“Sao em lại chọn khổng tước?” Thầy giáo hỏi.
“Em…”
”Không sao.” Thầy nói, “Lý do kỳ quặc đến mấy tôi cũng có thể chấp nhận.”
Suy nghĩ của tôi quay về thời điểm khi lần đầu tiên nghe thấy bài trắc nghiệm tâm lý này tám năm về trước, sau đó nói:
“Bởi vì ánh mắt của khổng tước.”
“Ánh mắt?”
“Tất cả các con vật chắc chắn đều muốn cùng em rời khỏi khu rừng. Nhưng
khổng tước cao ngạo như vậy, tuyệt đối không chịu cầu xin, vì thế ánh
mắt của nó có lẽ sẽ mang theo bi thương, thậm chí khi em phải lựa chọn,
nó sẽ trốn ra xa. Nhưng nếu em không chọn khổng tước, nó nhất định sẽ
không sống nổi.”
“Không sống nổi?”
“Lúc
nhỏ các bạn thường bắt chim sẻ về nuôi, nhưng chim sẻ bị nhốt rồi, sẽ
không ăn không uống, thậm chí sẽ cắn lưỡi mà chết. Em cảm thấy khổng
tước giống như chim sẻ, chỉ cần em ra khỏi khu rừng, nó nhất định sẽ
không muốn sống nữa.”
“Còn nhớ tôi đã từng nói bài trắc nghiệm này có rất nhiều cách hỏi không?”
Thầy giáo rút khăn tay ra lau kính, “Bây giờ tôi hỏi em theo một cách
khác.”
“Thầy cứ hỏi ạ.”
“Nếu khu rừng xảy ra hoả hoạn, em chỉ có thể mang theo một con vật chạy trốn, em sẽ mang theo con vật nào?”
“Khổng tước.” Tôi đáp.
“Tại sao?”
“Khổng tước chạy chậm nhất lại bay không giỏi, nếu không mang nó theo, nó sẽ chết cháy mất.”
“Nếu khu rừng bị lũ lụt, em chỉ có thể mang theo một con vật, em sẽ mang theo con vật nào?”
“Vẫn là khổng tước.”
“Tại sao?”
“Khổng tước không biết bơi, chắc chắn sẽ chết đuối.”
“Vậy
nói theo cách lý luận máy móc của bài trắc nghiệm tâm lý này, em quả
thực là người chọn khổng tước.” Thầy giáo nhẹ gật đầu, “Nói thêm cho tôi biết lý do em chọn khổng tước.”
“Trong lòng khổng tước rất rõ, nó không thể sống trong bão lửa hay lụt lội,
nhưng lại không chịu cầu cứu. Nó chỉ đứng từ xa, lẳng lặng nhìn em, ánh
mắt ngập tràn bi thương, hơn nữa còn cố gắng đè nén sự bi thương trong
mắt để tránh bị em phát hiện. Em không biết mình muốn đem theo con vật
nào ra khỏi khu rừng nhất, chỉ biết là nếu không đem theo khổng tước, nó nhất định sẽ chết. Em…”
Còn chưa nói xong, tôi bỗng cảm thấy vô cùng bi thương, cổ họng tắc nghẹn.
Bởi vì tôi đã đem ánh mắt của chim khổng tước hoà vào làm một với ánh mắt của Lý San Lam.
Tôi hắng giọng, rồi mới hỏi: “Thưa thầy, em thật sự là người chọn khổng tước sao?”
“Diễn biến tâm lý của con người là mềm, hơn nữa còn có tính đàn hồi, lý luận
một cách máy móc rất khó ước đoán, cũng sẽ gặp phải sai lầm.” Ánh mắt
thầy giáo trở nên rất hiền từ, vỗ vai tôi nói:
“Con
trai à, con phải nhớ: Người khác không thể phán xét con, trắc nghiệm tâm lý cũng vậy; chỉ có bản thân con mới làm được điều đó.”
Nói xong, thầy cầm tập giáo trình trên bệ bê tông lên, mỉm cười với tôi rồi đi mất.
Tôi đứng tại chỗ suy nghĩ rất lâu, khi sực tỉnh lại, mới chầm chậm đi tới chỗ cây đa.
Ngồi dưới gốc cây chẳng bao lâu, nghe thấy phía sau vang lên giọng nói của một cô gái:
“Bài trắc nghiệm tâm lý trên lớp vừa rồi sao không thấy anh giơ tay, rốt cuộc anh chọn con gì?”
Quay qua nhìn, một đôi nam nữ trông có vẻ là người yêu đang ngồi bên một gốc cây khác.
“Anh chẳng chọn gì.” Cậu con trai trả lời.
“Tại sao?”
“Chỉ cần anh chọn một con là sẽ không công bằng với bốn con kia, vì thế anh không muốn chọn.”
“Không được! Anh nhất định phải chọn một con, dù anh không muốn đi nữa.”
“Hả?”
“Đừng
tưởng rằng anh không chọn con nào là tỏ ra trọng tình cảm, bởi vì chọn
một con, chỉ không công bằng với bốn con còn lại; nhưng nếu không chọn,
sẽ không công bằng với cả năm con vật.” Giọng cô gái rất kiên định, “vì
thế nhất định phải chọn, và đem con vật mình chọn ra khỏi khu rừng, bất
kể là con gì.”
Cậu con trai ngây người ra, không trả lời.
Tôi cũng sững sờ.
Nếu như trong năm con vật đó không có khổng tước, có lẽ tôi cũng giống cậu con trai đó, dứt khoát không chọn gì;
Nhưng tôi đã lựa chọn rồi, tôi chọn khổng tước.
Mặc kệ
trong bài trắc nghiệm tâm lý đó khổng tước có phải đại diện cho tiền bạc và hư vinh hay không, hay là nước Mỹ, bây giờ tôi chỉ biết Lý San Lam
là khổng tước, khổng tước chính là Lý San Lam.
Tôi có thể đem theo khổng tước rời khỏi khu rừng, đó là quyền lợi của tôi, cũng là quyền lợi của khổng tước.
Vội vã đứng dậy, ba chân bốn cẳng chạy về nhà.
Vừa bước vào cửa, còn chưa kịp lấy hơi, đã xông thẳng vào phòng của Lý San Lam.
Tôi xúc động tới quên cả phép lịch sự và lời thề đã hứa, thò tay vặn nắm đấm cửa, cửa không khoá.
Chỉ liếc nhìn một cái, hai chân bỗng hoá đá, sững sờ rất lâu rất lâu.
Đợi sau khi hai chân có thể cử động, tôi quay ra ngoài sân, từ từ ngồi xuống bậc cầu thang.
Tôi biết rõ Lý San Lam đã đi rồi, là một đi không trở lại.
Vì cún con biến mất rồi.