sau khi hoàng thượng thân chinh, thần ở chỗ xung yếu, sự vụ trong kinh bộn bề, cũng sẽ lạnh nhạt mẹ thần, không hay cho lắm”.
“Khanh là người vô cùng thông minh”.
Hoàng đế than thở, “Không có buồn phiền ở nhà, làm việc sẽ tiện hơn.
Đi đi”.
Hoàng đế nhìn anh ta lui, quay đầu nói Tịch Tà: “Khanh nói không sai, nếu hắn đã không chịu đón gia quyến qua đây, tất có lòng đề phòng với Cảnh Nghi, chứng tỏ vẫn đáng tin.
Nhưng nói mới nhớ, trời cao hoàng đế ở xa, đến lúc đó Ly đô chính là thiên hạ của Cảnh Nghi, một khi nó có hành động lạ thì chúng ta có thượng sách gì chăng?”.
Tịch Tà lắc đầu, “Nô tì chưa nghĩ ra.
Mọi việc chỉ có thể dựa vào thái hậu nương nương làm chủ trước thôi ạ”.
Trước giờ dường như thái hậu thiên vị Thành Thân vương hơn một ít, nếu như gây ra sóng gió Vũ Khương Cung thúc Đoàn[2] thì khá nan giải.
Hoàng đế không thể yên tâm được.
Mùng ba tháng Năm, hoàng đế tế cáo trời đất, tế lễ thổ thần ở từ đường tế thần.
Mùng bốn tháng Năm, đội mũ thông thiên, sa bào đỏ thẫm, xem xét kỹ súc vật dùng để tế và nhà nuôi chúng.
Mùng năm tháng Năm, Đoan Ngọ, hoàng đế cáo thái miếu, thế miếu, đội mũ da ngự ghế báu ở điện Thanh Bình, quan thừa chế[3] tấu sắc phong của hoàng phi, giáng chỉ từ thềm cung điện, tuyên rằng: “Sắc Mộ thị, Vệ thị làm phi, lệnh cho chúng khanh bắt đầu buổi lễ”.
Trong tiếng ca nhạc đàn sáo, hai vị thục nghi Hòa, Hài đội mũ sáu rồng hai phượng[4], mặc áo đẹp tới điện nhận sắc phong.
Mấy ngày không gặp, lúc này chỉ liếc qua, một đôi giai nhân tuyệt thế đã được đám nữ quan vây quanh đi ra từ trong khói tím lờ mờ, sau khi khấu yết thái hậu, hoàng hậu thì ngoại mệnh phụ chầu mừng.
Hoàng đế nghiền ngẫm vè mặt u buồn của Mộ Từ Tư cũng thấy buồn bã mất mát.
“Hoàng thượng.
Đã sắc phi xong, các đại thần đều đợi ngoài cửa Thanh Hòa, có cần ban tiệc rượu không ạ?”
“Ban tiệc rượu, ban bánh ngọt bánh ú”.
Hoàng đế đứng dậy, “Chắc chỗ thái hậu hoàng hậu đã ban tiệc rượu rồi, đến báo một tiếng đi”.
Cả tháng nay hoàng hậu vẫn luôn ôm bệnh nặng, chỉ có thái hậu chủ trì việc ban tiệc rượu Đoan Ngọ cho mệnh phụ.
Ngoại triều nội cung mỗi bên mời rượu chín lần thì lễ nghi phiền phức mới chấm dứt.
Hoàng đế thay võ thường phục, vẻ mặt hồng hào đi ra, cảnh náo nhiệt hôm ấy mới chính thức bắt đầu.
Kinh thành lắm sông, thuyền đua Đoan Ngọ của dân gian luôn từ cầu Song Thu đến cầu Phiêu Hạ.
Mà năm rồi hoàng đế chỉ xa giá đến Phúc Hải vườn tây xem đua thuyền rồng của thị vệ cung vua.
Năm nay nhân vì đại chiến sắp tới nên cố ý tuyển chọn hơn ba trăm tay cừ khôi ở trong thị vệ, cấm quân, kinh doanh, thủy quân, nha môn đề đốc chín cửa, đua thuyền ngược dòng để cổ vũ sĩ khí chiến thắng của dân chúng kinh sư.
Vì vậy mặc dù loan giá ở đây song bách tính vùng ven sông vẫn vây xem.
Năm sáu hôm trước dân phố trong kinh đã hay tin, biết đây là chuyện lớn ngàn năm có một, để được trông thấy mặt rồng của hoàng đế mà có kẻ thậm chí còn kéo cả nhà ra trải chiếu trúc trên đê sông từ hai ngày trước, tranh chỗ có phạm vi nhìn rộng.
Sáng sớm hôm đó, hai nghìn xạ thủ áo giáp của kinh doanh đuổi người rồi bố trí phòng thủ, buộc dây làm ranh giới, cứ ba bước lại có một người cầm ngang giáo sắt, đứng sừng sững như tường thành, không cho bách tính tiến tới.
Dù như vậy mất hứng nhưng sau buổi trưa hai bờ sông vẫn là rộn ràng, người người nhốn nháo, tầng tầng lớp lớp dày đến cả dặm.
Lúc đầu, hoàng đế cưỡi ngựa giỏi hầu từ giá của thái hậu ra khỏi cung Thanh Hòa, cờ xí rợp trời, quan viên áo gấm như hoa đi theo hai cung qua cầu Phụng Thiên.
Hoàng đế xuống ngựa ở bến đò cho vua của Thượng Giang rồi cung tiễn thái hậu đến rừng lá phong bên cầu Song Thu cách đó một dặm, phủ nội vụ đã xây đài lụa ở hai chỗ trống trải gần sông từ hai bữa trước, có mái che nắng trên đỉnh đầu, tầm mắt thoáng đãng, nhìn rõ mọi thứ trên mặt sông.
Trên sông Ly, thủy quân kinh đô đã hạ chín con thuyền rồng ngậm ngọc mười màu ở bến đò ngự của Thượng Giang, đều cắm cờ hiệu bản doanh, mỗi thuyền có ba mươi sáu người cường tráng như rồng như hổ, thân trên to khỏe ngăm đen, cầm mái chèo trang nghiêm lặng lẽ chờ, một tay cầm lái có dáng người to lớn mạnh mẽ, khoác hoa lụa đỏ cầm mái chèo to, đứng sừng sững ở đuôi thuyền, đè lên đầu rồng hơi ngóc, càng thêm phong thái tung mình ra khơi.
Hoàng đế khen hay, leo lên ghế báu trên đài lụa trong tiếng pháo hiệu.
Cả trăm ngàn bề tôi và dân chúng bên bờ sông đen nghịt quỳ xuống chúc: “Bệ hạ vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”.
Hoàng đế gật đầu, lại có một tiếng pháo hiệu, trăm họ hoan hô ầm ầm, anh chen tôi lấn, liều mạng chen về hướng bờ sông.
Trong tiếng ồn ào, Cát Tường không khỏi cất cao giọng, đứng ra khom người tâu: “Cung thỉnh vạn tuế gia khâm điểm tay trống của các thuyền rồng”.
Vị trí này luôn giữ lại cho thiếu niên xuất thân từ hoàng thân quốc thích trong triều đình, không thì chính là bề tôi trẻ tuổi được hoàng đế tin tưởng.
Ở trên thuyền mặc dù không cần phải ra sức đầu đầy mồ hôi, nhưng năm trước còn có kẻ vì nhận lấy chức trách đứng đầu lãnh đạo mà cuối cùng rơi xuống nước đấy.
Năm nay trừ nha môn đề đốc chín cửa, kinh doanh, cấm quân, thị vệ doanh, thủy sư mỗi bên có hai thuyền rồng, hoàng đế còn chọn mấy viên ái tướng ở các doanh.
Trong kinh doanh là Lục Quá, trong thị vệ là Du Vân Dao và Úc Tri Thu, trong nha môn đề đốc chín cửa là con trai trưởng của Viên Tấn, cũng là rể hiền của thái phó Lưu Viễn, đều không nằm ngoài dự đoán của mọi người.
Chỉ là cuối cùng ở kinh doanh và cấm quân đều còn thiếu một người.
“Vạn tuế gia…”
Hoàng đế nói: “Kinh doanh theo trẫm lên bắc, cấm quân và Thành Thân vương ở lại giữ kinh sư.
Các người nói xem hai vị trí này để lại cho ai?”.
Thì ra hoàng đế và Thành Thân vương muốn đích thân đánh trống đua thuyền rồng, một câu nói được mọi người rỉ tai thầm thì truyền ra.
Sĩ tốt kinh doanh đều cảm thấy mặt như dát vàng, nhìn nhau vui cười, không khỏi khiến tin tức đưa ra ngoài, chỉ lát sau đã náo động toàn thành.
“Sao thế? Sao đột nhiên lại ầm ĩ như thế?” Thái hậu ở cuối đài lụa, ngồi sâu phía sau rèm, giật mình nghe thấy trận sôi trào của dân chúng bên ngoài.
Hồng Tư Ngôn gọi người xuống phía dưới hỏi, chẳng bao lâu đã đi lên bẩm: “Hoàng thượng và Thành Thân vương muốn đích thân đấu thuyền rồng ạ”.
“Làm liều!” Thái hậu cười nói, “Đây là chuyện mà thiên tử làm à?”.
Năm nào thái hậu cũng xem chèo thuyền ở Phúc Hải, chẳng qua là để hợp với hoàn cảnh, đã không còn thấy mới mẻ từ lâu.
Hôm nay gióng trống khua chiêng đi ra là vì nếu mình không đến, hai vị thái phi và mấy phi tần trẻ tuổi sẽ không đi được nữa.
Đang ngồi chơi thì nghe thấy lời bẩm báo này, cảm thấy cực kỳ thú vị nên dù bà nói như vậy nhưng vẫn bảo người vén rèm lên, nhìn về phía lòng sông sáng ngời.
“Vẫn chưa có động tĩnh gì sao?” Các phi tần cười hỏi.
Hồng Tư Ngôn vội nói: “Các nương nương nóng lòng quá, phải đợi pháo hiệu vang lên mới bắt đầu ạ”.
Pháo hiệu lần lữa không kêu, dân chúng vô cùng sốt sắng, kiễng chân nghển cổ nhòm về hướng vua ở Thượng Giang, bỗng thấy lụa màu trước ngự giá động đậy, thì ra là hoàng đế đứng dậy, mở rộng áo trên, chợt lộ ra một hình vẽ con rồng bay lượn sặc sỡ, lân vàng mây áng vờn quanh, phía sau mặt rồng hung ác, chẳng sợ hãi gì, nghiêm nghị sát khí tận trời.
Chẳng biết là vì con rồng vàng này uy vũ, hay là dáng người hoàng đế cường tráng ngoài dự đoán của mọi người mà quần thần thốt ra tiếng tán dương, đám nội thần thì cổ vũ ầm ầm, khiến chữ “hay lắm” vang rung cả trời.
“Em thì thế nào?” Hôm nay hoàng đế tất phải lộ vẻ kiêu ngạo uy nghiêm, mỉm cười hỏi Thành Thân vương.
“Không”.
Mặt Thành Thân vương trắng bệch, không màng lễ nghi đã thốt ra lời từ chối.
Hoàng đế không ngờ y làm mất hứng như thế, xụ mặt hỏi: “Em nói gì?”.
“Thần không giỏi việc này”.
Thành Thân vương run rẩy co rúm lại, quỳ xuống dập đầu, “Hoàng thượng tha cho thần đi”.
Quần thần ồn ào, hoàng đế càng tức đến mắt tối sầm lại, nhưng đang lúc nên vui mừng, không thể phát tác khiến cho mất vui mà tan.
Hoàng đế cụp mắt xuống, lúc này kẻ có thể sánh ngang với thân phận Thành Thân vương chỉ có Hồng Định Quốc – thế tử của Hồng vương thôi.
“Thế tử”.
Hoàng đế nói rất khách sáo, “Sẵn lòng làm thay chứ?”.
Hồng Định Quốc quỳ tâu: “Hoàng thượng có lệnh, thần tất vui lòng.
Nhưng thần có một nhóm người hầu chơi thuyền rồng ở Hồng châu, mấy ngày nay vừa lúc đến kinh, thần ở đây xin ân điển để họ có thể lộ mặt ở trước hoàng thượng và các vị vương hầu quan tướng kinh thành ạ”.
Hoàng đế đương nhiên sẽ không bác bỏ, cười nói: “Cho phép điều khanh tâu”.
Hồng Định Quốc dặn Lý Trình, chẳng bao lâu đã có một cái thuyền rồng vảy đỏ xuống nước từ bờ bên kia, người cầm lái mặc một bộ quần áo màu vàng nhạt, vô cùng tráng kiện, mang khí thế kim thân la hán cưỡi rồng mà đến, xán lạn chói mắt dưới ánh mặt trời.
Hoàng đế kiềm chế nụ cười khẩy, khen ngợi: “Hay lắm!”.
Cát Tường sợ kẻ không hiểu chuyện sẽ hô theo khiến hoàng đế càng không vui bèn bước lên phía trước cao giọng tâu: “Vạn tuế gia, trên chiếc thuyền cấm quân này vẫn chưa có người gõ trống, xin vạn tuế gia bảo cho”.
“Em thấy thế nào?” Hoàng đế hỏi Thành Thân vương, “Em không giỏi, vậy chắc có thể tiến cử một người chứ?”.
Sắc mặt Thành Thân vương mới hòa hoãn lại mà lúc này lại đỏ bừng lên, tâu: “Thần thấy vẫn là người hoàng thượng thích mới tốt.
Tịch Tà thì sao ạ?”.
“Được đấy”.
Cuối cùng hoàng đế cũng vui trở lại.
Tịch Tà vội thưa: “Thân phận của nô tì nào dám thi đấu cùng hoàng thượng và các vị anh kiệt ở đây?”.
“Chỉ chơi đùa mà thôi, có gì quan trọng đâu”.
Hoàng đế cười to, đi xuống đài lụa trước.
Lúc này đám Lục Quá đều đã để trần thân trên, buộc gấm đỏ ở thắt lưng rồi lên thuyền theo thứ tự.
Thuyền rồng của kinh doanh cũng đã cập bờ, hoàng đế nhanh nhẹn nhảy lên đầu thuyền, rồng vàng trên người dương nanh múa vuốt trực muốn bay đi.
Sĩ tốt kinh doanh bốn phía vui mừng khôn xiết, hô to vạn tuế.
Tịch Tà theo ở phía sau cởi cung y, vết thương hơn một tấc trước ngực vẫn đỏ tươi.
Lý Trình nhân lúc hắn đi qua, không chịu bỏ qua cơ hội trào phúng: “Thì ra lại nguy hiểm như thế, có nặng lắm không?”.
“Đã khỏi rồi”.
Tịch Tà nói, “Đều nhờ ngài nhọc lòng”.
“Trong cơn nguy cấp mà tiểu công công còn nhớ cứu tôi ra khỏi sông, tôi vẫn còn chịu ơn tiểu công công đấy”.
“Tuy là công công sẽ chỉ giúp hóa phiền”.
Tịch Tà cười nói, “Nhưng nếu công công mà chết thì việc tôi làm sẽ không còn hoàn hảo nữa”.
Lý Trình hung ác nói: “Tiểu công công còn trẻ mà võ công đã cao đến mức yêu tà thế này, chỉ sợ khó mà được trăm năm”.
“Như nhau cả thôi”.
Tịch Tà cười, “Tuổi của cao thủ dưới trướng Hồng vương cũng không lớn”.
“Công công mau lên nào”.
Người cầm lái của cấm quân hô.
Tịch Tà lướt lên thuyền rồng, chậm rãi trôi hướng lòng sông.
Mười con thuyền rồng xếp thành một hàng ở trên mặt nước, người cầm láy giữ dây thừng, ngừng ở sau dây đỏ xuất phát.
Mọi người nín hơi, chỉ nghe một tiếng pháo hiệu rền vang, nhịp trống gấp gáp thúc giục, mái chèo ngắn vội vung lên, trong chốc lát mười con thuyền rồng phá tan dây đỏ, lao thẳng tới Long Môn phía trước cầu Song Thu.
Lao ra mười trượng, tiếng trống dần chậm lại, thuyền rồng của Hồng Định Quốc đi đầu, thuyền hoàng đế theo sát phía sau.
Dân chúng nhận ra hoàng đế ở chính giữa, theo tiếng hò hét trợ uy của tướng sĩ kinh doanh, tiếng vạn tuế liên miên vang lên hai bên bờ sông, thanh thế lay trời.
Tịch Tà lo lắng có người ám sát sinh biến, không ngừng quan sát hai bờ sông, quay đầu lại, thấy thuyền của hai người họ đều ở lòng sông, quá gần nhau, e sợ hoàng đế có bất trắc bèn giơ tay ra hiệu cho người cầm lái, lắc mái chèo to, hối hả đuổi theo, ngậm chặt đuôi thuyền của Hồng Định Quốc.
Hồng Định Quốc cười khẩy, tiếng trống gấp rút, bỏ hai thuyền kia lại phía sau.
Hoàng đế vẫn cực kỳ bình tĩnh, không quan tâm vẻ mặt sốt ruột của người cầm lái trên thuyền, nhịp trống không hề thay đổi.
Hồng Định Quốc, Tịch Tà, hoàng đế, ba con thuyền rồng nối thành một đường, lướt thẳng về phía trước.
Tiếng hoan hô đã di chuyển tới cầu Song Thu.
Phi tần đứng dậy nhìn ra xa, hỏi: “Chỉ thấy được con rồng vàng rực trước mặt, chính là hoàng thượng sao?”.
“Có lẽ không phải”.
Hồng Tư Ngôn cười nói, “Chắc là thuyền của Thành Thân vương, trước giờ ngài ấy thích mấy thứ kinh thế hãi tục mà”.
“Chói mắt quá”.
Thái hậu bảo, “Nếu thắng hoàng đế thì lại làm loạn trước mặt ta rồi”.
Bà cực kì quan tâm về cuộc cạnh tranh giữa hai đứa con trai này, rốt cuộc cũng đặt chén trà xuống, đứng dậy quan sát cuộc thi.
Lúc này cuộc thi đã trôi qua quá nửa, mười con thuyền rồng dần hội tụ ở lòng sông, lại có thuyền của Úc Tri Thu xông vào bên trái thuyền Tịch Tà với tiếng trống điên cuồng, vướng víu ở trong cuộc chiến, đảo mắt đã lên hơn mười trượng.
Đua thuyền một dặm, có mười đình cả thảy mà đã qua sáu đình, hoàng đế đánh trống chậm lại để người cầm lái nghỉ ngơi.
Tiếng trống của Hồng Định Quốc thì càng lúc càng nhanh, người cầm lái của đội đó cũng cực kỳ bền bỉ, chèo đều nhịp, cứ như người bằng đồng bằng máy chèo thuyền, không lộ chút vẻ mệt nhọc nào, chỉ trong chớp mắt đã lại đi trước ba bốn trượng.
Tịch Tà sẽ không so bì thắng thua, chỉ cầu thái bình là hơn, kề sát thuyền của hoàng đế.
Nhưng như vậy lại để Úc Tri Thu vượt qua, chiếm được đường thẳng, chặn trước hoàng đế.
“Tên khốn không biết sống chết!” Tịch Tà dở khóc dở cười đối với sự quyết tâm này của gã, không khỏi thầm mắng rồi chỉ một ngón tay ra hiệu với người cầm lái.
Người cầm lái ngầm hiểu, lái chèo tiến lên ép, đầu rồng đập vào mạn thuyền của Úc Tri Thu, đẩy ra hơn một trượng.
Mặc dù người bẻ lái của hoàng đế đang nghỉ ngơi nhưng người cầm lái ở đuôi thuyền lại bỗng phát lực, mái chèo lớn lay động, đã vọt mạnh lên trước nửa trượng dọc theo tuyến đường mà Tịch Tà mở ra, thuyền rồng ba mươi tám người đột nhiên tiến lên trước như phiến lá khẽ trôi trên mặt nước, không bao lâu đã cùng tiền với thuyền Tịch Tà.
Người cầm lái đó lau đi thuốc màu trên mặt, nhe răng mỉm cười với hoàng đế và Tịch Tà.
“Khương Phóng?” Tịch Tà bừng tỉnh, thảo nào thần lực như vậy, thì ra là Thượng tướng quân tự mình cầm lái.
Hoàng đế và Tịch Tà nhìn nhau cười to, ánh mặt trời và náh nước làm người ta hoa cả mắt, chỉ cảm thấy giờ khắc này vua tôi hết sức ăn ý, vui mừng sung sướng khôn kể.
Hoàng đế hét to một tiếng, nâng cao dùi trống rồi đánh xuống như mưa rền gió rít.
Người bẻ lái trên thuyền đó đã sớm nén hơi, nghe tiếng trống thúc giục thì cất tiếng thét to, dùng chèo như bánh đà, mượn dòng nước mà đầu rồng của Hồng Định Quốc rẽ ra để đuổi đến đuôi thuyền Hồng Định Quốc trong chớp mắt, theo sát không buông.
Hoàng đế luôn ở phía sau khiến dân chúng rất sợ hãi, mắt thấy chỉ còn hơn năm mươi trượng, cho rằng hoàng đế không thể thắng lợi nên chán nản, âm thanh cũng thấp xuống.
Không ngờ lúc này hoàng đế chợt vọt lên, mấy chục nghìn người lại vực dậy tinh thần, tiếng trợ như thủy triều vỗ vào bờ, đợt sau cao hơn đợt trước.
Tinh thần của mọi người trên sáu chiếc thuyền phía sau cũng rất phấn chấn, không cam lòng tỏ ra yếu kém, cắn răng dốc hết tất cả sức lực, ra sức đuổi theo.
Long Môn trước cầu Song Thu đang ở ngay trước mắt, quả cầu hoa đỏ tươi treo ở giữa cũng rõ mồn một, Khương Phóng nhẹ nhàng lắc tay lái, thuyền rồng của hoàng đế liền va vào mạn thuyền của Hồng Định Quốc.
Tịch Tà xoay mặt sang nhìn, thấy hai thuyền chạy song song nhau, trong chốc lát khó phân thắng bại thì vội vàng gia tăng nhịp trống muốn tiến lên.
Thình lình sóng nước dâng lên, thuyền của Úc Tri Thu lại đi nghiêng tới, chiếm giữ đường thẳng, cười với Tịch Tà.
Dân chúng nào biết nhưng duyên cớ trong đó, chỉ thấy bốn con thuyền rồng kết đôi tranh chấp, vô cùng đặc sắc thì đều vỗ tay khen hay.
Hoàng đế và Hồng Định Quốc chỉ cách Long Môn hơn mười trượng, đều ném dùi trống, leo lên đầu rồng.
Mặc dù Tịch Tà cách xa nhưng sợ hoàng đế bị Hồng Định Quốc tính kế nên cũng vội vàng xoay người nhảy lên đầu rồng, trong tay cầm dùi trống, chỉ cần thấy một chút bất ngờ là sẽ ra tay đánh lén Hồng Định Quốc ngay.
“Đến rồi đến rồi, có thể thấy rõ rồi.
Đang leo lên đầu rồng muốn tranh trước kìa”.
Cung nữ thái giám bên cầu Song Thu vỗ tay hoan hô.
Thái hậu nhìn một hồi, đột nhiên hỏi: “Người kia là Cảnh Nghi à?”.
“Chủ tử nói người nào ạ?”
“Người trên thuyền vảy đỏ ấy”.
“Không giống ạ”.
“Người trên thuyền vảy vàng lam mang cờ hiệu cấm quân thì sao? Sao lại mạo hiểm đứng trên đầu rồng như vậy?”
“Thành Thân vương cao hơn một chút, trông cũng không giống”.
Thái hậu còn đang nghi hoặc, thái giám đã đến nói các đại thần hầu giá ở bến đò Thượng Giang đều đã dời đến nơi này rồi, Thành Thân vương cầu kiến.
“Con không ở trên thuyền sao?” Thái hậu thấy y thì cả kinh.
Mặt Thành Thân vương có nét hổ thẹn, nói: “Tịch Tà của cung Càn Thanh thay thần lên thuyền rồi ạ”.
“Thế kẻ trên thuyền rồng vảy đỏ là ai?”
“Hồng Định Quốc – thế tử của Hồng thân vương ạ”.
Thái hậu vốn cho rằng dù thi đấu có náo nhiệt đến mấy thì cũng chẳng qua chỉ là để vui mắt, cuối cùng chắc chắn hoàng đế sẽ thắng.
Nhưng nếu đối thủ là Hồng Định Quốc thì không thể chắc chắn được.
Nếu hoàng đế ngã mạnh như thế trước mặt cả trăm ngàn dân chúng, mất hết mặt mũi thì sao lập uy được nữa? Thái hậu chỉ vào Thành Thân vương thấp giọng giận dữ nói: “Anh em ruột ra trận mà sao con lại lâm trận lùi bước? Đến khi nào thì chút nghiệp chướng trong lòng con mới có thể tiêu tan? Đúng là không có tiền đồ”.
Thành Thân vương bị bà mắng không ngóc đầu lên được, thái hậu phất tay áo nói: “Đi đi”.
Các phi tần tránh ở bên trong cũng nghe thấy đại khái, đợi Thành Thân vương lui thì đều ào ra đứng ở bên trên đài lụa, lòng nóng như lửa đốt, vịn lan can mà trông.
Bỗng nghe hai bờ sông kinh ngạc đồng thanh hô lên, thì ra người cầm lái của Hồng Định Quốc hung hăng, khiến đầu rồng của hai thuyền đụng nhau, người hoàng đế lảo đảo, e sẽ rơi xuống nước, người xem đều kêu lên sợ hãi.
Hai phi Truân, Nghị đều hít một hơi lạnh, Truân phi nhát gan hơn, che mắt không dám nhìn nữa.
Mộ Từ Tư nắm chặt khăn tay vẻ mặt quyết tâm bất chấp tất cả, lại vọt tới trước một bước.
Hài phi Vệ thị thì khá bình tĩnh, thầm kéo nàng ấy nhưng không lên tiếng.
Thuyền của Hồng Định Quốc nhân cơ hội giành trước hơn ba thước, đầu rồng sắp tiền vào Long Môn.
Tịch Tà cách hắn ta không xa, cầm dùi trống trong tay, đang muốn ném đi thì thấy hoàng đế vẫn đang ra sức bám lấy đầu rồng thì thay đổi ý nghĩ hạ tay xuống.
Lúc này thắng lợi đã nằm trong tầm tay Hồng Định Quốc, hắn ta nằm rạp người ở trên đầu rồng đầu thuyền, quả cầu hoa mục tiêu đã trong tầm với, nghĩ hôm nay ra oai phủ đầu với hoàng đế thì không khỏi dương dương tự đắc.
Không ngờ vảy vàng lóe lên trước mắt, giao long bay vút, hoàng đế vung người leo lên, dừng chân trên đầu rồng, rướn người vươn cánh tay, vững vàng lấy được quả cầu hoa trước Hồng Định Quốc một bước.
Người cầm lái của Hồng Định Quốc giận dữ, muốn thừa dịp hoàng đế đứng không vững, đâm một cú khiến hắn ta rơi xuống nước, cũng khiến hắn ta xấu mặt.
Khương Phóng lanh mắt, rút tay đoạt lấy chèo gỗ trước mặt người bẻ lái, ra sức ném đi, khiến mái chèo của người cầm lái thuyền Hồng Định Quốc gãy ngang.
Tịch Tà thở phào nhẹ nhõm rồi mới phát hiện Úc Tri Thu đã chạy tới trước mặt, vội lệnh mọi người tăng tốc.
Dù Úc Tri Thu không thể thắng hoàng đế nhưng có thể thắng Tịch Tà cũng hết sức vui mừng, nhưng thuyền rồng của Du Vân Dao đã rẽ sóng đuổi đến, thò người ra la to: “Anh Âu, đó là thuyền của Thành Thân vương!”.
Úc Tri Thu chợt rùng mình, muốn hoãn thế đi của thuyền rồng nhưng đã không còn kịp nữa, vẫn tới trước Tịch Tà một bước.
Đợi mười con thuyền rồng qua hết Long Môn, thuyền rồng của hoàng đế đã thong thả quay lại, lướt chậm dọc con sông, bách tính thấy hắn ta thắng đẹp thì tiếng hoan hô vọng như sấm rền trực phá tan cả kinh sư.
Hoàng đế cầm quả cầu hoa trong tay, vảy vàng cả người chói mắt, đứng sừng sững trên đầu rồng, nghiêm nghị nhìn Hồng Định Quốc ở xa xa.
Ánh mắt kia quyết không thể chỉ hình dung bằng từ sắc bén, dưới cái khí thế cuồn cuộn này, Hồng Định Quốc cũng không khỏi cúi đầu.
“Vạn tuế vạn tuế, vạn vạn tuế!” Lưu Viễn phủ phục trên mặt vừa tán tụng vừa bái lạy.
“Vạn tuế vạn tuế, vạn vạn tuế!” Như ném một hòn đá xuống mặt nước yên ả, sau đó tiếng tán dương quỳ lạy như sóng lớn lan tới cả trăm nghìn người.
Gió lượn mặt sông làm lòng người khoáng đạt, trong khoảnh khắc thành trì khom lưng, giang sơn cùng tán thán vì niềm vui của vua này, hoàng đế chậm rãi nhìn quanh, trông về chín cây cầu dài bắc qua sông Ly phía xa như cầu vồng dưới ánh nắng tươi đẹp, khoan thai thưởng thức cái vắng lặng vô thanh đột ngột sau hồi huyên náo của nửa kinh sư.
Đêm Đoan Ngọ trôi qua như bình thường.
Hôm sau, bốn mươi ngàn tướng sĩ kinh doanh sẽ tập kết xếp hàng ngoài cửa Nhương Địch của Ly đô, cung kính chờ đợi loan giá của hoàng đế khởi hành Bắc Phạt.
Lúc này thống soái kinh doanh Khương Phóng đang đi đi lại lại ở sân chái đông trong phủ, ngửa đầu nhìn sắc trời.
“Sao mà sốt ruột thế?” Tịch Tà ở bên trong thư phòng cười nói, “Vẫn chưa tới giờ mà”.
“Vâng”.
Khương Phóng vào nhà nói, “Chủ nhân bình tĩnh hơn tôi”.
Tịch Tà mặc áo xanh nhạt, trong tay phe phẩy quạt tròn, thản nhiên nói: “Có gì mà sốt ruột cơ chứ.
Đều là người mình cả”.
Khương Phóng nhấp một hớp trà đặc, bảo: “Hôm nay náo nhiệt cả ngày, tôi cảm thấy mệt rồi mà chủ nhân vẫn phấn chấn tinh thần”.
“Nếu Thành Thân vương không lâm trận lùi bước thì sao lại cần hai ta tự mình đánh trồng cầm chèo? Nói đến đây…” Tịch Tà nhíu mày, “Có một chuyện không rõ, Thành Thân vương luôn hào hiệp, sao hôm nay lại sợ hãi trước mặt mọi người”.
Khương Phóng thở dài một tiếng, “Trong này có một duyên cớ đấy ạ”.
Tịch Tà ngạc nhiên hỏi: “Lẽ nào y không biết bơi?”.
“Không phải.
Phàm là hoàng tử thì hàng năm đều tránh nóng ở Thượng Giang, đều xuống nước lên núi cả nên từ nhỏ kỹ năng bơi đã không tệ.
Chỉ là gia còn nhớ tôi từng bắn thích khách ám sát anh em hoàng đế ở Thượng Giang không?”.
“Nhớ”.
“Thích khách kia cực thông minh, để tránh người khác nhìn ra hoàng tử bị giết chết nên đã định dìm chết anh em hai người.
Chờ lúc tôi chạy đến, hai anh em đều bị gã ấn xuống nước, lúc cứu lên, Thành Thân vương đã gần như không còn thở nữa”.
“Lẽ nào chỉ vì chuyện này mà sợ nước?” Tịch Tà bật cười, “Không thể nào, tết Nguyên Tiêu vẫn thấy y đi thuyền du ngoạn trên sông mà”.
“Nhắc tới việc ấy thì đều là vì thuở nhỏ đương kim hoàng đế không hiểu chuyện, tránh người dẫn Thành Thân vương một mình đi lung tung mới nên nỗi.
Trải qua chuyện này, sợ rằng đã hiểu đạo lí tấm thân ngàn vàng không thể mạo hiểm.
Đua thuyền rồng cũng có nguy hiểm, nhớ lại chuyện gặp phải thuở thiếu thời, có chút sợ hãi cũng là nhân chi thường tình”.
Tịch Tà nói: “Phàm có nhân chi thường tình thì sẽ bị kẻ khác lợi dụng.
Y quý mạng, không có chút dũng khí mạo hiểm như thế, chỉ sợ khó làm nên trò trống, uổng công ta còn đang sầu vì y”.
“Có Ngô Thập Lục tôi ở đây, chủ nhân sầu gì chứ?” Người ngoài cửa cao giọng cười.
“Anh Thập Lục đến rồi à?” Tịch Tà cả mừng, ra ngoài cửa đón.
Hai người Ngô Thập Lục và Tống Biệt đều nhanh nhẹn tới, Ngô Thập Lục vén áo bào lên dập đầu với Tịch Tà, “Chủ nhân có khỏe không?”.
“Anh Thập Lục mau đứng lên”.
Tịch Tà đưa tay đỡ dậy.
Tống Biệt không xuất thân từ gia nô Nhan phủ giống Ngô Thập Lục và Khương Phóng nên chỉ nói “Tiểu vương gia” rồi chắp tay khom mình làm lễ, Tịch Tà vội vàng hoàn lễ.
Khương Phóng mời mọi người ngồi vào ghế, gã sai vặt thân tín bày tiệc hậu, dâng rượu xương bồ hùng hoàng chu sa hợp với ngày tết, không phải ai cũng thích ăn bánh ú nhưng Khương phủ vẫn bày bánh ú đủ màu sặc sỡ cho hợp với không khí.
“Tiểu Khương, để cậu tốn kém rồi”.
Ngô Thập Lục cười hỏi, “Sao vẫn chưa nâng chén chúc chủ nhân mã đáo công thần, khải hoàn về kinh?”.
“Hãy chờ thêm lát nữa”.
Khương Phóng nói, “Còn có một vị khách quý đến đấy”.
Ngô Thập Lục kinh ngạc, “Lẽ nào thằng kia rỗi rãi nên cũng tới ư?”.
Gã sai vặt khom người đẩy cửa, kẻ ngoài cửa khoan thai cười nhạt nói: “Miệng chó của Ngô Béo vẫn không mọc ra ngà voi được, tật xấu y như ngày nào”.
Người nọ ốm yếu đi vào, ánh mắt rất sắc bén, nhìn chằm chằm Tịch Tà.
Khương Phóng đứng lên nói: “Chủ nhân chưa từng gặp, đây là Nhị tiên sinh”.
Tịch Tà ngồi thẳng cười với phong thái ung dung.
Trong ánh mắt người nọ có vẻ mừng rỡ, vui vẻ quỳ xuống, “Phạm Thụ An xin dập đầu trước chủ nhân”.
Lúc này Tịch Tà mới đứng dậy tránh, mỉm cười nói: “Mời Nhị tiên sinh đứng lên, thư từ qua lại lâu như vậy mà nay mới gặp, thật là thất lễ”.
Phạm Thụ An đáp: “Tuy hơn mười sáu tuổi đã rời vương phủ nhưng vẫn là đứa bé được vương phủ nuôi, tiểu vương gia đừng khách sáo với tôi”.
Tịch Tà khiêm nhường nói: “Nhị tiên sinh ở nơi hang hổ, nhiều năm qua không ngừng vật lộn, ta không thể tưởng tượng hết nỗi khổ trong đó, trước mặt các vị, kẻ sinh sau đẻ muộn như ta sao dám kiêu căng? Đại tiên sinh, Tam tiên sinh có khỏe không?”.
“Nhờ phúc của tiểu vương gia nên đều rất khỏe ạ”.
“Đừng khách sáo nữa”.
Những năm gần đây Ngô Thập Lục đã nhiễm thói giang hồ, đĩnh đạc nói, “Hôm nay tiểu vương gia và thủ lĩnh bốn phương đều ở đây, cạn một chén trước nào”.
“Nói bậy”.
Phạm Thụ An cười bảo, “Luân Linh vẫn chưa ở đây, nếu không cũng có thể nói đủ rồi”.
Mọi người cười cười nói nói, ngồi vào chỗ và nâng chén.
Ngô Thập Lục hỏi: “Không phải anh ở Đa Phong sao? Sao lại chạy ra ngoài?”.
“Thế tử Hồng Vương bị tiểu vương gia cướp đi, Hồng vương há lại không tức giận? Ông ta điều hai mươi nghìn người muốn tiêu diệt hai mươi trại ở Đa Phong, may mà tôi đã lệnh cho Bạch Đại dẫn nhân mã xuống Hàn châu, để chúng vồ hụt rồi”.
“Cũng đã lâu không gặp Bạch Đại, Bạch Nhị rồi, chờ tôi về Hàn châu, đám anh em phải vui vẻ một phen mới được”.
Tịch Tà hỏi: “Thế sau đó hai mươi nghìn Hồng binh đã đi đâu?”.
“Đi về phía Đông vương ạ”.
Phạm Thụ An nói, “Hồng vương còn có một thủy trại ở trong hồ Thiếu, hai mươi nghìn người này ẩn núp trong đó, một khi Đông vương có hành động lạ thì sẽ xuất binh chống lại”.
Tịch Tà cười nói: “Nhị tiên sinh dẫn hai mươi nghìn người này đến hồ Thiếu à? Thảo nào hôm nay Hồng Định Quốc đột nhiên gọi ra một đội thuyền rồng cừ khôi, ắt cũng là người trong này”.
“Vâng ạ.
Bọn chúng đều là du kích tham tướng của thủy quân Hồng châu, rất khá đấy ạ”.
“Thế thì vừa lúc”.
Ngô Thập Lục nói, “Hai mươi nghìn người ở Đa Phong và hai mươi nghìn người của Hồng vương đủ để Đông vương ốc còn không mang nổi mình ốc rồi”.
Tịch Tà bảo: “Triều đình cũng mai phục một nước cờ ở phía đông, anh Thập Lục có biết Lục Tuần không?”.
“Tham tướng phòng thủ đạo Đông Hải”.
Ngô Thập Lục đáp, “Nhà họ Lục vốn có ít quan hệ với kinh doanh, phụ thân y có qua lại với tôi”.
“Rất tốt, sau khi trở về anh Thập Lục hãy mau chóng làm quen với người đó”.
Tống Biệt nói: “Như vậy xem ra, bây giờ Đông vương đã không còn đáng sợ.
Nỗi lo duy nhất vẫn là ông ta và Tây vương cấu kết tạo phản, hai đất đông nam loạn lên, mấy chục nghìn người không trấn áp được”.
“Việc này thì phải dựa vào thầy Tống vật lộn ở Đại Lý”.
Tống Biệt mỉm cười đáp: “Tên Đoàn Bỉnh này dã tâm hừng hực, đã không nhẫn nại được nữa, có thể lợi dụng”.
Khương Phóng nói: “Nếu nói đến sốt ruột thì không thể sốt ruột hơn Đông vương được đâu.
Liên tiếp dùng thủ đoạn bẩn thỉu, không ngờ còn ám sát cả Vương Cử và Lương Dũng.
Không biết ông ta có thể vét được lợi ích gì”.
“Khà khà”.
Ngô Thập Lục cười lạnh đáp, “Hai người này vừa chết, triều đình không có đại tướng cầm binh, sẽ chia rẽ với Lương vương, phía bắc tự nhiên trống không.
Đông vương và Nguyệt Thị đã cấu kết từ lâu, còn làm cả chuyện dẫn sói vào nhà đấy thôi.
Nếu như hoàng đế thân chinh thì càng là thời cơ tốt để ông ta làm loạn”.
“Nếu thích khách là Lôi Kỳ Phong thì chắc chắn Hồng vương phải biết”.
“Tất nhiên là biết”.
Phạm Thụ An nắm mấy sợi râu dài, gật đầu lia lịa, “Hai châu Hồng, Lương ở rất gần nhau, như thể chân tay.
Vương Cử vừa chết, chẳng phải là thời cơ tốt để Lương vương đoạt binh quyền ư? Dù là hoàng đế thân chinh, nếu không có thế tử Hồng Vương cũng trong quân đội thì tất sẽ khiến hoàng đế có mạng đi, không mạng về”.
Khương Phóng cười nói: “Có thể thấy hoàng đế thân chinh là hướng về lòng dân, là xu thế tất yếu.
Trước chủ nhân còn rầu trong tay không lính, lần này theo hoàng đế lên bắc chính là cơ hội lập uy trước quân Chấn Bắc đấy”.
Mọi người cất tiếng cười to, Ngô Thập Lục thì vỗ tay không ngừng, “Suy cho cùng là nhờ chủ nhân khuyên nhủ hoàng đế thân chinh mới có cục diện “tất cả đều vui” này, ha ha, chẳng mấy chốc mà bốn bể thái bình rồi”.
Năm người lại bàn mấy kế, màn đêm đã dày đặc, rượu đến khi tận hứng, nói lời vui mừng, Phạm Thụ An phải hành động cực kỳ cẩn thận nên đã xin cáo từ trước.
Ngô Thập Lục cười hỏi Khương Phóng: “Cậu thì sao? Tối nay ở với đám lỗ mãng chúng tôi, lúc này chắc muốn bay đi lắm rồi phỏng?”.
Khương Phóng thoáng nhìn vào nội trạch, trả lời: “Chuyết kinh luôn bệnh, lại thêm lo lắng, đêm nay chỉ đành ở đây thôi”.
Ngô Thập Lục than thở: “Tê Hà cũng đã là người xuôi ngược bốn mươi năm rồi, dẫu tạm thời hai người không thể ở bên nhau nhưng sắp phải liều mạng đánh trận rồi, dù thế nào cũng phải nói với người ta vài lời chứ?”.
“Anh Thập Lục dạy phải”.
Khương Phóng không nhịn được thở dài, “Tôi sẽ nói với nàng ấy, mọi việc đành phải chờ quay về rồi nói tiếp thôi”.
“Ôi!” Ngô Thập Lục tức giận phất tay áo, “Lão Tống, đi thôi”.
“Xin thầy Tống đợi một lát”.
Tịch Tà tiến lên phía trước nói, “Chuyện của Minh Châu…”
“Sao?” Tống Biệt hơi giật mình, “Nó nói gì à?”.
Tịch Tà cười đáp: “Không.
Chẳng qua là vãn bối cảm thấy nàng ở trong cung quả thực nguy hiểm, nếu tiên sinh có thể nán lại kinh thành một thời gian thì tôi sẽ nghĩ cách đưa nàng ra khỏi cung, thầy Tống có con gái hầu hạ không tốt ư?”.
“Việc này…” Tống Biệt trầm ngâm một lát rồi bất đắc dĩ nói, “Nói thật với tiểu vương gia, lão hủ không làm chủ được việc này đâu”.
Tịch Tà nổi giận, tức quá hóa cười hỏi: “Thầy Tống, chuyện liên quan đến an nguy của lệnh thiên kim, lúc muốn ngài quyết định, sao lại thoái thác như thế?”.
Tống Biệt thở than: “Ở đây có nỗi khó xử…”.
“Khó xử gì vậy? Chỉ cần nằm trong năng lực của vãn bối thì sẽ lo liệu thỏa đáng cho thầy Tống”.
“Không nhắc cũng được”.
Tống Biệt hối hả muốn đi, bị Tịch Tà kéo lại.
Tịch Tà vội nói: “Xin thầy Tống quyết định việc này”.
Tống Biệt cụp mắt nhìn vầng trăng, vẫn đang trầm ngâm.
“Thầy Tống!” Tịch Tà cất cao giọng.
“Ôi! Oan gia!” Tống Biệt giậm chân, “Hai đứa lại muốn ép chết tôi”.
Tịch Tà cảm thấy kỳ quặc, lúc này chỉ níu Tống Biệt lại không buông.
“Chủ nhân chớ sốt ruột”.
Ngô Thập Lục vội vàng tới tách hai người ra, “Lão Tống, nếu đã đến nước này rồi thì nói rõ mới tốt”.
“Nói rõ cái gì?” Tịch Tà mơ hồ cảm thấy không ổn, mồ hôi lạnh đã thấm ra.
Vẻ mặt Tống Biệt trở nên nghiêm túc, hạ quyết tâm nói: “Tiểu vương gia không phải không biết, vợ cả của tôi là công chúa Đại Lý, bị hoàng đế Đại Lý chắp tay tặng người lại sợ tôi tạo phản nên đã giết cả nhà tối, ép tôi lưu lạc trung nguyên”.
Tịch Tà thành thật đáp: “Biết”.
“Nhận được sự cứu giúp của lão vương gia, năm ấy tôi dẫn Minh Châu lận đận đến Ly đô rồi dừng chân ở phủ Nhan vương.
Minh Châu chỉ mới một tuổi, được mẹ đẻ tiểu vương gia là Trịnh vương phi đón vào cung nuôi nấng”.
Tịch Tà cười hỏi: “Lẽ nào lúc nhỏ tôi từng gặp Minh Châu ư?”.
“Chắc là đã quên”.
Tống Biệt than, “Trịnh nương nương thấy Minh Châu thì rất quý, bảo tôi chép ngày sinh tháng đẻ của nó rồi đưa vào, vừa nhìn mới hay sinh nhật cùng ngày, cùng tháng, cùng năm với tiểu vương gia”.
Tịch Tà chợt lùi một bước, Tống Biệt nói tiếp: “Lão Vương gia xem, cũng thấy cực kỳ có duyên, xuất thân của Minh Châu lại cao quý, lập tức hạ sính lễ thay tiểu vương gia, chọn làm vương phi tương lai cho tiểu vương gia”.
“Chờ đã, chờ đã”.
Người Tịch Tà đầy mồ hôi lạnh, vịn bàn ngồi xuống, “Thầy Tống, thầy chớ trêu tôi”.
Ngô Thập Lục bảo: “Mỗi câu thầy Tống nói đều là thật cả, chủ nhân hãy nghe kĩ”.
“Sau đó họ Nhan bị diệt, tôi nói tiểu vương gia đã mất nên không để việc này ở trong lòng.
Không ngờ hai năm trước tiểu vương gia lại đến Hàn châu, ấy mới hay Nhan Cửu kia đã là Tịch Tà bây giờ rồi”.
Trong vẻ mặt thê lương của Tống Biệt bừng lên vẻ kiêu ngạo, nói, “Tôi từng trải qua biến cố như thế, vốn chẳng coi trọng trinh tiết phẩm hạnh, nghĩ rồi định thôi.
Minh Châu thấy tôi do dự liền nói với tôi, theo tiểu vương gia lên kinh, hầu hạ tiểu vương gia hai ba năm, nếu có thể lập được chút công lao cho tiểu vương gia thì cũng coi như không phụ ân tình của lão vương gia, khi đó mới về Hàn châu, hai cha con trả sạch nợ nần, trong lòng không còn áy náy nữa.
Chỉ là theo tiểu vương gia hai năm, tạm thời Minh Châu chưa dứt bỏ được, giờ tôi nói ra, chắc chắn nó sẽ oán trách”.
“Từ hôn! Trả lại sính lễ! Bỏ! Bỏ! Bỏ hết!” Tịch Tà quát to, “Giấy bút đâu? Viết thư bỏ vợ cũng được!”.
“Chủ nhân!” Khương Phóng đè hắn lại nói, “Thư bỏ vợ gì chứ? Chủ nhân hồ đồ rồi sao?”.
“Vậy trả lại sính lễ”.
Tịch Tà mất hết sức lực, thở dốc một hồi, buồn bã nhìn Tống Biệt rồi cầu xin, “Xin thầy Tống làm chủ”.
Tống Biệt nhìn hắn, cũng thấy thương tiếc, lẳng lặng lắc đầu.
“Thầy Tống!”
“Sính lễ của lão vương gia năm đó tuyệt đối không phải trò đùa.
Ngoại trừ châu báu tín vật còn có vạn lượng bạc trắng, ngay cả phong hiệu cũng đã định là “Hàn Giang phi tử”, giấy trắng mực đen viết rành rành.
Nay tôi hai bàn tay trắng, lấy gì trả cho tiểu vương gia? Nếu hai năm trước phường thêu Hiệt Châu còn có người ra giá một vạn lượng mua thì nay có cho không, hắn cũng không thèm đâu”.
Ngô Thập Lục cả giận bảo: “Chút chuyện cỏn con này mà còn mang thù đến bây giờ! Tiểu vương gia như vậy rồi mà ông còn nói đùa!”.
Tống Biệt vỗ vai Tịch Tà, trong lòng cũng cực kỳ thương cảm, “Đương nhiên tiểu vương gia sẽ không để ý vẻn vẹn một vạn lượng bạc này.
Chỉ là tín vật quý trọng đều ở trong tay Minh Châu, muốn trả lại sính lễ thì đành phải nói trước mặt nó”.
“Tôi biết rồi”.
Tịch Tà thông suốt đứng dậy.
Ngô Thập Lục kéo hắn nói: “Lẽ nào tối nay đi ngay ư? Dù là duyên phận hơn hai mươi năm nhưng chủ nhân sắp khởi hành rồi, trước khi đi còn muốn làm tổn thương trái tim Minh Châu? Làm mất mặt Minh Châu hay sao?”.
“Không cần lo cho ta!” Tịch Tà hất tay ông ta ra, lảo đảo xông đến ngoài cửa, vụt ra từ trong sân.
Gió mát rót vào tai, khuôn mặt đỏ bừng của Tịch Tà mới dần dần lạnh xuống.
Thì ra trái tim của Minh Châu đúng là đặt hết lên người mình.
Tịch Tà mừng mừng tủi tủi, dừng chân ở trên tường cung Từ Ninh, khóc không ra nước mắt, chỉ muốn cất tiếng kêu to tên Minh Châu, muốn nàng nói rõ, sau đó một đao chặt đứt, trừ mỗi hậu hoạn.
“Minh Châu, Minh Châu!” Tịch Tà lẩm nhẩm trong lòng, rõ ràng cái tên này là gợn nước sông Hàn trong veo êm đềm thì sao chém đứt được.
Nhớ lại màu xanh nõn của mùa xuân ấm áp, tuyết trắng trong ngày đông giá rét ở viện Cư Dưỡng là lòng loạn như cào, muốn mở miệng nói một câu lại chẳng biết bắt đầu từ đâu.
“Lục gia?”
Tịch Tà giật mình, thấy rõ thiếu nữ thanh tú tuyệt trần ấy đang nghiêng đầu cười hỏi, “Thì ra trong cung còn có người mà Lục gia bận lòng?”.
Đầu Tịch Tà đau muốn nứt, không ngừng lui lại phía sau.
“Tối nay đã gặp cha tôi rồi ạ?” Minh Châu nhỏ giọng hỏi, “Sao thế? Lục gia vẫn còn giận sao?”.
“Đi theo tôi”.
Tịch Tà kéo ống tay áo nàng, bước về hướng vườn hoa Từ Ninh.
Cảnh vật trên đường toàn là bóng đen dày đặc, trong mắt trong tai Tịch Tà lại chỉ có bộ dạng thướt tha nghiêng đầu và hai chữ bận lòng mềm mại đó.
Thôi cùng đành, gặp rồi mới hay thì ra mình cũng không dứt bỏ, ngày mai xa cách, biết bao giờ mới được gặp lại? Giữ lại chút ràng buộc, chút tình cảm, chút thể diện thì đã lại làm sao?
Tịch Tà nhìn Minh Châu, chỉ thấy hơn hai mươi năm duyên phận chẳng biết kể từ đâu, tất cả bất hạnh của Minh Châu đều do là một mình mình mà ra.
Bây giờ trong lòng chỉ muốn nói với nàng một câu “Mọi việc chờ tôi về rồi nói”, nhưng lại do dự trước nụ cười êm dịu của nàng: Nếu như mình một đi không trở lại, chết ở sa trường thì chẳng lẽ không phải là chuyện may mắn lớn nhất đối với Minh Châu sao?
Nếu hai năm trước mình không đến Hàn châu, có phải Minh Châu cũng đã chọn được tấm chồng tốt, thêu áo cưới trong khuê lầu dưới liễu rũ ngày xuân không?
Nếu như năm đó mình cũng chết theo phụ vương, có phải Minh Châu đã sớm làm vợ người ta, sống ngày tháng vợ chồng kính nhau, con hầu dưới gối không?
Hạnh phúc và bất hạnh, có lúc chỉ sai một li thì sẽ thay đổi nghiêng trời lệch đất.
Có thứ sâu độc dây dưa, ràng buộc cứ như bắt nguồn từ cuống rốn, dù gột rửa, giãy giụa thế nào cũng chẳng ăn thua gì.
Nhan Cửu thành kẻ tàn phế, tất nhiên là bất hạnh của Minh Châu; nhưng nếu Nhan thị vẫn còn vinh quang, thân cận với vua như trước thì sao? Tiểu quận vương ngang ngược cơm ngon áo đẹp và thiếu nữ thanh cao không màng thế sự của Hàn châu nhất định sẽ là một đôi vợ chồng bất hoà, sao có thể sinh ra duyên phận sống dựa vào nhau, săn sóc thương yêu như bây giờ?
Số mệnh không cho hai người một cơ hội nào, bấy giờ Tịch Tà mới chợt phát hiện vuốt sắc của nó luôn bóp chặt yết hầu mình, phẫn nộ và bẩt lực tranh đoạt thần chí hắn, tâm đập thình thịch dữ dội như muốn thoát khỏi gông cùm xiềng xích.
“Lục gia…” Minh Châu phát hiện vẻ hung ác trong mắt hắn, không khỏi lui về sau một bước.
Mọi việc chờ tôi về rồi nói – những lời này đắn đo một lúc lâu – Tịch Tà há miệng nhưng không nói ra được một chữ.
Minh Châu nhìn mặt hắn phì cười.
“Đừng cười!” Tịch Tà thấp giọng bảo, dang cánh tay khóa cơ thể mềm mại của Minh Châu vào trong lòng, nhìn kỹ khuôn mặt dịu dàng của nàng.
Minh Châu run rẩy không biết làm sao, ánh mắt đảo hồi lâu rồi từ từ nhắm hai mắt lại.
Tịch Tà cúi mặt xuống, có thể cảm nhận được hơi thở ấm áp khe khẽ của nàng, dưới vầng trán sáng tỏ như trăng, hàng mi dài đen nhánh không ngừng rung động như tâm trạng của nàng.
“Minh Châu”.
Tịch Tà thì thào, cuối cùng môi cũng chạm đến trán nàng.
Đây chính là Minh Châu – dưới làn da mát lành có sự ấm áp đặc biệt mà lại thiêu đốt lí trí hắn như que hàn.
Cả người Tịch Tà run rẩy, buông hai cánh tay ra rồi từ từ lùi lại gốc cây phía sau.
“Tịch Tà!” Minh Châu kéo tay hắn.
Thiếu niên bình thường rực rỡ loá mắt nom càng u ám, chỉ có đồng tử đỏ sậm, ngón tay lạnh lẽo như tuyết tan trượt khỏi bàn tay nàng.
Không thể quay lại được nữa.
Minh Châu một mình khóc thầm dưới trăng khuyết.[1] Chức phó tri phủ thời Minh, chính ngũ phẩm, phụ trách quản lý muối, lương, bắt trộm, đê sông, hải cương, công trình trị thuỷ, thuỷ lợi,…
[2] Vũ Khương là phu nhân của Trịnh Vũ công thời Xuân thu, do khi sinh con cả Trịnh Trang công rất đau và khó nên không mấy thiện cảm mà thiên vị con thứ Cung thúc Đoàn.
Sau Trịnh Trang công kế ngôi, Cung Thúc Đoàn đã làm loạn với sự giúp đỡ của mẹ nhưng không thành.
[3] Tạm hiểu là quan chuyên về việc mở phủ, sắc phong…
[4] Mũ của hoàng hậu có ba phượng..