Kim Cương Bất Hoại

Không cần phải nói, ai cũng biết đoàn người ngựa tháp tùng cỗ xe chở đầy kim ngân châu báu của U Linh nữ chủ rất đông đảo, hùng hậu. Lượng lực
vừa mạnh về võ công, lại thêm uy thế vì bất kỳ đi qua châu huyện nào,
các viên chức quan quân trông thấy cờ lệnh phủ Thân vương đều phái người ra cung nghêng đón tiếp rất trọng thể.

Các người cưỡi ngựa đi theo may mắn thêm quần áo sang trọng. Tới chỗ nào cũng lựa chịn trú trọ ở quán dịch dành cho các vương tôn công tử hay
những lữ điếm lịch sự mắc tiền nhất.

Cũng trên đường quan lộ từ miền nam tới vùng Trực Lệ, một nhóm người
khác gồm có một trang thanh niên tuấn tú cỡi con ngựa trắng rất đẹp đi
trước một cỗ xe nhỏ. Chiếc xe bốn bánh này do một con lừa hoa kéo, trên
có năm người, một cậu thư sinh ngồi cạnh người đánh xe dong cương ngồi
đằng trước. Trong xe có một cô gái và hai người trùm đầu che kín mặt mũi ăn mặc ra vẻ gia nhân.

Đi đoạn hậu có một nhà sư cưỡi con ngựa lông đỏ sắc máu, cao lớn trông
không khác ngựa Xích thố của viên tướng nhà Hậu Hán sử dụng thanh Long
đao nhiều nhà treo tranh thờ phụng.

Người đi đường trông ngắm con ngựa đẹp, ai cũng tấm tắc khen, giống như
là ngựa của quan ngài Hán Thọ Đình Hầu. Nhưng người cưỡi ngựa không có
“mặt đỏ râu dài”, mà là một nhà sư đầu trọc mắt ốc nhồi, vai đeo túi bảo đao, nhìn cán đao cũng biết thuộc loại quý hiếm.

Nghe thấy lời khen, nhà sư Nhất Tiếu lấy làm khoái chí. Hắn ngẫm nghĩ:
“Chẳng biết Quan Vân Trường khi xưa khích phách như thế nào nhưng bây
giờ có trăm vạn quân cản lối, ta cũng rút Đại Hoàn kim đao xung phong
hiên ngang không chịu kém...”.

Nhưng trông lên cỗ xe thấy hai Cẩu đầu nhân cứ luôn luôn thò tay vào bọc lấy lương khô ra, tay cầm bánh nướng, tay cầm đùi thịt sấy ăn luôn
miệng... Nhất Tiếu tạm dẹp vẻ hiên ngang cũng đòi một đùi thịt sất và
một bầu rượu ngồi trên mình ngựa, vừa nhậu lai rai dọc đường. Con lộ
chạy qua một bãi cỏ thẳng tắt vắng vẻ.

Thất Tình Tú Sĩ đi trước hô lớn :

- Nhất huynh ơi! Đừng uống rượu nữa. Chúng ta bắt đầu phóng nước đại
chạy cho hết quãng đường này rồi cho ngựa nghỉ. Đêm nay đi suốt đêm.

- Cho nhậu tí đã. Làm gì gấp rút thế?

- Tới chỗ nghỉ hãy ăn uống có phải ngon lành không?

Thế là cả xe lẫn ngựa vượt đường như mây bay gió thổi. Lúc ngựa hồng
vượt lên ngang hàng với con ngựa bạch, Nhất Tiếu giơ cao chân giò heo
lên, khua tít la lớn :

- Mau lên! Mau lên! Ngựa chạy nhanh thích ghê!

Thất Tình Tú Sĩ rỡn cợt :

- Trông Nhất huynh không ra vẻ Quan Công cưỡi Xích thố mà giống như anh trọc ăn cắp đùi chó chạy trốn bị người ta rượt.

Mọi người nghe nói đều cười ầm ĩ. Cả hai Cẩu đầu nhân cũng vẫy tai, tru lên như gấu rừng khoái tỉ.

Ngựa và lừa đã lâu không được dịp sải cho dãn cẳng, bây giờ gặp đường phẳng chạy phi nước đại cho thỏa thích.

Chiều đến khi xe ngừng lại, mọi người tìm chỗ cỏ tốt, nước trong cho lừa ngựa nghỉ ngơi ăn uống. Cuộc sống ngoài trời đầy hứng thú. Hai Cẩu đầu
nhân cả ngày ngồi bó cẳng trên xe, mỗi lần xe ngừng là nhảy xuống chạy
khắp bìa rừng nô rỡn. Lẽ tất nhiên Vương Nhi chăm lo săn sóc cho Tiểu
Bạch ngồi chơi hoặc trải chiếu trên chỗ đất phẳng để Tiểu Bạch nằm nghỉ
ngơi. Còn chàng lúi húi bắt đầu đánh lửa, nấu nướng, thổi cơm rất chăm
chỉ.

Lương thực đủ các thứ mang theo trên xe rất nhiều. Vì vậy dọc đường
không cần phải tìm nơi trọ. Chờ tới nửa đêm, đoàn người trở dậy rong
ruổi trên đường thiên lý, thay phiên nhau cầm cương, có khi cho lừa chạy không để ngựa kéo xe, vì vậy đi được nhiều dặm đường mà người và vật
đều không bị mệt mỏi.

Cũng có đêm, hai Cẩu đầu nhân xuống đẩy xe chạy đua với ngựa hoặc hai chàng thiếu hiệp phi hàng chạy theo xe.

Tiểu Bạch cũng không chịu kém, nàng cũng xuống xe, tay chống Long Hình
Xạ Kiếm, tai nghe tiếng bánh xe ầm ầm hoặc tiếng vó ngựa nện trên mặt
cỏ, nàng trổ tài Vũ bộ khinh công, khiến hai chàng thanh niên phải cầu
xin chỉ dẫn bí pháp để tập luyện.

Có đêm chỉ còn Vương Nhi và người làm công ngồi trên cỗ xe buộc hai ngựa một lừa cho khỏe. Còn tất cả những người kia đều xuống xe chạy bộ hết,
người chạy thi với người, lại tới trò người chạy thi với ngựa, quần quật như thế tới sáng.

Chạy nhiều đói, cần ăn nhiều. Nhất Tiếu và hai Cẩu đầu nhân tiêu thụ
thực phẩm nhanh nhất. Lừa ngựa cũng ăn khỏe. Tới chỗ nào có đồng cỏ tốt
là bọn người xúm lại cắt cỏ bó lại thành bó lớn chất sẵn lên lưng lừa
ngựa để làm lương thực cho chúng.

Sang tới tuần thứ hai thì phải tìm vô thị trấn mua thêm ít gạo và các đồ gia vị mắm muối.

Đi qua một gia trang nhỏ, một toán đông mười người xông ra chẹn đường
đi. Chúng chia nhau bao vây tứ phía. Tay người nào cũng cầm khí giới.

Tên đầu đảng cầm một cây đinh ba, người cao lênh khênh, mặt gian ác, đôi lông mày rậm giao mi trông tăng vẻ ngộ nghĩnh.

Nhất Tiếu dừng ngựa hỏi :

- Bọn ngươi muốn gì? Đón đường đòi nạp tiền mãi lộ phải không?

- Trông lũ bay cũng chẳng giàu có gì! Chúng ta thấy ngươi cỡi con ngựa hồng đẹp quá nên muốn ngươi nạp con ngựa... để mua đường.

Mọi người tưởng mấy tên lâu la này đòi ngựa Huyết Hãn thần câu của Nhất
Tiếu thì anh chàng lỗ mãng sẽ tuốt đao ra tay động thủ. Ai ngờ chỉ thấy
Nhất Tiếu ngoan ngoãn xuống ngựa. Chàng cúi đầu xính vính vái chào tên
đầu đảng và lễ phép nói rằng :

- Kính thưa Trại chủ! “Quý vật tầm quý nhân”. Trại chủ có mắt tinh đời
nhận biết thần câu, kính xin dâng ngựa để Trại chủ cưỡi dùng xem Trại
chủ có phải là tay kỵ mã đại tài không?

- Lại còn phải hỏi! Ngựa bất kham hung dữ đến đâu ta cũng có cách trị.
Đưa cương cho ta cưỡi thử xem ngựa ngươi có thực là hảo mã không?

Nhất Tiếu không ngần ngại trao dây cương cho hắn và quay lại ra hiệu cho bọn người Thất Tình Tú Sĩ cứ việc tiếp tục hành trình. Lẽ tất nhiên
Nhất Tiếu cũng leo lên xe ngồi cạnh Vương Nhi, giật cương cho lừa chạy
không đoái hoài đến ngựa quý của mình đã trao cương sang tay người khác.

Đi được một quãng, Thất Tình Tú Sĩ hỏi :

- Nhất huynh chịu mất không ngựa cho mấy tên tặc đồ ấy à?

- Cao đệ đừng lo, mất thì thôi có ngại chi!

- Lạ nhỉ?

Tiểu Bạch cũng phải ngạc nhiên nói: “Lạ nhỉ? Nhất huynh hôm nay hiền khô hơn Bụt và có lòng thảo ghê? Cho ngựa tốt lấy gì mà cưỡi...”.

Ai ngờ Tiểu Bạch nói chưa dứt lời đã nghe thấy tiếng ngựa hí vang ầm,
con hồng mã như ngựa điên quật tên đầu đảng ngã lăn quay xuống đất rồi
nó chồm thẳng lên và dùng hai vó trước đạp chết tên tặc đồ tham bạo nọ.

Bọn người tuốt binh khí xông vào định đánh chém con thần mã. Nhưng nghe
tiếng nó hí nhức óc, hung hăng hơn hổ dữ, mỗi cái đá hậu là lại có một
tên bị ngã lăn chết tốt.

Chỉ trong chốc lát, cả bọn chặn đường cướp ngựa đều bị ngựa đá tử
thương. Tên cuối cùng bị con hồng mã cắn thắt lưng nhấc bỗng và chạy vứt cho rơi tòm xuống ngòi nước.

Sau khi đả thương bọn cướp xong, con hồng mã chạy theo cỗ xe tới gần
Nhất Tiếu nhe bộ răng trắng nhỡn như nó cũng muốn cười như chủ nó.

Nhất Tiếu nhảy lên lưng ngựa và dẫn cỗ xe đi vào trong thị trấn, miệng huýt gió vui vẻ.

Hỏi thăm tìm đường đến chợ, mọi người dừng xe vào chợ chọn mua thức ăn.
Mua bán xong xuôi, Nhất Tiếu yêu cầu mọi người cho phép hắn đi tìm tửu
lâu để mua ít rượu ngon.

Thất Tình Tú Sĩ ngăn cản mà rằng :

- Mã bá mẫu trước khi đi đã căn dặn Nhất huynh đừng uống rượu nhiều dọc
đường. Nên đi mau chóng tới Trực Lệ xong việc về ngay. Rượu kích thích
khiến dễ “sinh sự sự sinh”, gây ra nhiều điều phiền toái.

Nhất Tiếu trả lời :

- Cao đệ vừa mục kích ta gặp sự ngang ngược chi lai nhi bất nộ. Tức giận bị đoạt ngựa mà vẫn “tỉnh khô”, bình tĩnh và kiên trì. Ta biết phục
thiện theo lời khuyên của hiền đệ, nhưng... trông kìa nơi biển treo Thần Châu đại tửu gia có quảng cáo thượng hảo hạng Bách Hợp tửu mà không cho mua vài hũ thì... con sâu rượu trong bao tử nó sẽ nổi loạn. Như vậy ta
sẽ mất bình tĩnh và không còn tự chủ được nữa.

Tiểu Bạch nghe nói bật cười :

- Thôi để Nhất ca được “nhân sinh quý thích chí” một chút. Mua xong chúng ta khởi hành còn sớm.

Nhưng không ai ngờ chỉ vì mấy vò rượu Bách Hợp mà sinh ra chuyện lôi thôi, rắc rối.

Số là lúc Nhất Tiếu từ trong Thần Châu tửu lầu đi ra, hai tay xách hai
hũ rượu lớn, mỗi hũ đựng tới mười cân rượu ngon thì đụng phải một thiếu
phụ ăn mặc lòe loẹt.

Trông thấy nhà sư trọc đầu hai tay xách hai vò rượu đụng chạm phải mình, ả quen thói chua ngoa mắng lớn :

- Thầy chùa “đui” sao mà đi đụng người ta mạnh dữ vậy.

Nhất Tiếu nhịn nhục không nói năng chi cả, rảo cẳng bước lại chỗ xe chỗ chờ. Thế là mụ đàn bà được thể chua ngoa :

- Thầy chùa hổ mang, ban ngày ban mặt mua rượu uống phạm giới, lại còn
đùa bỡn phụ nữ, cố tình xô đụng nhũ hoa người ta không biết mắc cỡ.

Chuyện giữa phố phường và chuyện đụng nhau là chuyện thường. Nhưng lời
nói ác ý của thiếu phụ nọ giữa đám đông có sức mạnh hơn phát chưởng đủ
mười hai thành công lực lôi kéo sự chú ý của kẻ khác.

Mọi người nhao nhao :

- Sư hổ mang! Sư hổ mang chọc ghẹo phụ nữ!

Đầu đường truyền ngôn là sư hổ mang ghẹo phụ nữ, cuối đường truyền ngôn là sư hãm hiếp đàn bà...

Thế là có nhiều người trong các cửa hiệu trong phố phường quanh đó ùn ùn kéo tới.

- Bắt lấy nó! Bắt lấy nó! Tên đầu đà quái ác chuyên hãm hiếp đàn bà con gái ban đêm.

Đông đảo nhất là phe “tam cô lục bà” tranh nhau tiến sát lại cạnh Nhất Tiếu, túm bắt níu kéo lấy chàng la lối :

- Đem giải quan! Đích thị thằng cha to lớn này đã hãm hiếp con gái tôi, em gái tôi, con dâu tôi...

Thất Tình Tú Sĩ biết rằng trong trường hợp nào cũng không “bất khả nộ chúng” chọc tức đám đông sẽ gây nhiều hậu quả nguy hại.

Chàng đành nhìn Nhất Tiếu mặt đỏ gay vì tức giận, mà rằng :

- Nhất ca đã nói mặc dù sự ngang ngược chi lai, nhi bất nổi sùng. Đệ muốn xem Nhất ca thi hành chữ “nhẫn” đến mức độ nào?

Mắc hai tay cắp hai vò hảo tửu, Nhất Tiếu liền lấy chân xuống tấn, hai
bàn chân như đóng đinh xuống đất, thân người như cột trời trồng.

Đừng nói là đám đông phụ nữ xô đẩy như châu chấu đá xe không chuyển,
phải nói là có huy động thớt voi tới kéo cũng chưa chắc lôi Nhất Tiếu
nhích đi nửa bước.

Vương Nhi ngồi trên xe thấy gia mắt chướng tai, không thể để cho các nữ
“nặc nô” sỉ nhục vị sư huynh đáng kính của mình, chàng liền sắn tay áo
mạnh dạn bước xuống xe can thiệp.

Thấy chàng thư sinh mặt mũi khôi ngôi đẹp trai đứng đắn, rẽ đám phụ nữ
xông vào. Những “tam cô lục bà” cũng dừng tay bấu núi, chờ xem chàng thư sinh định phân bua làm sao.

- Các người thật là thậm chí hồ đồ. Sư huynh tôi cùng bọn tôi từ xa tới
đây, trên người bụi đất bám đầy quần áo, mày tóc. Đồi đất đỏ cách đây
trăm dặm, làm sao mà sư huynh tôi có thể ở đây mà hãm hiếp đàn bà các cô như vậy?

Miệng nói, Vương Nhi vuốt tóc đầu mình và vành lỗ tai, cổ áo Nhất Tiếu,
chỉ cho mọi người thấy bám đầy bụi đất đỏ mà trong vùng thị trấn này
không có.

Có tiếng nói :

- Người ta thấy lạ, sư mô gì mà lại vào tửu lầu mua rượu, ai không sinh
nghi. Đơn báo quan ban đêm thầy tu hái hoa trên phủ nha cao cả thước.

Vương Nhi vặn hỏi :

- Mua rượu nhưng chưa phải là uống rượu. Sư huynh tôi bình sinh lực
lưỡng nên mới một mình xách hai vò rượu lớn này. Tôi muốn uống rượu, tôi không thể nhờ sư huynh tôi vào hiệu mua hộ, xách hộ tôi ra xe hay sao?

- Nhưng trong bóng tối, tôi nhìn thấy thân hình ông trọc đầu này to lớn
như Hộ pháp, hao hao giống như ông trọc đầu đã lẻn vô phòng con gái của
cha tôi đêm qua...

Vương Nhi la lối :

- Thật là vô lý hết sức. Trong đêm tăm tối, nhìn dáng vóc to lớn, thấy
đầu trọc hao hao giống mà... lại dám đoạn quyết là sư huynh tôi, thực là lãng xẹt hết chỗ nói? Dè chừng cả tỉnh thành này, chỉ có một nhà sư
trọc này hay sao?

Có người đáp :

- Đúng như vậy. Trong thị trấn Diễm Phố này, không có một ngôi chùa chiền nào cả. Như vậy làm gì có thầy tu hay hòa thượng?

Có tiếng trong trẻo cất lên giữa tiếng xì xầm, mọi người đương bàn tán, mỗi người một ý, kẻ nói đúng, người bảo sai.

- Đây là Diễm Phố hả?

Mọi người nhìn lại thì ra Tiểu Bạch đã từ trên cỗ xe bước xuống. Khuôn mặt nàng đẹp như ngôi sao hiện ra giữa bầy đom đóm.

Nhưng đôi mắt có giải lụa bịt kín nên không ai nom rõ mắt nàng, chỉ
trông thấy đôi mi lá liễu cong vành bán nguyệt dài hơn đuôi mắt.

Tuy nhiên ai cũng phải công nhận, cô gái là một trang tuyệt thế giai
nhân, nếu sinh trưởng tại thị trấn này tất phải đoạt ngôi hoa hậu.

Nàng tiếp tục hỏi :

- Thôi đúng rồi. Thần Châu tửu lầu tại Diễm Phố. Nơi bán loại Bách Hợp
tửu có tiếng mà phụ thân ta vẫn dùng để đãi tân khách.... Vậy thì chủ
nhân phải là người họ Sinh... tên là Thái Trường. Ở đây, có vị nào biết
ông Sinh Thái Trường không?

Có tiếng đàn bà đáp :

- Sinh Thái Trường tôn ông là chủ nhân của tôi. Ông là một vị thân hào
nhân sĩ giàu có nhất tỉnh. Nói đến tên ông, trẻ nít lên ba cũng biết.

- Vị nào làm ơn nói giúp ông Sinh Thái Trường ra gặp tôi. Tôi tên là
Tiểu Bạch Quỳnh Như muốn nhờ “người” làm chứng câu chuyện này.

- Làm sao mà mời chủ nhân ra đây gặp cô được? Cô muốn thì cô nhờ người dẫn vô mà nói với ổng chớ!

Thất Tình Tú Sĩ cột ngựa vào thành xe, giao cho người đánh xe coi giữ,
chàng rảo bước vào Thần Châu đại tửu lầu để tìm gặp chủ nhân có danh
tính là Sinh Thái Trường.

Trong lúc chờ đợt thì cậu thư sinh Vương Nhi lấy giọng “thầy đời” giảng thuyết cho mọi người nghe :

- Các người ít đọc sách không biết chuyện. Ngày xưa ông Khổng Tử có dung mạo hiền từ của một thánh nhân, có bộ râu ba chòm đi đến nước Khuông.
Ông Khổng Tử hiền lành như Bụt thế mà dân chúng họ còn tưởng lầm là một
tên tướng cướp giết người tên là Dương Hồ. Họ xúm lại định hành hung
khiến học trò Ngài là ông Trọng Do phải rút kiếm ra để bảo vệ cho thấy,
về sau đức Khổng Tử lấy đàn ra đánh, bày tỏ cho mọi người biết là anh
tướng cướp giết người vũ phu, không biết đánh đàn hay như ngài, mọi
người mới biết là mình nhận lầm. Nay tôi nói cho mọi người biết sư huynh tôi là đệ nhất đồ đề của cụ Tịnh Hải đại pháp sư ở kinh thành Lâm An
đấy, cả nước biết tiếng cụ mà sao các người dám vu cáo cho đồ đệ cụ
là... sư hổ mang chuyên hái hoa?

Nghe danh hiệu cụ Tịnh Hải đại pháp sư, có vài cụ bà đằng xa chắp tay, niệm rối rít “Nam mô A Di Đà Phật!”.

Bọn phụ nữ không dám đứng quanh Nhất Tiếu nữa. Nghe thấy Vương Nhi ca
tụng mình, chàng khoái quá, hai lỗ mũi phổng to, vẻ mặt dương dương tự
đắc tưởng mình đã đầy đạo hạnh, sắp sửa viên mãn thành một bực chân tu
đến nơi.

Nhưng sực nghĩ, dù ta có trở nên bậc chân tu thiệt chăng nữa, ta cũng không rời bỏ hai hũ rượu cắp nơi hai tay.

- Kìa kìa, cụ Sinh Thái Trường ra kia kìa. Không biết dính dấp chuyện
này,cụ định xử trí ra sao? Cụ sẽ khép tội hay bênh vực nhà sư?

Đám đông dãn sang hai bên.

Mọi người nhường lối cho một vị thân hào, đầu đội huyền cân, bận áo lục
đoạn, tay cầm ống điếu hút thuốc lào, đúng vẻ người giàu có, có thế lực
trong phố.

Nhưng khi trông rõ tiểu thư Tiểu Bạch, ông ta vội đưa điếu thuốc cho đầy tớ đi bên và chắp hai tay vái chào một cách cung kính :

- Trời ơi! Tưởng ai hóa ra tiểu thư. Không ngờ tiểu thư giáng hạ, xin
lại tệ xá được hầu tiếp. Lão đội ơn tiểu thư và cố chủ. Dù bao năm xa
cách, đường xa thiên lý, nhưng trong lòng bao giờ cũng canh cánh nhớ tới ân nghĩa khi xưa ở Diêm Bình phủ, “ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước
nhớ nguồn”, gia đình lão ngày nay có đủ miếng cơm ăn không dám quyên
mình là kẻ hầu hạ trong Quảng Mục trường khi xưa.

Dứt lời, vị thân hào không ngại nơi hè đường đất bụi, sụp lạy xuống trước mặt Tiểu Bạch.

Các mụ “thị mẹt” nỏ mồm hồi nãy, thấy sự thể biến đổi như vậy không kịp
chờ phải đuổi, thảy đều len lén rút lui ra xa. Vương Nhi đứng gần đấy,
đỡ chủ nhân Thần Châu tửu lầu đứng dậy.

Ông ta một mực nài nỉ mời cho được tiểu thư Tiểu Bạch và các người trong xe vô đại tửu lầu của ông để cho vợ con ông ta được diện kiến.

Ông ta bảo người tài phú hoàn lại số tiền rượu Nhất Tiếu vừa trả. Ông hối người kêu vợ con ra níu kéo cho thêm kính trọng.

Bọn người đứng xem thấy vậy, biết Nhất Tiếu và nhóm người Tiểu Bạch là
những người đàng hoàng đứng đắn, nên mới đặng sự kính nể của ông Sinh
Thái Trường. Sự cãi nhau đôi co lúc nãy chỉ là một sự ngộ nhận hiểu
lầm... nên không ai bảo ai, họ bỏ đi hết cả.

Lúc này gia quyết thân chủ và các người làm xúm quanh cỗ xe mời mọc. Nhưng Tiểu Bạch khoát tay nói cho ông ta biết :

- Chúng tôi có việc cần đi ngay, không thể ở lâu thêm giây phút nào được nữa. Tôi biết địa chỉ ở đây rồi, xong việc thế nào cũng ghé qua thăm và phiền nhiễu. Sư huynh tôi hôm nay bị người ta tưởng lầm với ông trọc
đầu có tính “hảo ngọt” nào đó? Nhưng nhờ chủ nhân tốn công nhận biết,
mọi sự hiểu lầm đều minh bạch. Như thế chúng tôi cũng đội ơn lắm rồi!

Nhất Tiếu đặt hai hũ rượu lên xe, nhảy lên ngựa cùng Thất Tình Tú Sĩ vái chào ông Sinh Thái Trường lên đường.

Tiểu Bạch cũng lên xe, ân cần cảm ơn chủ nhân và gia quyến một lần nữa
rồi ra hiệu cho người làm công giật dây cương cho lừa chạy.

Vị thân hào đứng ngẩn người, than tiếc không sao lưu lại được công
nương, con cố chủ bao nhiêu năm mới có một lần đặt chân tới Diễm Phố, mà chẳng thể mời ở chơi được một bữa lâu dài.

Ông cũng không quên rầy la những người đàn bà nông nổi nhẹ dạ, không
chịu xét đoán kỹ càng, nghe thấy người ta nói là sao thì hùa nhau tin
làm vậy, gây ra những chuyện... giữa chợ nhận lầm áo người là của mình.

Khi xe đi một quãng rất xa, Thất Tình Tú Sĩ cho ngựa đi song đôi với
ngựa Nhất Tiếu, cùng sáp lại bên xe để vừa đi vừa nói chuyện.

Thoạt tiên Thất Tình Tú Sĩ khen ngợi Nhất huynh đã biết nén sự tức giận, không nổi sùng lúc bị dân chúng bao vây làm khó dễ. Tiểu đệ chỉ lo Nhất huynh nổi nóng, đánh đấm tứ tung thì thiệt là khó xử.

Nhất Tiếu tỏ vẻ ân hận trả lời :

- Tất cả do lỗi tại ta. Ta quá cao hứng thèm uống rượu nên mới nhiễu sự, thực đúng lời mẫu thân dặn “Hành đại sự không nên nghĩ tới rượu chè”,
ta thành thực xin lỗi mọi người. Nhưng có lâm sự mới biết Vương ca cũng
là một tay có tài biện bác, ứng đối lanh lẹ, không phải chỉ biết có tiểu thư và nấu bếp mà thôi. Tiểu đệ rất kính phục hào khí của Vương huynh
lúc mắng nhiếc các bà các cô “ba trợn”. Cả tiểu thư nữa, cũng... hay
lắm. Có xuất ngoại giang hồ mới biết kẻ nọ phải nhờ kẻ kia mới dễ gỡ
nhưng mắc míu khó khăn mắc phải.

Tiểu Bạch khiêm tốn :

- Tụi chúng mình cứ người nhà khen tặng nhau hoài. Thật tình vì hết
lương thực nên mới phải rẽ vô chợ mua bán. Đi vào chỗ đông người khó
tránh gặp sự phiền phức. Cực chẳng đã em mới phải tiết lộ danh tính,
chúng ta đang lo công tác mà để lộ hành tung cũng là một điều sơ hốt. Từ nay, chúng ta nên cẩn thật thì hơn.

Mọi người đồng khen phải.

Nhưng sự gì xảy ra thì tự nhiên nó sẽ xảy ra, dù tránh cũng khó thoát.

Lúc trời đã về chiều, mọi người đương nhìn sang hai bên vệ đường tìm chỗ dừng xe để lo cơm nước nghỉ ngơi.

Tới một thạch kiều, mọi người định vượt qua thì thấy mấy người dân quê
gồng gánh đứng xúm xít với nhau. Họ không dám qua cầu. Họ lấm lét nhìn
lên cầu đá như có sự gì ngăn trở nơi đó.

Nhất Tiếu dừng ngựa dọ hỏi đầu đuôi. Người có tuổi trong đám trả lời :

- Thiệt là kỳ! Từ hồi nãy, ở trên bờ đá thạch kiều có một người to lớn
như... nhà thầy, nằm ngủ cong queo. Đàn bà con gái gồng gánh đi chợ về
qua cầu không sao! Nhưng đàn ông chúng tôi anh nào đi qua là tự nhiên có ma xô té... lăn tròn xuống sông. Đã có hơn chục người bị ngã như thế
rồi. May hồi này không có nước ròng, nếu không có kẻ bị chết trôi rồi.
Bây giờ còn mấy người chúng tôi tụ tập nơi đây, hỏi han nhau, chưa ai
dám đi qua cầu đá nữa. Muốn qua sông, không có đò!

- Thằng nớ nó muốn làm “ông kẹ” phải không? Nó có dùng tay chân xô đẩy hay đá đạp người ta lăn xuống sông không?

- Không, chúng tôi nhìn kỹ thì thấy hắn ta nằm yên không động đậy.

- Hắn ta nằm yên thì tại sao các người kia lại bị té rớt xuống sông?

- Vì thế tôi mới nói là kỳ chớ. Bây giờ nhà thầy có muốn biết vậy không
thì nhà thầy cứ qua cầu. Nếu nhà thầy có tài trừ ma trị quỷ qua đặng
bình an thì chúng tôi sẽ bắt chước qua theo.

Nhất Tiếu xuống ngựa, buộc dây cương vào thành xe rồi xăm xăm bước lên
cầu, hai làn nhỡn quang chiếu thẳng vào chàng đại hán đầu chít khăn trùm kín mặt, đương ngủ ngáy khò khò...

Cầu cao gió mát, bờ đá phẳng rộng, nằm ngủ hóng gió rất tốt. Nhất Tiếu
tôn trọng tự do kẻ khác, không muốn làm rộn y. Chàng quay đầu nhìn sang
mé sông thấy dòng nước lững lờ trôi, phong cảnh tuyệt đẹp.

Nhưng một làn “nhu phong” cuộn lấy chân chàng định nhấc bổng chàng lên
cho rơi xuống nước. Nhất Tiếu xoay thân mình nhanh như chớp, xòe bàn tay chận luồng gió mạnh, nghe đánh ầm một tiếng, đá sỏi bắn tứ tung. Chàng
đã mượn đà phóng chưởng, nhảy xẹt lại cạnh đại hán giật giải khăn màu
xanh che mặt.

Một cái đầu “trọc tếu” thứ hai lộ ra. Trên thạch kiều hiện lên hai nhà sư to lớn mặt đối mặt, hầm hè nhìn nhau không chớp mắt.

Hòa thượng cải trang vờ ngủ, nhìn trộm đàn bà, đánh trộm đàn ông, nham nhở cười hí hí, nhe bộ răng trắng ởn, văng tục :

- Bá ngọ tên khốn kiếp bỗng dưng giật khăn làm mất giấc ngủ của ta.

Nhất Tiếu cũng quát lớn lại rằng :

- Mày mới thật là sư hổ mang cải trang làm thường nhân chuyên môn đánh
lén. Ta không treo ghẹo gì mày, cớ sao dám phóng “nhu quyền” để đẩy ta
té xuống sông?

Vừa nói, vừa định thần ngắm kỹ thì thấy tên lạ mặt trọc đầu này rất diêm dúa, xức dầu thơm, ngực đeo dây chuyền vàng lớn, cổ sau gáy còn bê bết
phấn son phụ nữ.

Hắn ta cười hì hì rất khả ố, liếc nhìn Nhất Tiếu một cái rồi nói :

- Trong cỗ xe của sư huynh, bần tăng thấy một bông hoa thơm và đẹp “số
zách”! Chúng mình có thể kết làm đồng bọn đồng môn được chăng?

Nhất Tiếu thét lớn :

- Dâm tặc! Chính mi là tên ác tăng “hảo ngọt” đa phạm nhiều án hái hoa
trong Diễm Phố phải không? Muốn sống chịu trói cho ta giải quan chịu tội nghe không? Đừng nói lời càn rỡ nữa.

- Giải quan chịu tội ư? Vào trong huyện đường ban ngày ư? Và hì hì...
trong đó ta sẽ tự tha tội cho ta. Này chú mày đừng làm dữ vội. Hãy nghe
đây. Ta xuất gia thờ Phật. Ta không muốn phạm giới sát sinh, nhất là lại sát sinh giết người đồng đạo, tăng lữ như nhà ngươi. Việc ta làm phải
quấy không liên can gì đến mi. Chớ có nhiều lời, “kim câu” của ta có thể làm mi thành quỷ không đầu thì đừng có trách là ta không báo trước.

Nói rồi hắn toe toét cái miệng loe như miệng ống nhổ, hỏi thêm rằng :

- Từ lúc ở trước cửa đại tửu lầu Thần Châu, ta đã trông thấy mi, hai tay xách hai hũ rượu lớn, xét ra “quý tăng” cũng là bợm nhậu hữu hạng. Ở
đời có “tửu” thì phải có “sắc”. Bần tăng tửu lượng có phần kém, nhưng
vấn đề thứ hai thì đã nổi danh thiện hạ. Vậy hai thằng trọc chúng ta kết hợp lại làm một, thành một khối “tửu quỷ, sắc ma”, đi đâu cũng có đôi,
làm bầu bạn, đồng đạo, đồng môn, đồng chí, đồng chóe có phải nhất cử tam tứ tiện lợi, danh tiếng một thời không?

Nhất Tiếu nghĩ bụng: “Đích thị tên này là một thằng trong số bốn anh em
quái tăng “Ngạo, Lãng, Mê và... hiếu sắc”. Nể mặt thằng anh nó đã kể cho ta nghe chuyện bịnh hoạn di truyền của cha mẹ chúng, không lẽ ta lại
đan tay giết đi?”

Hắn đứng lặng yên ngẫm nghĩ rồi nói :

- Này đạo hữu, hãy nghe ta “thuyết pháp”! Cõi đời này đều vay mượn cả,
Phật đã bảo chúng sinh như vậy. Cái đầu trọc này cũng là đồ vay mượn. Bộ quần áo, dầu thơm, xúc xích vàng đeo cổ thay tràng hạt, đôi kim câu
giắt sau lưng đều là đồ ta “vay mượn” cả. Sắc đẹp cũng là đồ vay mượn.
Ta biết thế nên ban ngày, như mọi khi, ta tìm một chỗ lánh mặt trần
gian, chăm lo tĩnh tọa vận công để đả thông Sinh Tử huyền quan, tiến tới mục đích Lục Hợp Quy Nhất. Ta biết dùng pháp “Ẩn ác Dương thiện” mà.
Nếu ta có phải sắc giới đều do có sự thỏa thuận của đối phương, không hề có sự nài ép, vì ta biết ở đời các sự nài ép đều... trái với quy luật
“thiên nhiên”. Hôm nay, sở dĩ ta “phá giới” ban ngày, làm cái việc...
trái với Trời Phật dạy... vì ta trót được chiêm ngưỡng cái nhan sắc tệ
hại có thể làm “đổ trời động đất” của “cô bạn” trong xe quý đạo hữu đó.
Ta nằm chờ đón đường cô ta ở trên cầu này từ lâu. Sự chờ đợi dễ khiến
sinh bực tức nên ta có đá lộn nhào mấy thằng... đàn ông đáng ghét, mặt
mũi xấu xí xuống sông. Bây giờ ta đã cởi lòng cởi dạ như đã bóc chiếc
bánh tét cho quý đạo hữu hiểu thấu tâm trạng của ta, vậy quý đạo hữu còn chờ gì mà không giới thiệu ta với... giai nhân để ta thỏa mãn tấm lòng
ngưỡng mộ “người đẹp”.

Nhất Tiếu đáp :

- Mày thực là một tên sư khốn nạn, làm dơ dáy cả thiền môn. Ta có uống
rượu, nhưng là “rượu tiên rượu thánh”, uống rượu để ca tụng sự cao siêu
của tạo hóa, lòng từ bi như biển của Thế Tôn, chớ đâu có xếp cùng hạng
như loài... ngạ quỷ sắc dục như mày? Tiểu thư trong xe hiện nay mắc nạn
bị hư đôi mắt, mày không tỏ chút lòng thương cảm mà lại sinh lòng tà
bậy, tội thực đáng chết, ta không thể nào dung tha được.

“Hảo ngọt” hòa thượng ngạc nhiên :

- Ủa? Giai nhân bị mù sao? Mù thì mù mà vẫn đẹp có thể làm chết người
được. Vậy ta tình nguyện đem lòng hỉ xả “thương” người để làm kẻ... dắt
đường “hầu hạ” cô ta được chăng?

Nhưng chỉ nghe soạt một tiếng, bảo đao đã rút ra khỏi vỏ. Đạo kim quang lấp loáng nhắm đầu “dâm” hòa thượng chém xuống.

Ái Hoa hòa thượng là tay võ nghệ cao cường. Từ lúc khởi đầu hắn vẫn đứng trên thạch kiều ở chỗ cao nhất để chiếm thượng phong khi giao đấu.

Bản cầu hẹp chỉ đủ một xe qua, hai bên cầu thành đá cao nên chiếm địa thế rất lợi, vì đứng thấp khó tấn công hơn.

Hắn thoái bộ rất nhanh nhẹn và vung đôi kim câu, hai đầu có lưỡi bén
cong như hai câu liêm vừa chém vừa đoạt võ khí địch nhân dễ dàng.

Đao câu chạm nhau kêu loảng xoảng. Hai người ác chiến giữa nơi cầu. Phép đánh câu của Ái Hoa hòa thượng rất tinh diệu, lưỡi kim câu mỗi lần chém lại xoay ngoắc vào cổ tay địch thủ rất lợi hại.

Vì không có chỗ địa thế rộng rãi nên Nhất Tiếu khó thi triển toàn bộ đao pháo nên đơn đao không thể đánh bại đối phương trong chục chiêu đầu.
Mỗi lần chàng huy động Đại Hoàn kim đao, Ái Hoa hòa thượng phải vận dụng kim câu mới đỡ nổi.

Mỗi lần kêu choang là một lần Ái Hoa hòa thượng thấy hai cánh tay tê
chồn lại. Y biết Nhất Tiếu có sức mạnh phi thường, không dễ gì dùng móc
câu giật được Kim Đao ra khỏi tay địch thủ.

Nhất Tiếu cũng định tâm dùng trí để đoạt binh khí của đối phương. Nguyên Đại Hoàn đao có một vòng lớn, hai vòng nhỏ ở sống đao, nếu xoay lưỡi
đao khiến cho mũi cong kim câu móc vào thì hai đồ binh khí sẽ xoắn tít
với nhau không gỡ ra được.

Đó là một điều nhà sư Ái Hoa không ngờ tới, chỉ dụng tâm thuật đoạt binh khí của người nhưng không nghĩ tới chuyện kim đao có thể míc giật lấy
kim câu của mình.

Nhất Tiếu sử dụng một thế võ cực hiểm hóc. Chàng xoay lưng trở lại chờ
cho song câu bổ xuống hai vai, chàng té lăn cù, dùng cước đá vào tay hữu địch nhân, đồng thời dùng vòng đao cho móc xoắn lấy kim câu tay tả.

Một khi đao câu đã dính chập với nhau, tay trái Nhất Tiếu buông ra một quyền đánh trúng vai Ái Hoa nặng hơn búa tạ.

Bị đau, nhà sư “hảo ngọt” đâm ra luống cuống nên Nhất Tiếu vung đao giật lấy kim câu khiến hắn ta chỉ còn một lưỡi câu tay tả.

Biết gặp phải đối thủ vô địch, hắn đánh chiêu sát thủ, lao chiếc kim câu còn lại vào người Nhất Tiếu. Nhưng Nhất Tiếu đã đoạt được phần thắng,
nhảy vọt lên bờ đá thành cầu và vung đao chém ngang một nhát như một đạo cầu vồng vắt ngang trời.

Thực là trái ngược! Nhất Tiếu đã tính đúng khiến mũi nhọn kim câu mắc
ngay vào chiếc vòng thứ hai trên sống đao, thế là song câu dính chùm với kim đao làm một.

Ái Hoa hòa thượng khiếp đảm, vì xưa nay đôi kim câu của hắn đã giật
không biết bao nhiêu binh khí và chém đứt không biết bao nhiêu bàn tay
võ lâm cao thủ. Thế mà bây giờ, lần đầu tiên trong đời hắn bị mất cả
song câu vì một thanh đao.

Bỗng có tiếng người từ phía xa gọi vọng lại. Đúng âm thanh trong trẻo của Tiểu Bạch :

- Nhất ca đừng sát hại hắn. Chính là em của Lãng hòa thượng và Mê hòa
thượng đấy. Nếu giết đi, chúng ta biết nói sao với hai người đó.

Nhất Tiếu thu lấy song câu, vứt xuống đất, tra Đại Hoàn đao vào vỏ. Chàng vẫn căm tức nói lớn :

- Không giết thì thôi, nhưng phải đánh cho nó một trận để chừa... cái tật “máu con dê”. Nói rồi chàng cử quyền đánh tới tấp.

Ái Hoa vừa la lối, vừa giơ hay tay đỡ, lùi xuống chân cầu :

- Tiểu thư quen biết anh ta thì ta tôn làm bậc “liền chị”. Còn sư huynh
đừng đánh đệ nữa, đánh thì đánh nhưng đánh để “chừa” thì chẳng được đâu. Tiểu đệ đã tự đánh mình và nhờ người đánh để “chừa” nhiều lần mà không
được rồi.

- Nhưng ông tin là ông đánh lần này, mày phải “chừa”.

Huỵch... huỵch...

Nhất Tiếu đánh trúng liền hai chưởng như trời giáng làm nhà sư tung bổng người lên rớt nhằm cây đổ đến rầm... bụi cát mù mịt.

Ái Hoa luyện công chịu đòn rất giỏi. Hắn lồm cồm đứng dậy, lấy tay quệt
ngang mồm ứa máu tươi, trào ra hai mép. Nếu là kẻ khác mà trúng một
quyền của Nhất Tiếu thì đã nằm xụm từ lâu rồi.

Hắn vẫn lẩm bẩm :

- Đánh mạnh dữ a. Nhưng này ta nói thiệt... không “chừa” được đâu!

“Bình!”.

Nhất Tiếu lại phóng một cước đá hắn ngã lăn như con vụ rơi vào bụi rậm,
lần này hắn không đứng dậy ngay được, hai tay xoa nắn nơi hông bị đá,
mặt mũi nhăn nhó trông rất thiểu não.

Thất Tình Tú Sĩ và Vương Nhi cùng Tiểu Bạch sợ Nhất Tiếu quá tay đánh
chết hắn ta nên đã xuống ngựa, xuống xe chạy lại khuyên can.

Thất Tình Tú Sĩ nâng đỡ Ái Hoa dậy. Hắn ta quần áo xơ xác, mặt mũi lấm
bê bếch, máu mồm máu miệng lẫn bụi đất, nghe hơi thở hổn ha hổn hển,
biết rằng dù cố công điều tức vận khí cũng chẳng thể chịu nổi cú đấm đá
thứ tư của Nhất Tiếu.

Xong nhìn thấy Tiểu Bạch chống gậy lần mò đi lại, mặt hắn lại tươi hẳn lên, hai mắt sáng rực, vòng tay vái chào, nói rằng :

- “Liền chị”... cứu mạng... “đẹp quá”... Cám ơn... cho tôi được phép “hầu hạ”,...

“Bốp!”.

Nhất Tiếu tiện tay cho một cái bợp tai rất mạnh khiến hắn lại té nhào...

- Nè! Dê xồm ăn nói giữ mồm giữ miệng một chút mày. Nếu không ông thẳng
cánh đạp chết sặc máu mày. Người đâu mà trông thấy bóng đàn bà con gái,
cứ lồng lộn lên... như giống đười ươi.

- Thôi Nhất huynh! Không nên đánh kẻ đã bị thua. Tính nết hắn thế là
do... bịnh hoạn gây nên, ta không nên chấp. Chúng ta cho xe qua cầu, mặc hắn là êm chuyện.

Nhất Tiếu còn mắng nhiếc :

- Nếu nó không phải là “tăng đạo”, thì ta đâu có ra tay trừng trị? Đằng
này đã xuất gia còn công khai phạm giới mới đáng ghét chứ!

Ái Hoa nằm dưới đất cong môi cãi lại :

- Anh đừng cậy khỏe hiếp yếu. “Uống rượu” mới là “phạm giới”. Còn ta tôn thờ nữ giới là hạp với đức hiếu sinh của Thượng đế. Người đàn bà đẹp là bông hoa, phải tỏ lòng ái mộ hết sức mới là biết tôn sùng “Chân Thiện
Mỹ” của trời đất tạo ra chớ. Anh chỉ là “đạo đức giả”.

Thất Tình Tú Sĩ và Vương Nhi không thể không hoan nghênh lời nói đó vì
một người “tương tư” Hoàn Mỹ Thiếu Cơ, một người chạy theo Tiểu Bạch,
nên cùng bụm miệng cười tán thưởng.

Nhất Tiếu hậm hực nói :

- Mày nói ngu lắm. Ta có uống rượu nhưng tao uống rượu một mình. Còn mày phạm giới làm “hư hại” người khác.

Biết rằng nếu cãi cối cãi chày với Nhất Tiếu nữa sẽ chỉ ăn thêm đòn đâu nên hắn ta không đáp, nhưng vẫn tỏ vẻ bất phục.

Xe qua cầu, mọi người lên ngựa, lên xe, mặc Ái Hoa ở lại bên đường. Các
người dân quê nhân lúc đôi bên ngừng xô xát cũng đã qua cầu trở về thôn
xóm.

Lúc mặt trời lặn, hoàng hôn sắp tắt, mọi người dừng xe chỗ vắng vẻ bên ngòi nước để lo cơm nước.

Cảnh vật buổi chiều yên tĩnh, Vương Nhi nhờ có gia vị mua tại chợ, trổ
tài làm món ăn ngon. Nhất Tiếu lo mở bình rượu thưởng thức mùi vị rượu
Bách Hợp ra sao? Đương lúc hít hà hơi rượu thơm bốc lên ngào ngạt thì lù lù trước mặt đã thấy bóng nhà sư Ái Hoa hiện ra.

Hắn tiến tới trước mặt Nhất Tiếu, sụp xuống lạy, dập đầu xuống đất :

- Kính lạy... “liền anh”! Cho em út đi theo với. Liền anh dạy dỗ đánh
đập mắng chửi thế nào em cũng cam lòng, miễn là... “chừa“ được tính xấu
của em.

Hắn ta đã khôn ngoan trình diện đúng lúc Nhất Tiếu vừa mở nắp bình hảo
tửu. Hai lỗ mũi chàng hấp háy, sâu rượu nhảy nhót trong bao tử vậy thì
có lý gì mà không nhẹ tay độ lượng khoan thứ cho tội lỗi... của kẻ khác
biết “hối cải”.

Chàng hất hàm nói :

- Thôi được, tha cho mi. Đi ra đằng kia nói với các người khác. Nếu họ bằng lòng sao thì ta ưng vậy.

Ái Hoa hớn hở, lắc lư đầu trọc ngất nghểu đi lại phía mọi người đương làm cơm và các món ăn.

Nhất Tiếu lấy bát múc một bát đầy rượu, uống một hớp dài thỏa mãn :

- Chà! Bách Hợp hảo tửu. Ngon tuyệt! Uống đã quá.

Trong khi Nhất Tiếu thả tâm thần theo hơi men cao ngút tận trời xanh thì bỗng có một tiếng kêu rú thất thanh làm mọi người hoảng hốt.

Sự gì đã xảy ra?

Mọi người chỉ thấy Tiểu Bạch vẫn ngồi im lặng cạnh chiếc chiếu lớn trải
trên mặt đất để chờ Vương Nhi bày dọn cơm và thức ăn chín tới.

Trái lại nhà sư Ái Hoa coi quắp cánh tay, hai bàn tay máu nhiểu nhỏ giọt kêu thét.

- Ối trời đất ơi! Đau quá! Buốt quá!

Nhất Tiếu buột miệng nói :

- Thằng trọc “lăm băm”, lại bè hè, làm cái gì “bê bối” chi đây?

Nhất Tiếu tay cầm bát, tay ôm hũ rượu chạy lại coi xem.

Thất Tình Tú Sĩ lắc đầu nói rằng :

- Đáng kiếp lắm. Không biết làm cách nào cho nó “chừa” được.

- Đúng vậy! Chứng nào tật ấy khó chữa đặng thay.

Ái Hoa khi lại gần chào Tiểu Bạch, thấy nàng ngồi một mình, thêm dải lụa trắng bịt ngang mắt, chẳng thể trông thấy gì. Hắn nhìn mặt nàng dưới
ánh sáng hoàng hôn, làn da mịn thêm bóng mịn. Má đỏ vàng pha như vỏ quả
anh đào, cái mũi, cái miệng, cái cằm xinh tươi, khiến hắn ta rón rén lại gần ngắm nghía...

Khi nhìn tới dưới ngực, đôi gò “bồng đào” căng tròn dưới làn lụa bạch,
hắn nổi cơn tà bậy, đưa hai tay về phía trước... theo sự thúc đẩy của
thú tính di truyền.

Cử động “phạm giới” trong lúc bất ngờ rất lanh, còn ai cấm đoán kịp,
không ngờ hai bàn tay mới xòe ra chưa đạt tới “mục tiêu” thì ở huyệt
Chưởng tâm giữa gan bàn tay bỗng nhói buốt.

Hai chiếc phi trâm đã xuyên lủng da thịt, mũi trâm nhô ra khỏi đôi bàn
tay, nửa trên nửa dưới rất cân đối, làm nhà sư đau quá kêu thét lên
tiếng lớn, co tay chạy la lối.

Hắn nhăn nhó chìa tay ra cho Thất Tinh Tú Sĩ và cầu xin rút hộ. Chàng
thiếu hiệp dùng hai ngón tay khẽ kẹp lấy đuôi mũi trâm và vận khí cho
kim trâm bật ra khỏi vết lủng. Ái Hoa hòa thượng tưởng trâm cắm như thế
phải nhổ mạnh mới ra, không ngờ thủ thuật chàng thiếu hiệp thực là tuyệt vời. Hắn xiết bao kinh sợ, biết rằng hôm nay quả vận xui gặp gái, nên
đụng độ với toàn những tay tuyệt kỹ. Phải tự liệu xử sự, không thì mất
mạng như chơi.

Khi nhổ ra hết đau buốt, Vương Nhi thương hại lấy thuốc dấu dịt cho khỏi nhức nhối. Khi hai tai buộc thuốc xong xuôi rồi, Tiểu Bạch mới nghiêm
nghị lên tiếng cảnh cáo :

- Ái Hoa. Tội mi đáng xé xác. Ta phải trừng phạt để mi nhớ suốt đời.

Tiểu Bạch cầm lấy chiếc kiểng bạc và dùi nhỏ, cầm tay khẽ gõ. Ái Hoa
lắng nghe không thấy tiếng keng keng. Hắn lấy làm kinh ngạc bỡ ngỡ.

Hai Cẩu đầu nhân đã đứng hai bên nhà sư đa tình tự lúc nào không hay.
Chưa kịp trở mình thì hay tay đã bị nắm chặt. Hai Cẩu đầu nhân mang Ái
Hoa ra giữa bãi cỏ trống. Hắn phân vân không biết bị hành tội cách nào,
nhưng cũng cẩn thận chuyển công vận khí đề phòng để “chịu đòn”.

Nhưng “vút”, hai Cẩu đầu nhân đã ném tung hắn lên trời. Hắn thất kinh tảng đớm, há hốc miệng hết cả, ngậm hơi vận khí :

- Húy trời ơi. Chết tôi rồi!

Thân hình to lớn như con bò mộng bay vút lên cao mấy chục trượng rớt xuống thì... rách nát như cái “bị rách” còn gì.

Ái Hoa nhắm mắt chờ chết. Người hắn rớt xuống không có vật gì nâng đỡ làm hắn nghĩ vậy “mọc gai sởn ốc” khắp mình.

Nhưng Cẩu đầu nhân đã đón sẵn nắm lấy hai cẳng quay tít vòng tròn rồi
ném tung lên cao. Lần này thì thân hình giống như chiếc diều bay vút cao hơn... khiến hắn lại càng sợ hãi vô cùng.

Nhưng sắp rơi “bịch” xuống đất thì Cẩu đầu nhân khác lại đỡ lấy và quay tít lấy đà ném cho vọt lên cao nữa.

Ái Hoa biến thành quả cầu chuyền hết rớt xuống lại bay lên, người quay
lăn lông lốc, đầu hoa mắt choáng, bao nhiêu tim gan ruột, lá lách lộn
tùng phèo khiến hắn từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa hề thu nhận một hình
phạt nhục thể nào khắt khe, đáng sợ hãi bằng lần này.

Nhất Tiếu khoái chí vỗ tay cười ha hả, thỉnh thoảng lại cầm bát múc rượu làm một ngụm :

- Chừa chưa? Chà, rượu ngon quá, xem đánh cầu chuyền số dzách.

- A ha! Bắt trượt này. Trượt tay này. Ha ha...

Mỗi lần nghe nói tới bắt trượt. Ái Hoa ớn xương sống, run tủy lại kêu thét lên “ối chao, hú hồn, sợ quá, chừa rồi”.

Lần chót, Cẩu đầu nhân quay tít không ném lên cao nữa, một người cầm hai tay, một người cầm hai chân hắn ta, căng ra như sắp xé xác đến nơi, làm hai, làm bốn mảnh.

Hắn ngoái đầu hướng về phía Tiểu Bạch kêu lớn :

- Trăm lạy, muôn ngàn lạy tiểu thư tha tội cho tiểu tăng. Tiểu tăng biết phép rồi. Từ rày không dám hỗn láo với tiểu thư nữa. Tiểu thư sinh phúc tha cho.

Tiếp theo là tiếng “ùm”. Hai Cẩu đầu nhân đã quăng hắn xuống ngòi nước. Vương Nhi nhìn theo nói nhỏ :

- Nghĩ cũng đáng thương hại! Chỉ vì mang trong người cái máu... nên mới
nông nổi bị hành tội khổ sở như vậy! Thế mới biết Phật quở “chữ Dâm là
chữ Tội”. Quả không sai! Nhưng tội thì tội, biết có chừa không?

Chừng tới khi lôi kéo y lên bờ thì bụng đã chướng lớn như cái trống. Hắn ta được một phen uống no nước, tuy nhiên hắn vẫn cố ngoi ngóp, lết lại
trước mặt của Tiểu Bạch lạy tạ ơn không giết.

Mọi người ăn cơm, nghỉ ngơi chờ trăng mọc lại tiếp tục cuộc hành trình.
Ban đêm, toán người đi được nhiều đường đất của ban ngày. Quan lộ rộng
thênh thang tha hồ cho lừa ngựa phi nước đại. Mọi người không muốn cho
nhà sư Ái Hoa nhập đoàn vì sợ tánh tình của hắn làm phương hại cho công
tác. Nhưng nhà sư một mực xin đi theo, nếu bỏ rơi hắn, thì hắn xin để
được tự “cắt họng” trước mặt tiểu thư còn hơn.

Thấy hắn quyết tâm, tay cầm lăm lăm lưỡi sắc “kim câu” kề nơi cổ chỉ chờ một câu cửa miệng người đẹp từ chối là hắn hy sinh... đời hắn liền.

Tiểu Bạch thương hại không nỡ nên còn dùng dằng chưa quyết. Hắn nói :

- Nếu Tiểu thư và các vị cho theo thì dù bảo nhảy vào đống lửa, tôi cũng vui lòng nhảy ngay không từ nan! Không một việc gì khó khăn mà tôi
không dám làm!

Tiểu Bạch giao hẹn :

- Đúng như vậy nhé! Tôi bảo làm việc gì thì anh phải làm như vậy nhé! Hắn trỏ mặt trăng thề độc.

Tiểu Bạch cả cười bảo :

- Được rồi, tôi nhận cho đi theo nhưng đòi anh phải làm một việc đầu tiên có chịu nghe không?

- Một việc chứ muôn việc cũng phải nghe theo.

- Anh đếm cho từ một tới... một trăm, đếm thực nhanh. Đếm chậm không được.

- Ồ dễ quá! Tiểu thư định rỡn bần tăng chăng?

- Không rỡn đâu cứ đếm cho tôi nghe, càng nhanh càng hay.

Ái Hoa liếng thoắng đếm như điện chớp một mạch đến một trăm. Đếm xong hắn xoa tay đắc chí cả cười vì đã làm vui lòng người đẹp.

- Bây giờ anh đếm ngược lại từ một trăm tới một nhanh như anh vừa đếm xuôi.

- Đếm ngược lại hả?

- Đúng vậy! Nếu đếm chậm hơn thì xin... sư phụ ở lại một mình ngồi chơi xơi nước, mặc chúng tôi đi.

- Một trăm, chín mươi chín, chín mươi tám...

- Đếm chậm quá!

- Xin để cho tập một thời gian, cho quen mới đếm nhanh được.

- Thời gian là... bao lâu? Một ngày, một tuần hay một tháng?

Nhà sư đứng ngẩn tò te, mãi mới trả lời :

- Xin để cho tập một tháng.

- Sao lâu vậy?

- Vì đếm xuôi quen miệng dễ đếm. Đếm ngược, không quen miệng, khó đếm nhanh quá!

Tiểu Bạch chậm rãi nói :

- Đấy, làm xuôi thì dễ làm “ngược” thì khó. Tại sao thiên hạ đều làm
xuôi mà... quý tăng cứ thích làm cái chuyện ngược đời, mà làm một cách
dễ dàng coi thiên hạ như không người, tha hồ mặc sức “múa gậy vườn
hoang”?

- Đó là do “tập tục thói quen”. Đối với người thì là ngược, nhưng đối với tôi thì “xuôi” lắm.

- Thôi thế thì ráng đếm ngược nhanh như đếm xuôi đi không thì xin... bái biệt!

- Ái chớ! Chớ làm... ”bái biệt” như vậy! Tiểu tăng sẽ tập đếm ngược nhanh như tên bắn và vâng lệnh làm xuôi, ngược đều như nhau!

- Được rồi, bắt đầu tập đi. Chừng nào đếm ngược nhanh như đếm xuôi thì
tật xấu ngang ngược cũng mất dần đi. Ở đời, hay dở đều do “thói quen”
cả!

Nhất Tiếu nhìn thẳng vào mặt Ái Hoa nhắc lại :

- Nghe rõ chưa, ở đời hay dở đều do “thói quen” tạo nên cả. Bỏ thói xấu, tập thói tốt nghe!

Ái Hoa gãi đầu vâng dạ, nhưng lẩm bẩm nói một mình :

- Thói quen, tập tục, nhưng tại sao “cù chân” thì thấy “buồn”, rụt chân lại. Đấy đâu phải thói quen?

Đoàn xe, ngựa lại chay băng trên đường lộ. Ái Hoa ngồi một góc miệng lẩm bẩm tập đếm người từ một trăm cho đếm một. Nói là dễ, nhưng việc làm
khiến “mệt óc” hắn lăn ra, ngủ thiếp luôn.

Chẳng mấy ngày đã tới Trực Lệ. Vì thêm khẩu thực nên lương thảo hao hụt rất chóng.

Nhất Tiếu nghĩ tới chuyện đi săn bắn lấy thịt thú tăng gia món ăn. Khi
xe qua một vườn trái cây quả nhỏ và đỏ sẫm như quả “bồ quân” thì đột
nhiên Nhất Tiếu thấy một đàn chim công bay tới, sà xuống vườn cây thi
nhau ăn trái.

Thực là một dịp may mắn ít có! Những con công đuôi cánh dài lê thê rất đẹp mặt, con nào con nấy nặng tới chục cân thịt.

- Thịt công nướng vàng da, ngon hơn thịt gà nuôi nhiều!

- Người ta đã nói ngon như “nem công chả phượng” mà...

- Nướng thịt công báo, mỡ cháy xèo xèo, nhậu với rượu Bách Hợp thì... quên chết!

Ái Hoa hòa thượng nhìn thấy bầy chim rất dạn người đương tìm kiếm những
quả chín nhũng ngọt mổ ăn. Vừa ăn, vừa gọi nhau, rúc lên từng hồi “ke cò ke”.

Hắn đếm: Một trăm... chín mươi chín...

Câu chín vừa dứt thì đã thấy một con xòe cánh lăn ra chết không kịp giãy giụa. Vì vậy nên đàn chim vẫn tiếp tục ăn, không vỗ cánh bay đi nơi
khác vì sợ hãi. Tiểu Bạch chúm chím miệng cười nói :

- Đó là phép ném “thoa cài đầu” đặc biệt của tiện nữ! Bây giờ khéo tay
giựt mạnh sợi chỉ tơ tằm này, thì chiến thoa sẽ trở về tay, rồi lại
phóng đi. Như vậy có thể dùng một cành thoa “phi” lủng đầu trăm con công mà không mất phi hoa.

Mọi người im lặng xem sao? Vì họ biết Tiểu Bạch không thể trông được chỉ nhờ tài nghe ngóng tiếng động dội lại.

- Chín mươi tám “ke cò ke”... “phập”...

- Chín mươi bảy... “phập”...

Trong khoảnh khắc, Nhất Tiếu đã trông thấy ba con công lớn nằm chết
trong bầy chim. Chúng mải mê ăn không chú ý tới con đứng bên. Trong số
đó có một con công, lông vũ lông đuôi một màu trắng bạch.

Thủ thuật ném phi thoa có buộc chỉ sau đuôi của Tiểu Bạch thiệt kỳ lại
lanh lẹ hầu như “vô thanh vô sắc”. Không biết nàng dùng công tập hồi
nàng còn nhỏ để bắt chim bắt cá hay sao mà trâm nàng đã phóng, không hề
trật mũi nào. Kỳ lạ là đầu chim công thì nhỏ vươn ra co vào nói là chém
trúng thì cũng khó huống hồ là... phóng trúng.

Mũi thoa xuyên từ mắt này qua mắt kia nên chim chết ngay và rút thoa ra cũng dễ vì chiếc thoa mũi nhỏ đuôi lớn.

Con nào yên lặng mổ trái ăn còn sống, trái lại cất tiếng kêu... là bị thoa xuyên thủng óc chết liền.

Ái Hoa nhìn theo trước còn đếm được sau mồm cứ há hốc không dám... lắp
bắp nữa! Hắn đưa hai bàn tay lên mắt nhìn thấy hai vết kim trâm giữa gan bàn tay đều đặn trúng giữa không sai lệch một ly. Hắn nghĩ rằng: giả sử lúc đó mà Tiểu Bạch nhắm giữa mắt phi trâm thì có lẽ hắn cũng lăn quen
như các con “công” béo mập kia...

Sau khi đã thấy hơn chục con nằm đất. Nhất Tiếu nói nhỏ :

- Tiểu thư dừng tay, để ta và Cao đệ ném đao và kiếm làm vài con xem sao?

Nói rồi Nhất Tiếu hỏi :

- Cao đệ sẵn sàng chưa, tôi vỗ tay cho đàn công bay vù lên ta cùng “phi đao” “phi kiếm” xem được mấy chú?

Nói rồi, hắn vỗ tay “bốp bốp”, đàn công còn lại bị động, giật mình tung
cánh ào ạt bay lên. Nhưng một luồng kim quang và một đạo bạch quang xoay tròn như chiếc mâm vàng cập với chiếc mâm bạc úp chùm vào bầy công làm
nhiều con bị đứt rụng cổ, rụng cánh rơi xuống như chùm sung rụng.

Chỉ còn hai ba con sống sót vụt bay cao, bốc thẳng lên thoát chết, bỗng có tiếng người tự đằng xa vỗ tay reo tán thưởng :

- Đao bay, kiếm múa khá quá. Để tay làm bớt ba con kia cho xem!

Một luồng hắc quang cũng bay vụt lên theo và cả ba con công đều bị chém đầu rớt xuống đất.

Nhất Tiếu hối đồng bọn thu nhặt xác chim, buộc cổ chúng lại thành chùm
lớn, vắt treo trên mui xe. Chàng chọn hơn chục con to béo nhất chia nhau vặt lông làm thịt.

Vương Nhi bàn :

- Mổ bụng moi hết mề gan ruột ra để tôi nhồi chút nếp, nấm hương, lá
thơm, ý dĩ, hạt sen vô, khâu lại rồi treo giá trên than hồng, như vậy
lúc chín, thịt mềm ăn thơm ngon lắm!

Có tiếng người nói tiếp theo :

- Chưa được xé thịt ăn, mới nghe tả mà đã nhỏ nước miếng. Ta không biết
nấu nướng, từ trước ăn thịt chim cứ để nguyên lông trác bùn đất đốt lửa
rồi bóc ra ăn, không có gia vị thơm ngon nhưng nuốt đặng, không “tệ”
lắm! Bây giờ cho góp phần thịt được không?

Mọi người quay lại thì thấy một trang hiệp sĩ bận võ phục màu trắng, gọn gàng. Dáng vóc trung bình trạc ngoài hai chục tuổi, mặt mũi sáng sủa
quắc thước đôi mày nét chữ mác, đôi mắt hiện nhiều tia lửa đỏ hung
quang. Hắn xách túi vải trong có cây gỗ đen, nom không được sạch sẽ vì
còn dính máu chim và lông chim.

Ba con công hắn mang tới đều nặng như heo con, cánh và đuôi dài quét đất. Hắn chỉ bộ lông nói :

- Chim công này xem ra là loài công nuôi trong chuồng, nặng thịt nhưng
bay không nhanh như con rằng. Bộ mã thì đẹp, thịt thì mềm nhưng không
ngọt và bổ bằng thịt “dã công”, nếu kém gia vịt thì ăn nhạt thịt lắm!

Vương Nhi trả lời :

- Đúng vậy! Quý hữu là người sành món ăn lắm! Hôm nay tôi làm bếp để quý hữu thưởng thức.

Nói rồi nhận lãnh ba con công trao cho người trong bọn vặt lông.

Thất Tình Tú Sĩ trải chiếu mời hiệp sĩ ngồi. Nhất Tiếu chỉ hũ rượu hỏi :

- Quý hữu có biết uống rượu không?

- Chà rượu Bách Hợp ở Diễm phố còn ai chối từ được nữa? Bữa nay tôi đi đường xa đói bụng gặp hên vô cùng.

- Quý hữu đi đâu mà đi bộ một mình?

- Tại hạ sang Trực Lệ có chút việc riêng. Tính tại hạ thích cô độc. Các quý hữu đi đâu mà có xe ngựa tốt lành vậy?

- Chúng tôi cũng sang Trực Lệ thăm người bà con và đưa tiểu cô nương đi
chữa bệnh. Khách mới đến có vẻ mệt mỏi, hỏi đáp qua loa vài câu chuyện
rồi ngả lưng, gối đầu lên bao kiếm an nghỉ.

Mọi người đều đói nên chỉ chờ món ăn, chẳng ai buồn nói chuyện với ai nữa.

Bỗng có tiếng chân người đi tới. Một cụ già râu tóc bạc phơ chống gậy
trúc đi lại, thấy mọi người nằm ngồi ngả nghiêng. Vương Nhi đương nhóm
lửa cháy phừng phừng.

Ông cụ bất giác trông thấy trên mặt đất, lông chim vương vãi khắp nơi,
trên dàn quay có tới chục chim công nhồi, bụng căng phồng sắp sửa đặt
lên than hồng nướng cho chín.

Lão ông run sợ, tay chân luống cuống làm rớt cả gậy :

- Trời ơi! Các vị dám bắt chim công của Điền chúa trại làm thịt ăn sao?
Gan các vị là gan cóc tía! Mật các vị lớn hơn mật gấu! Lại đốt lửa thui
chín cho khói bốc lên! Chết đến nơi rồi! Thôi chạy trốn đi! Ta không nỡ
trông thảm cảnh gia đình Dương Bộc, chủ vườn cây này tái diễn nữa! Đi
đi! Đi đi mau!

Nhóm người Nhất Tiếu không hiểu đầu đuôi câu chuyện chim công này ra sao mà lão ông nay nói lời kinh dị thế?

Vương Nhi nhặt gậy cho cụ chống, Thất Tình Tú Sĩ vài chào hỏi danh tính và mời cụ ngồi chơi hỏi tường tận nguyên do?

Cụ gì trông trước trông sau gặng hỏi mãi cụ mới kể cho mọi người nghe :

- Ông Dương Bộc làm nghề thợ nhuộm, hai vợ chồng và hai đứa con một trai một gái sinh sống tại đây đã lâu năm. Xóm làng, nơi đây trước rất đông
đúc. Nhờ có đất tốt màu mỡ nên nhà nào cũng có vườn trái cây, đủ mọi thứ trái. Dân làng không có cuộc sống phồn thịnh, nhưng gia đình nào cũng
đủ bát ăn, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, yên vui với cuộc sống tầm
thường, bình dị nhưng an lạc. Nhưng “tai họa” đã đến với bầy chim công
quái ác này!

Vương Nhi vừa cời than hồng đỏ rực, vừa bảo Nhất Tiếu bắt ngang dàn thịt trên lửa vừa hỏi :

- Cụ ơi, chim công béo mật thế này, khi chín tới nước ngọt chảy ra, thơm ngon vô cùng, tại sao cụ nói là tai họa?

- Cậu ơi! Cậu còn trẻ tuổi chưa trải việc đời, cậu thấy cuộc đời ngon
ngọt như thịt chim công quay! Nhưng trên thực tế, miếng thịt chim công
thơm ngon bùi béo này đã làm cả gia đình người chủ vườn cây phải thảm tử đấy! Gia đình này chết, dân làng sợ hãi cũng bỏ đi nên vùng này trở nên hoang vắng từ ngày đó.

Vương Nhi cắt ngang câu chuyện :

- Lão trượng kể chuyện đám tang bi thảm như vậy, nghe chuyện cụ, ăn hết
muốn nuốt, thế là công phu nhồi thịt bụng công của tôi có khéo tay đến
đâu cũng như... “kho tiêu” vậy!

Hiệp sĩ mới đến, mặt lạnh như tiền nói :

- Không sao đâu! Đói ăn tất ngon! Làm bếp khéo tay vẫn ngon! Nghe chuyện kỳ lạ, ăn lại thêm ngon! Ta có thể tai nghe chuyện mũi ngửi mùi thơm
của thịt bốc lên, lưỡi nếm rượu. Việc nào riêng việc ấy, không thể nghe
chuyện mà quên đói được?

Nhất Tiếu phụ họa :

- Cũng như Bách Hợp tửu nổi tiếng là rượu ngon thì uống lúc nào cũng
ngon. Uống không cũng ngon. Uống với thịt công béo, quay vàng thì lại
càng nổi vị, ngon thêm nữa!

Lão ông nghe vậy có vẻ tức giận muốn đứng dậy bỏ đi.

- Ta là Trịnh lão, sống ở đây đến nay đã trên bát tuần thượng thọ. Ta
không hề biết nói dối ai bao giờ. Thấy các người lâm họa tính đến nơi
nói cho biết để cứu mạng. Các người không coi câu chuyện là quan trọng
chỉ mải mê miếng thịt ngon, chung rượu ngọt như vậy, để ta đi khuất mắt
cho được việc!

Thất Tình Tú Sĩ khuyên nài :

- Lão trượng kể tiếp chúng tôi nghe! Điền trại chúa là ai lại nuôi bầy
công đẹp này? Chúng tôi ngỡ là chim rừng nên mới bắt thịt. Nếu có sự lầm lỡ như vầy thì xin bồi thường, “một tiền công bằng ba tiền gà”, như vậy thu xếp xong xuôi chứ gì?

- Đâu có được! Điền trại chúa có người con trai hung dữ tên Điền Quách.
Hắn thích nuôi chim công. Hắn đã hẹn với dân làng hễ có con công nào
trong trại sổng chuồng bay vô lối xóm, ai bắt được đem nộp trả sẽ được
“trăm lạng vàng”! Còn ai bắt công của hắn ăn thịt hay nuôi trong nhà thì sẽ phải đền một mạng chim công đổi lấy một mạng người!

Vương Nhi hỏi :

- Thịt công bất quá chiên nướng thì thơm hơn thịt gà chút xíu. Tại sao
lại tính giá một con tới trăm lạng vàng? Nếu vậy đem luôn chim công đến
bán cho hắn sẽ chóng giàu to ư?

Cụ già nói tiếp :

- Các vị chưa ngắm kỹ bộ lông cánh lông đuôi chim công họ Điền. Nó đẹp
và dài đặc biệt, hơn cả lông chim trĩ, chim phương trong rừng. Cái “thú
nuôi chim”, săn sóc bầy chim đòi hỏi công phu đặc biệt. Nhiều công tôn
vương tử tới thăm Điền trại chủ đều muốn được xem toàn bầy đều xòe lông
cánh lông đuôi nhảy múa. Vì thế Điền công tử quý công hơn người. Thực
chẳng khác gì vua nước Vệ khi xưa mê thích nuôi chim hạc, phong cho hạc
tước quan triều đình, hạc có phẩm trật, có xe đi, có lính hầu. Về sau
mất nước cũng vì bầy hạc...

Hiệp sĩ hỏi :

- Điền trại chúa có mất nghiệp vì bầy công không?

- Nếu mất nghiệp vì bầy công thì... bây giờ các ông làm gì có thịt chim
công đương chín kêu xèo xèo trên dàn kia? Trái lại Điền công không mất
nghiệp mà toàn gia chủ nhân vườn cây này bị “mổ bụng”!

- Tại sao bị mổ bụng? Ai mổ bụng vợ chồng con cái ông Dương Bộc?

- Chính ông Dương Bộc cầm dao mổ bụng vợ con mình rồi mổ bụng mình nữa?

- Mổ bụng để làm gì?

- Để chứng minh là vợ chồng con cái này chỉ ăn “cơm rau trái cây” và không có ăn “thịt chim công”!

- Sao lại có chuyện quái gỡ thế này được? Vậy có ai được thưởng tiền bạc gì không?

Lão ông thở dài chán ngán đáp :

- “Rao ngôn như vậy nhưng có ai được lãnh đồng xu nhỏ nào đâu? Lúc đầu,
ai cũng tưởng bắt được chim công sổng chuồng đem nộp được trăm lạng
vàng, lòng tham nổi dậy, hễ thấy công bay là bỏ cả công ăn việc làm,
tranh nhau leo trèo để bắt. Nhưng chim bay trên trời đậu ở ngọn cây có
phải chạy ở dưới đất đâu, dễ gì bắt nổi? Kể đến khi những người trong
Điền trại chạy ra, kẻ cưỡi ngựa người chạy chân đuổi bắt công, thôi thì
vườn rau vườn dưa, chúng giẫm xéo chà đạp nát bét, cây lớn cây nhỏ leo
trèo lay động, quả chín quả xanh rụng hết. Lãnh thưởng chưa thấy đâu cây trái vườn tược thiệt hại vô kể? Về sau cứ hễ mỗi lần có chim công sổng
chuồng, dân làng bảo nhau làm ngơ giả ngây, giả đui không trông thấy gì
hết mặc kệ nó muốn bay đi đâu thì bay! Nhưng con nào con nấy thích đến
vườn cây ăn trái “bồ quân” chín mọng này ăn chán no nê chúng bay về
chuồng cũ...

Nhưng rủi thay có một hôm có đôi cọng lớn sút chuồng bay ra khu vực này
của gia đình Dương Bộc, chẳng biết tại sao mà nó làm rớt một số lông
cánh tại đây như thế này, (nói rồi lão trượng chỉ lông công chất đống
trên mặt cỏ). Thế là gia đình Điền trại không tìm thấy chim cứ xúm lại
đổ tội cho gia đình Dương Bộc đã ăn thịt chim công. Bọn trâu chó ấy nhất định căn cứ vào nhưng lông vương vãi trong vườn cây làm tang chứng.

“Hai” con công là “hai” mạng người!

Đứng trước Điền trại chúa và thằng con ác quỷ cùng đám đông dân làng,
gia đình bốn người đáng thương ấy nghe chúng buộc tội. Chúng đòi hai
mạng sống trong gia đình đó. Biết làm sao minh oan được? Nghĩ rằng thôi
thà “chết cả đống còn hơn sống sót một người”, vợ chồng con cái biết
người nào sống người nào chết, ông Dương Bộc đau khổ đến phát điên cầm
dao mổ bụng hai con cho mọi người xem là không có ăn thịt công.

Giết xong hai con nghĩ rằng mình còn sống cũng chẳng ích gì, hắn mổ bụng vợ và mổ bụng hắn để minh oan. Thế là cả gia đình thành ma uổng tử vì
ngay lúc đó, hai con chim công sút chuồng chẳng biết tranh nhau ăn trái
chín mổ nhau rụng lông rụng cánh chi đó, lù lù đâu bay về chuồng cũ.

Sống trong sự đe dọa của bầy chim có bộ mã tốt tươi đủ mọi màu sắc nhưng làm kinh hãi hơn ác điểu, nhiều nhà bảo nhau bỏ làng ra đi... và vùng
này trở nên hoang vắng. Bao nhiêu ruộng vườn khai khẩn đương nhiên thuộc quyền sở hữu của Điền trại chủ.

Lão sinh sống ở đây đã lâu năm, mộ phần vợ con chôn ở đây nên chẳng nỡ bỏ đi xứ khác.

Ngày hôm nay, thấy trong trại có khách lạ tới thăm. Các ông khách nào
cũng cao lớn lực lưỡng khác thường, ông thì dắt beo như dắt chó, dắt
mèo, ông thì nuôi khỉ đột to gấp đôi gấp ba người thường, ông thì dắt
gấu... trông thật kinh khiếp!

Trại chúa mở tiệc khoan đãi linh đình. Các ông ăn uống, bắt thú vật biểu diễn, đủ trò bát nháo nhảy vòng lửa, gấu đi dây, khỉ đột đánh đu, chim
công nhảy múa.

Bữa nay khỉ đột không người trông coi nên bứt đứt xích chân bẻ chấn song sắt, phá chuồng nuôi chim nên cả bầy chim sút chuồng bay ra đây. Không
ngờ, các vị không biết là giống chim reo rắc tai họa, một mạng chim đổi
một mạng người!

Các vị giết chết cả bầy chim, bây giờ lại vặt lông nhồi nếm quay trên
than hồng, tôi không biết các vị sẽ có bao nhiêu mạng để theo gót gia
đình Dương Bộc!

Thôi, tôi kể chuyện đã dài lắm rồi. Các vị lên xe, lên ngựa đi thì mới thoát chết!”

Hiệp sĩ nghe ông cụ hỏi có bao nhiêu mạng? Thì cũng thản nhiên hỏi lại :

- Gia đình Trại chủ có bao nhiêu mạng?

- Không có nhiều có đúng “bốn mạng”. Hắn có hai vợ chồng, một người hầu thiếp và một thằng con trai.

Hiệp sĩ quay lại hỏi Vương Nhi :

- Không kể tôi, quý vị có bao nhiêu người?

Vương Nhi thực thà đáp :

- Chúng tôi có bảy người, tiểu thư tôi và hai gia nhân vì có khách lạ nên ngồi trong xe.

Hiệp sĩ lại hỏi :

- Chúng ta giết bao nhiêu chim công và làm thịt bao nhiêu con nữa bày để ăn?

- Giết chín mươi con, làm thịt một phần ba thêm ba con của ông là ba mươi ba con. Ông hỏi vậy để làm gì?

Hiệp sĩ cười :

- Để xem phải đền cho trại chúa bao nhiêu mạng! Trời ơi tôi không ngờ
bữa ăn hôm nay trị giá hơn ba ngàn lạng vàng! Bậc vua chúa triều đình
cũng không bao giờ trả giá món ăn đắt nhất lịch sử này được? Vậy chúng
ta còn chờ gì mà không nhập tiệc, ăn cho no đầy bụng. Chưa nghe chuyện
ăn ngon một phần, bây giờ nghe xong chuyện rồi, biết giá chim phải trả,
ăn càng thấy ngon bội phần. Nào xin mời quý vị khai tiệc cho!

Nói rồi, hiệp sĩ điềm nhiên cầm lấy một con chim công, vặn lấy một cái đùi lớn ngoạm ăn liền...

Nhất Tiếu rót rượu ra bát, cũng chọn lấy một công quay khác. Lão trượng thấy vậy giận lắm đứng dậy phủi áo bỏ đi.

Hiệp sĩ cười ngất :

- Cụ thấy chúng tôi ăn thịt chim, cụ phải mừng và ăn với chúng tôi mới
phải. Có ăn thịt công mới hả được giận chứ. Một con công một mạng người! Một con công một trăm lạng vàng... ha... ha...

Ông lão chửi rủa :

- Ta đã mất thì giờ nói chuyện với lũ người tham ăn quên chết. Thôi tụi
bây cứ cố ăn đi, uống đi. Ăn cho đầy bao tử rồi có chết không sợ thành
ma đói, ma khát!

Đáp lại sự mắng nhiếc của ông già họ Trịnh, người ta chỉ nghe thấy tiếng cười ha hả của hiệp sĩ nọ.

Hắn ta uống từng ngụm rượu đầy, ngoạm ăn thịt công chín tới, nước ngọt béo chảy trào ra hai bên mép.

Vương Nhi nói :

- Ăn thịt công, thịt gà mà không dùng gia vị tiêu, muối, ớt và lá chanh
thái vụn này thì tức là... chưa biết cái ngon của thịt và tài khéo của
người nấu bếp.

Mọi người thấy chàng trẻ tuổi bày ra nhiều hành, xả, lá chanh, gừng thái nhỏ, rau mùi, lá thơm, đầy nhóc không biết chàng đã chuẩn bị tự bao
giờ, người nào ưa thích gia vị nào dùng thứ đó, nên reo hò, vui vẻ ăn
thỏa thích.

Hiệp sĩ nói đến đó cũng phải khen ngợi :

- Trên giang hồ từng trải, ta đã nếm biết bao nhiêu cao lương mỹ vị ít khi được thụ hưởng bữa ăn ngon miệng như hôm nay!

Nhưng nói chưa dứt lời thì đã có tiếng lạ mỉa mai :

- Đúng vậy! Thịt công ta nuôi cho tới nay Thiên tử cũng chưa được nếm,
bảo không ngon sao được? Mùi chim nướng bay rộng cách đây hơn nửa dặm
chỉ ngửi hương vị mùi thịt chín, ta cũng biết lũ ăn trộm và giết chim
công của ta... Bây giờ bắt được quả tang chúng bây đang ăn và khen
ngon... ta phải nhắc cho bọn mi biết là một mạng chim của ta đáng giá...

Hiệp sĩ lạnh lùng cắt ngang :

- Một mạng chim... phải trả giá một mạng người!

Từ sau lùm cây xuất hiện một đại hán mặt mũi vô cùng hung dữ lưng đeo
túi tên, tay cầm cung lớn tiến lại. Sau lưng hắn một bọn hơn hai chục
tên gia đinh nai nịt khí giới cầm lăm lăm trong tay.

Không cần phải giới thiệu, bọn Nhất Tiếu cũng biết người đó là Điền
Quách, con của Điền trại chúa. Hắn ta dừng lại cách đống lửa quay chim
chừng vài chục bước, mặt mũi tên lên dây cung chĩa vào phía lưng hiệp sĩ và nói rằng :

- Té ra các ngươi cũng đã biết là mỗi chim công của ta trị giá một mạng người. Khá lắm!

Hiệp sĩ bình tĩnh uống cạn bát rượu rồi nói :

- Thịt công ngon tuyệt! Ta nói cho mi biết, một mình ta bữa nay phải ăn
hết ít nhất là ba con. Vậy mi tính sao? Ta chỉ có một mạng người mà đổi
lấy ba chim, như vậy ta được lời và mi bị thiệt phải không?

- Tiểu tử! Mi chớ có nói càn! Mi ăn một chim thì mi sẽ lãnh một phát
tên. Nếu mi ăn ba chim thì ta sẽ tặng cho mi đủ ba phát tên, thiết tưởng ta cũng không thiệt lắm đâu!

Hiệp sĩ cười nhạt :

- Như vậy mi hãy đứng chờ ta đấy xem ta ăn đủ ba chim rồi ta để mi bắn
ba phát tên, ta ngồi yên cho mi bắn không ân hận gì cả! Bây giờ ta mới
ăn hết một...

- Vậy mi để ta được khoái thần khẩu, ăn cho đủ số chim rồi ta sẽ vui lòng lãnh đủ... số tên!

Nhất Tiếu, Thất Tình Tú Sĩ và Ái Hoa vẫn ăn uống tự nhiên. Chỉ có Vương
Nhi và người trong xe thì sợ hãi, xanh xám cả mặt mày, chỉ sợ gã người
kia buông tên vào mình thì hết sống! Hai người run rẩy nép mọp sau đống
củi cây chất đống cạnh bếp lửa.

Đại hán liếc mắt nhìn qua, thấy chỗ nào cũng la liệt lông chim công của
mình bị giết chết, trên dàn quay đếm qua đã thấy mấy chục con, thì không thể nén lòng căm tức được nữa, vùng thét lớn :

- Bọn mi đánh lưới giết chết hết cả bầy chim ta nuôi mất bao nhiêu công
phu! Bây giờ lại ngang nhiên ngồi ăn trước mắt ta, thực không còn coi ai ra gì nữa, có bị chết phân thây ra làm muôn mảnh cũng đáng đời! Đã thế
lại còn buông lời xấc láo...

Ái Hoa hòa thượng từ nãy giờ cũng đã “ngốn” hết một con, bây giờ lên tiếng cãi lại :

- Anh nói ngu như con bò! Chim công hay là chim hạc, chim phượng gì đi
chăng nữa, nó bay ở trên trời. Người ta đã nói “chim trời cá nước” ai
bắt đặng thì người đó ăn. Tự nhiên, anh ở đâu đến nói là chim của anh.
Lấy gì làm bằng cớ? Nếu anh nuôi, sao anh không nhốt chúng trong chuồng? Chúng ta có lại nhà anh bắt giết thịt đâu mà gán cho tội ăn trộm! Thực
là lý luận cám hấp. Thôi bỏ đi! Ngồi xuống đây nhậu chơi với chúng tớ.
Thịt rượu còn nhiều đủ chia cho tất cả mọi người.

Đại hán quát to :

- Tụi bay chắc từ xa mới tới nên không biết ta là “thiên thần ác sát” ở
vùng này. Khắp nơi đây là thuộc quyền sở hữu của ta. Bọn mi ăn một trái
cây, một nhánh cỏ trong vườn cây này cũng là ăn trộm của ta, huống hồ
lại ăn thịt chim công? Thôi đừng nhiều lời nữa, hãy lãnh mũi tên của
Điền Quách này!

Điền Quách vốn có tài bắn cung rất giỏi, vẫn thường tự phụ mình là Tiểu
Dưỡng Do Cơ, có tài bách bộ xuyên dương, bá phát bá trúng. Y không những bắn trúng mà lại còn bắn nhanh nữa.

Nên vừa nói dứt lời thì dây cung buông đến “tách”, mũi tên bay vút nhằm
hạ sát hiệp sĩ có bộ mặt lạnh như tiền mà y cho là kẻ cầm đầu bọn Nhất
Tiếu.

Hiệp sĩ khẽ quày tay lại phía sau đã bắt được mũi tên, đưa lên mắt coi :

- Mũi tên này của mi vót lấy, dài, cứng và cân bằng lắm!

Cánh tên dài rộng bằng lông chim trĩ, mũi nhọn bịt đồng rất sắc. Hiệp sĩ khẽ vuốt tay làm mũi đồng rời ra, rồi thuận tay cầm cây tên dài xiên
vào miếng gan hơ lên than hồng cho chín nục, dáng điệu ung dung coi
khinh Điền Quách như tuồng trẻ nít.

Điền Quách tức giận đến nổ đom đóm mắt, lắp tên và bắn phát nữa.

Cây cung lớn giương lên cong như vành trăng, sức mạnh bắn ra có thể
xuyên lủng vài lần giáp sắt. Nhưng hiệp sĩ khẽ cung tay ném về phía Điền Quách mũi nhọn bằng đồng bít đầu mũi tên mà chàng vừa tháo rời.

- Ta đã bảo mới ăn có một chim thì bắn một phát chứ! Chờ ta ăn hết con thứ hai mới được bắn phát tên thứ hai nghe!

Quả nhiên, mũi tên bay ra như không có sức dây, rớt xuống đất bởi dây
cung đã bị mũi đồng từ tay hiệp sĩ ném trả lại làm đứt tiêu rồi.

Hiệp sĩ ăn xong miếng gan, uống xong ngụm rượu, từ từ đứng dậy, tay cầm
cây tên lại gần Điền Quách nói với giọng đanh thép ớn người :

- Ta biết ba anh em Lão Sư, Lão Hổ và Lão Báo đương được Điền trại chúa
tiếp là bậc thượng khách. Mi không phải tay đối thủ với ta. Ta nhờ mi về nói với ba người đó rằng: Ta chờ ba người đó tại Trực Lệ. Mi muốn biết
ta là ai, thì về nói với ba tên đó rằng hay trả ta món nợ tại Lục Diệp
nhai năm nọ! Biệt hiệu ta ghi trên trán ngươi đây này.

Nói chưa dứt lời, mũi nhọn cây tên tre đã rạch lên trán Điền Quách chữ “Mộc” lớn làm máu đổ ra đỏ lòm mặt mũi đại hán.

Hiệp sĩ ra chiêu quá nhanh đến nỗi đại hán không kíp né tránh hoặc giơ
tay đỡ gạt. Thủ hạ Điền Quách ồ ạt xông lên cứu chủ, nhưng chỉ thấy hiệp sĩ vung tay một cái đã nắm giật hai cây trường thương, một cây đao, bẻ
gãy ném xuống đất.

Hiệp sĩ ôn tồn bảo :

- Ta đã bảo bọn mi chỉ là lũ chuột nhắt! Về nhắn ba anh em họ Lão những
điều ta đã căn dặn. Cút mau đi, nếu ta điên tiết lên thì lũ bây cũng
giống như những con chim treo lủng lẳng ở trên cỗ xe kia.

Điền Quách biết mình gặp “thứ dữ”, tài năng cao diệu hơn mình nhiều bậc, đành ôm mặt máu me đầm đìa cùng bọn tráng đinh lủi thủi về như lũ cầy
cáo đứt đuôi.

Đuổi được bọn Điền Quách đi rồi hiệp sĩ quay trở về bên bếp than, tiếp tục cuộc rượu với mọi người.

Nhất Tiếu tò mò :

- Tôn huynh quen biết ba người Lão Hổ, Lão Báo, Lão Sư là những người
nuôi gấu, nuôi beo, nuôi khỉ đột mà ông già khi nãy nói chuyện phải
không!

Hiệp sĩ gật đầu, nhưng nói lãng sang chuyện khác :

- Thịt công ngon tuyệt! Càng ăn càng thấy ngon! Lũ đó đến quấy rầy làm
mất hứng. Bây giờ không ai tới chọc phá nữa! Rượu gặp tri kỷ, uống ba
ngàn chén không biết say! Thịt ngon thơm béo, ăn ba chim công chưa chắc
đã hết thèm! Nhưng tại sao ta không mời vị cô nương ngồi trong xe ra
cùng ăn với chúng ta cho thêm vui?

Vương Nhi nói đỡ :

- Cô chủ tôi đang mắc phải kiêng thịt gà, thịt công, thịt ngỗng.

- Như vậy thì làm thịt chi nhiều, ai ăn cho hết?

- Hai gia nhân trên xe ăn khỏe lắm...

Nhất Tiếu cắt ngang :

- Ăn không hết, ta để dành mai đỡ phải làm bếp... Tài bắt tên của tôn huynh... thực là “quỷ khốc thần sầu”! Bọn đệ rất bái phục!

- Quý tăng quá khen. Tiểu đệ sợ liệt vị có biệt tài không kém!

Thanh củi đỏ hồng cháy kêu lép bép, hai hũ rượu vơi dần. Mọi người ăn
uống no nê. Không bao lâu, hơn ba chục chim công đều hết nhẵn.

Hiệp sĩ rất đỗi kinh ngạc vì nhận thấy mình ăn đã khỏe mà chỉ ăn hết ba
con. Trái lại, bọn kia chỉ có bảy, tám người mà ăn hết số thịt gấp mười
lần hơn!

Đã thế, vị cô nương ngồi trong xe còn nói vọng ra :

- Nghe câu chuyện của lão trượng kể hồi nãy, đàn công quả là mầm “tai
họa” trong vùng. Ta không muốn mang lên xe làm gì của bất nghĩa đó. Hai
gia nhân còn thòm thèm. Vương công tử bảo chúng nó vặt lông cho chúng
được ăn “thả dàn” tối nay cho đỡ hậm hực bị cấm đoán...

Cao Kỳ Nhất Phương từ lâu ngồi dựa gốc cây xa phụ họa :

- Phải đấy! “Ẩm thực nam nữ, nhân cho dại dục tồn yêu”. Việc ăn uống
cũng như trai gái yêu nhau là những “dục vọng” căn bản của mọi người.
Anh nào cũng có một tật, thằng nào còn sống ở đời mà chẳng thích ăn
ngon, uống sướng... và “yêu” một chút ít!

Vương Nhi nhìn Ái Hoa hòa thượng đương vỗ bụng vì bội thực nói giễu :

- Ăn no, ăn ngon thì tôi cố làm bếp cho các người có món ăn ngon, uống
rượu thì Nhất huynh khoái uống cứ uống cho thích, nhưng, nhưng trai
gái... yêu nhau thì phải có sự tự do luyến ái, thỏa thuận cả đôi bên.
Tôi không hoan nghênh cái lối “du tường toàn bích, thiết ngọc thâu
hương”... như thế là phạm pháp!

Ái Hoa gặn hỏi :

- Tôi dốt nát, không thông văn tự! Nói vậy là nghĩa thế nào?

- Nghĩa là “trèo tường khoét lỗ, cắp ngọc trộm hương”, như vậy là không tốt!

- Biết rồi! Khổ quá nói mãi! Thôi để tôi ra ngồi một xó, đếm một trăm,
chín mươi chín, chín mươi tám... ăn no đếm ngược lại càng thấy tức bụng
ghê.

Nói rồi, Ái Hoa lim dim đôi mắt nhẩm đếm như tụng niệm.

Hiệp sĩ thấy hai người phục sức gia nô, trùm đầu che kín cả mặt mũi trên xe vén mành bước xuống, lấy hết các buộc chim còn lại ra vặt lông nhờ
Vương Nhi thui cho chín thịt.

Chàng trai trẻ có bộ mặt “bô trai” nhất đám này hình như trời sinh ra
chỉ thích “khoa nấu nướng” tiếp tục nhóm lửa, quay chim không biết mệt
mỏi!

Lúc nào cũng giữ nụ cười vui vẻ hồn nhiên, ăn ít làm nhiều phục vụ cho
người đến quên sở thích của mình, Vương Nhi hình như nếu không làm cho
mọi người tận hưởng tài “ẩm thực tu tri” của mình thì sẽ khổ sở lắm.

Hiệp sĩ ngắm nhìn chàng ta nấu nướng, tự nhiên có ý ao ước có một tên hoa đầu thiện nghệ phục dịch cho mình.

Vương Nhi nói :

- Vị anh hùng này tâm địa rất đáng kính phục! Người ta giương cung định
bắt giết mình như thế, người hoa gươm múa giáo định giết mình như thế mà vẫn tỏ ra “độ lượng khoan dung” tha cho đi. Thực là hành động quân tử
hiếm có ở đời!

Đáng lẽ người lạ mặt này phải “đắc chí” nhưng mặt hắn ta vẫn “lạnh” nhu băng giá! Hình như hắn thản nhiên với lời khen tụng.

Hắn hết ngắm nhà sư Ái Hoa mồm lẩm nhẩm như tụng kinh, thì hắn lại nhìn Nhất Tiếu khề khà uống hết bát rượu cuối cùng.

Đôi môi đỏ ngầu, giọng nói thoáng hơi men, hắn lục ấn :

- Bữa nhậu hôm nay tại vườn cây “công đậu” này thật là hi hữu! Bữa nay
ta thấm say! Tỉnh rượu, giết người là một cái thú! Say rượu là chưa được “giết người” là chưa tuyệt thú! Đấy là thói quen đáng ghét của ta! Các
quý tăng đã cạo đầu đi tu, uống rượu say lại còn ngồi tụng kinh niệm
Phật! Ta không hiểu, cạo đầu đi tu, tụng niệm Phật như vậy thì thích thú nỗi gì?

Nhất Tiếu vốn hay ngụy biện phân giải :

- Hai vò rượu Bách Hoa đệ mua cho riêng đệ uống! Nhưng hôm nay có món
nhắm ngon, đem ra đãi khách, mọi người cùng uống cho vui! Thiệt tình,
uống thế này sâu rượu chưa “hồi tỉnh” nằm yên được! Muốn say, phải làm
chìm năm hũ nữa! Nhưng sâu rượu say thì đệ khoái ngủ. Cạo... trọc đầu
phanh áo hở rún ngủ, mát lắm. Còn tụng kinh niệm Phật, khi xưa sư phụ
tiểu đệ bắt tụng mới chịu tụng, hoặc bắt ép ngồi trước tượng Phật thì
mới tụng niệm mà thôi! Đi tu và tụng niệm có cái thú của con người, đi
vào con đường rộng thênh thang đầu óc chẳng nghĩ đến cái “đếch” gì hết?
Và không bao giờ tâm hồn đi nhằm vào “ngõ cụt” làm buồn bực chưng hửng
như bị thiếu thốn một cái gì?

- Đệ cảm thấy trái ngược lại! Đi tu bị bó buộc, khổ sở lắm thì phải? Đời sống ngang tàng, chiếm lấy phần lợi, không bao giờ chịu thua kém ai,
không chịu cúi đầu lạy lục pho tượng đất “rỗng tuếch”!

Nhất Tiếu cười hì hì, gãi cái đầu trọc cãi rằng :

- Tôn huynh không cạo đầu đi tu thì biết cái “đếch” gì về tu hành mà
phẩm bình? Chúng ta là con nhà võ nói chuyện về võ công thì dễ hiểu hơn. Thí dụ muốn tập võ phải khởi sự “luyện thần dưỡng khí”. Nếu không tập
cái lối chổng mông, chổng đít lên, dập đầu xuống đất thì làm sao dồn
được máu huyết chạy từ tim lên óc cho “đầu óc sáng suốt” để phát triển
những chiêu thế thượng thặng được? Đức Phật có bắt ta lạy ngài đâu? Đó
là đức Phật, mỗi lần ta đến tìm Ngài, thì Ngài lại bắt ta làm vài cử
động “dồn máu từ tim về óc” cho khỏe mạnh đấy chứ! Tôn huynh thí nghiệm
mà xem, luyện công mà không dồn máu mang ít “dưỡng khí” lên óc thì đầu
dễ hoa, mắt dễ choáng, điều khiển tay chân ra sao? Tay võ công kỳ diệu
không biết điều đó thì là đầu óc không có máu, là đầu óc chết, đầu óc tê liệt thì có khoa chân múa tay cũng chẳng hơn bọ chó múa gậy mà thôi.

Hiệp sĩ hỏi vặn lại :

- Như vậy theo ý túc hạ, Đức Phật phải kể là võ lâm đệ nhất cao thủ chăng? Nhưng người bảo Phật sợ đánh nhau cơ mà.

- Phật không đánh nhau là bởi vì Phật nghĩ rằng nếu xảy ra đánh nhau Phật nguyện chọn nạn nhân hơn là làm kẻ chiến thắng!

- Thế thì chưa đánh, Phật đã thua đứt đuôi rồi.

- Đúng nhưng cũng không đúng!

Hiệp sĩ cau đôi mày sếch ngược hỏi :

- Thế là nghĩa lý gì? Đúng là đúng. Không đúng là không đúng. Tại sao đã đúng lại còn không đúng. Thực là hàm hồ, lung tung rối mù, không thể
hiểu nổi!

Nhất Tiếu cười ha ha :

- Có thế mà không hiểu nói là tại vì óc ít máu đấy. Con người khí huyết
điều hòa, không bịnh hoạn, trí óc minh mẫn thì hiểu ngay mà!

Tôn huynh nghe đệ giảng đây này :

- Đệ nói đúng là vì muốn đạt võ công đến mức siêu đẳng phải biết hành
công phu Thiền tọa, hô hấp sao cho dưỡng khí thâm nhập vào máu huyết.
Nhịn đói hai mươi mốt ngày mới chết. Nhịn uống bảy ngày thì hồn lìa khỏi xác nhưng nhịn thở trong giây lát là hết ngáp. Máu đỏ chạy về tim, Phật nói linh đài nhất thốn tâm là quả tim treo trong lồng ngực đó! Người
ngồi tụng niệm, quả tim luôn luôn như quả chuông treo, đập nhẹ đều hòa
mà bơm máu đi khắp châu thân không bị mệt mỏi như quả tim nằm của kẻ
trần tục. Rượu phùng tri kỷ dễ gặp. Nhưng gặp hạn đâu có biết chơi cờ
tưởng tượng thì hiếm lắm! Chúng ta bắt đầu khởi cuộc chứ! Tiên khách hậu chủ xin mời huynh đài đi nước trước.

Hiệp sĩ hăng hái nhận lời ngay. Nhất Tiếu hài hước :

- Cao cờ là các ông, thấp cờ là thằng tôi! Đệ xin cáo lui, đi ngủ sớm
cho sướng mắt. Hai vị cứ uống trà, đánh cờ, nếu máu có tắc tị không
thông lên óc thì xin cứ... trồng cây chối mấy cái nếu không muốn lễ Phật cũng được. Như vậy sẽ khỏi nhức đầu ngay.

Tiếc thay không có ai cười ồ theo!

Mặt khách vẫn lạnh như tiền một cách đáng ghét.

Nhất Tiếu nghĩ bụng: Hôm nay xui xẻo gặp thằng uống ké rượu ngon của mình, mình càng đãi ngộ nó, nó càng lên mặt hợm hĩnh.

Chàng rút kim đao, hào quang lóe sáng ngời, cắm phập xuống đất, gác vỏ đao lên chuôi đao làm gối đầu, xoay ngang nằm ngủ.

Hiệp sĩ thấy lưỡi đao “nhập thổ” ngập hết xuống đất chỉ thò cái cán thì biết cây đao có lịch sử quý của nó.

Tuy hiệp sĩ nói nhỏ trong miệng mà cũng lọt tới thính giác của Tiểu Bạch ngồi trong xe, đang chống gậy bước xuống đất rất nhẹ nhàng.

Hiệp sĩ ngẩng đầu trông thấy hiện ra trước mắt “quốc sắc thiên hương”,
thêm dải lụa trắng chàng có vẻ mặt làm tăng vẻ đẹp kỳ bí ảo huyền.

Tiểu Bạch cúi đầu vái chào. Khách vội đứng dậy đáp lễ.

- Tiểu nữ vì đau lưỡng mục nên không sớm ra mắt kính chào hiệp khách.
Trong luật lệ giang hồ, biết hiệp khách không muốn phô trương danh tính, tiểu nữ cũng không cần tự giới thiệu. Bữa ăn bỗng nhiên hôm nay, đúng
như lời tiên sinh dạy, thực có tính cách độc đáo. Chúng ta là những bậc
phong lưu mã thượng giang hồ, không thể bắt chước phường tục tử, cơn no
rượu say rồi thì xắn tay vén áo, trổ tài quyền cước đấm đá tỷ thí hơn
thua, thực là mất cả ý nghĩa tao nhã của cuộc hội ngộ ngẫu nhiên. Vậy
tiểu nữ thân hành pha trà để chúng ta thưởng thức “trà đạo” vừa sảnh
khoái tinh thần vừa dịu bớt rượu nổng và giúp bao tử tiêu hao thức ăn
nhẹ nhõm.

Nói rồi, Tiểu Bạch nhoài người trong xe ra múc nước để đun sôi pha trà.

Cao Kỳ Nhất Phương từ nãy theo dõi câu chuyện. Chàng cầm trong tay một
chiếc lông công nhìn những sợi tơ óng ánh, chàng nghĩ tới những sợi lông nhỏ. Bất thần chàng hỏi :

- Tôn huynh có biết đánh cờ tướng không?

Hiệp sĩ biết Cao Kỳ Nhất Phương thách mình đấu cờ liền đáp :

- Cũng biết sạch nước cản! Nhưng tiểu đệ đã tập quen lối đánh cờ tướng
không cần bàn không cần quân, quý huynh có biết chơi cờ lối đó không?

Nhất Tiếu nói khích thêm :

- Chơi cái trò “cờ tướng” mệt óc lắm! Nếu “óc ít máu” thì là... thần trí bị suy nhược... mệt lả người hơn đấu võ đấy!

Cao Kỳ Nhất Phương thấy gãi đúng chỗ ngứa...

(mất 2 trang)

Cuộc ăn nhậu đã kỳ ngộ, cuộc đánh cờ lại càng kỳ dị hơn.

Tiểu Bạch thân hành pha trà và dâng trà đến tận tay hai người, mùi thơm
trà thơm ngào ngạt, mùi trầm hương tự giải bạch la y thoát ra phảng phất lại càng mê quyến quyến hơn... lẽ tất nhiên Tiểu Bạch đóng vai người
trọng tài, cầm “chịch” cuộc đấu cờ này.

Cẩn thận hơn, nàng lấy mũi thoa gạch lên miếng gỗ phẳng thành kỳ bàn và
khắc chữ lên những cục đá sỏi thay quân cờ để “khảo cờ” trên cờ trên bàn theo tiếng nói của hai tay danh kỳ, tính toán đi cờ trong ý nghĩa.

Thanh âm tiếng nói của Thất Tình Tú Sĩ cất lên thanh sảng, đầy hào khí, ung dung, tự tin.

Thanh âm của khách lạ trầm hơn, nhưng trong đêm khuya nghe cũng có âm hưởng rùng rợn, sát phạt, gay gắt.

Cao Kỳ Nhất Phương có vẻ “nhường” nước nên trong hai chục nước khai trận, khách lạ bốn lần cất ngay tiếng “sát” rùng rợn :

- Xa tam tiên tứ... “sát” mã!

- Pháo ngũ tiến tứ “sát” tốt!

Mỗi lần chữ “sát” vang lên, tay hiệp sĩ lại lại mân mê chuôi kiêm thò
dài ra khỏi bao. Hai mắt hắn phản chiếu ánh lửa lung linh như đồng tử
cọp dữ lúc sắp vồ mồi.

Uống xong hai tuần trà thì Cao Kỳ Nhất Phương đã thoái liền mười bước và hất bày quân bỏ ra khỏi bàn, trái lại địch thủ còn nguyên vẹn chưa
khiếm khuyết một quân cờ nào hết, lực lượng đôi bên chênh lệch rõ rệt.

Hiệp sĩ dùng tay nắm chặt chuôi kiếm, các gân trên mu bàn tay nổi phồng
lên, rõ ràng trong trí óc người đánh cờ đương nghĩ toàn chuyện “công
phá”.

Vương Nhi và người trong xe lúc này đã trùm mền nằm ngủ say li bì. Tiểu
Bạch chăm chú nhìn bàn cờ do mình vạch, tính toán ngẫm nghĩ nước cờ lo
thay cho Cao Kỳ Nhất Phương đã quá coi thường địch thủ, có nhiều nước
chàng có thể chặt được quân mà chàng cũng “không ăn”. Chắc hẳn, chàng có một kế hoạch nào đây? Từ lúc khởi đầu chưa có một quân cờ của bên chàng vượt qua “sông”, sang bên địch cả.

Trái lại, cờ bên khách tấn công ồ ạt, bao nhiêu lực lượng “xe pháo mã” đều kéo sáng mặt bàn cờ bên này.

Nhưng cờ bên khách chỉ có thể ăn quân mà không có nước chiếu bí.

Trái lại, Cao Kỳ Nhất Phương thì xoay chuyển có nhiều nước chiếu mà không cần ăn quân.

... Đêm khuya, sương lạnh, lửa tàn... hai gia nhân trùm đầu, không biết
đã ăn cả đống thịt chim công tự lúc nào vì không ai ngửi thấy mùi thịt
chim công quay lửa. Rất ít người biết rằng: hai Cẩu đầu quái, mới đầu
làm ra vẻ “văn miệng” ăn thịt công quay chín. Nhưng về sau, vì nhu cầu
“đổi vị”, hai Cẩu đầu quái đã... xơi tái thịt công sống ngọt, máu tươi
vì thú tính chưa “dứt nọc”.

Chúng tới khi nghe Tiểu Bạch hối cời lửa than cho cháy và cho thêm củi
thì hai Cẩu đầu quái hai tay bê bết máu cứ thế sục vào giữa than đỏ gạt
lửa cho sạch và che giấu sự ăn vụng sống theo lối man rợ đặc biệt của
mình.

Mọi người trong bọn Nhất Tiếu đã biết Cẩu đầu quái có hai bàn tay mọc
vẩy tê tê cho vào lửa không biết sợ nóng. Nhưng đối với vị hiệp sĩ đang
đấu kỳ này thấy vậy sợ “hết hồn”!

Thoạt tiên, hắn ta tưởng hắn chơi cờ mệt trí nên hoa mắt trông lầm hai
kẻ gia nô kia tự thui tay mình? Nhưng nhìn nhận ra công phu lấy tay cời
lửa than hồng không bị cháy xém da thịt thì thực là “võ công” trên đời
khó thấy!

Hắn rùng mình, mồ hôi lạnh dấp dính nơi sống lưng, hắn vội buông tay
không nắm chuôi kiếm nữa, rồi đẩy nhẹ thanh kiếm nằm hẳn ra trong bao
vải. Nhưng hắn giật mình nhận ra rằng lần ngoài bao vải đã bị rách toạc
một miếng nhỏ bằng đúng mũi hài thêu.

Đến lúc này hiệp sĩ mới nhận ra rằng đã hai lần “cô gái mù” chống gậy
dâng trà, cô gái xinh tươi đó đã vô tình giẫm mũi hài thêu lên bao kiếm
của mình. Mặc dầu bao vải “bố sam” này dao cắt không đứt, mà cô ta đã
vận công làm rách bao kiếm. Như vậy, chẳng những là làm rách bao ngoài
mà chứng tỏ cô đã cố tình muốn giẫm gãy khí giới tức thanh Mộc kiếm quý
báu của hắn!

Nếu là thanh kiếm tầm thường khác, không có “lai lịch” thì đã bị gãy đôi, gãy ba, còn dùng chi được?

Hắn nghĩ bụng :

- “Con nhỏ” coi vậy mà “ác ôn” thực, nó bước nhẹ khéo léo giẫm rách bao
kiếm của ta lúc nào không rõ? May tay nó vẫn vờ khảo cờ, kỳ thực quân cơ chọn toàn “cục sỏi” cứng rắn thế kia, khác chi Lưu Tinh đạn có thể
phóng ra đả thương ta lúc nào không ai hay? Thảo nào, cứ mỗi lần ta chặt quân nói “sát” thì thằng sư tụng nhiệm kia lại hai mắt mở thao láo! Đôi “kim câu” đeo sau lưng không phải là vật coi thường! Còn thằng mặt mũi
trắng trẻo đương ngồi dựa gốc cây đằng xa “đấu cờ” với ta, lúc nào cũng
mẫn mê cán dù, không khéo lại là cán gươm cũng nên? Ta tưởng chỉ cần đối phó hai, ba tên đầu sỏ có bản lĩnh, té ra bọn chúng đông đảo và tài
giỏi vô cùng...

Nghĩ vậy khách lạ càng thêm bối rồi.

Cao Kỳ Nhất Phương với giọng rất bình tĩnh xướng lớn :

- Pháo cửu bình ngũ... “chiếu tướng”.

Chà, nước chiếu tường này mới độc địa làm sao? Bao nhiêu ý nghĩa sát
phạt của hiệp sĩ tiêu tan như mây khói. Hắn thấy thần trí rối loạn khó
cự trông đương ngoài tới sáng. Đấu “kỳ” khó thắng mà đấu “võ” thì lại
càng thấy khó thắng hơn!

Đã hai ba lần hắn đưa tay lên trán định “vuốt mặt” nhưng lại thôi. Cờ đương thắng mà rút về thế thủ thực là bực tức hết chỗ nói.

Với giọng nói uể oải, kém hùng dũng hơn lúc khai trận :

- Sĩ tứ tiến, ngũ.

- Pháo bát tiến... cửu, “chiếu tướng”.

Cứ mỗi lần Cao Kỳ Nhất Phương chiếu tướng thì hiệp khách lại mất một khoảng thời gian dài dằng dặc, ngẫm nghĩ đối phó.

Tiểu Bạch dâng tuần trà lần thứ ba thì trời đã ngả về sáng. Hiệp khách
hết say, nhưng thần trí đã thấm mệt lắm rồi. Nghĩ đến câu Nhất Tiếu nói
buổi tối “óc ít máu” phải “trồng cây chuối ngược” mặt hắn lại càng lầm
lì, nặng hơn chì, u ám hơn cả bóng đêm thăm thẳm...

Hắn cầm chung trà uống mà không cảm ơn!

Tiểu Bạch muốn mở một “lối thoát danh dự” cho đối phương, nàng trịnh
trọng tuyên bố rằng bên Cao Kỳ Nhất Phương “kém quân chiến đấu”, bên
khách “không thể tiến quân” bị nước chiếu liên tiếp, vậy cờ ở “thế hòa”, bình phân...

Nhưng hiệp khách cũng thừa biết là cờ mình ở thế sắp bị chiếu đến nước hết!

- Tiện nữ cần phải lên đường gấp, không thể chậm trễ! Cuộc cờ đêm nay và bữa ăn tối qua sẽ là kỷ niệm về sau. Hẹn mong ngày tái ngộ!

Tiểu Bạch đánh thức Vương Nhi và người trong xe tỉnh dậy. Nhất Tiếu cất tiếng nói oang oang :

- Quái lạ! Cái thằng nhóc Điền Quách, nó bị vạch chữ vào mặt, nó không
về trang trại gọi thằng “bố nó” và mấy cái tên nuôi báo nuôi beo gì đó,
lại đây... quần thảo với chúng ta một vài hiệp cho giãn xương cốt! Tôi
nằm chờ nó suốt đêm qua, mất công toi! Biết thế khởi hành ngay từ lúc
nửa đêm có phải là đi được bao nhiêu đường đất rồi không?

Tiểu Bạch đáp :

- Đánh nhau ích lợi gì? Mình đánh người ta lỗ đầu thì người ta cũng đá
mình “rách áo”. Đôi bên đều thiệt! Hả cơn tức giận thì... mang hận suốt
đời!

Sau khi buộc lừa vào xe xong xuôi, mọi người chào nhau chia tay khởi
hành. Hiệp khách ấm ức, tay xoa lần bao vai bị rách, lạnh nhạt nói :

- Cám ơn thịt rượu! Đệ xin nhớ cuộc đấu kỳ đêm qua! Thế nào cũng có ngày “tái đấu”. Nhưng bây giờ các vị vội lên đường nên đi thẳng lối này qua
Điện trại, “ghé mắt” nhìn qua bố con nhà hắn một chút rỗi hãy vó câu
rong ruổi.

Nhất Tiếu đáp :

- Bọn ta đã ăn bao nhiêu thịt công của người ta thì cũng phải lại gặp
mặt chủ, cám ơn một lời cho phải đạo! Tiểu tăng “sợ” gì mà không dám đi
qua Điền trại?

- Làm đúng như vậy nhé! Kính chào các vị! Kính chào cô nương. Trà cô nương pha cho uống, đến chết không quên hương vị!

- Cám ơn quý hữu quá khen! Hẹn tái ngộ!

Nhóm người Nhất Tiếu rời vườn trái cây, theo quan lộ tiến hành.

Đi một quãng đường dài, thấy xa xa có một khu gia trang rộng lớn, sau
lùm cây, mái nhà san sát. Hai chàng cưỡi ngựa xông lên, tay sẵn sàng đặt lên cán đao, chuôi kiếm, đề phòng bất trắc.

Tiểu Bạch cẩn thận hơn, gọi Vương Nhi và người dong xe lui vào trong xe
để Ái Huê dong cương. Hai Cẩu đầu quái chuẩn bị có biến thì phải nhảy
xuống hộ vệ hai bên thành xe. Còn Tiểu Bạch vén rèm nghe ngóng.

Nhưng Thất Tình Tú Sĩ trỏ tay lên trời nói lớn :

- Đàn chim bay lượn quanh gia trang là chim gì? Chim nuôi hay đàn quạ
khoang? Quạ khoang chỉ bay liệng chỗ nào có xác người chết? Điền trại
chúa nuôi bầy chim quạ nữa ư?

Sắp tới cổng trang, xe lừa và ngựa đi chậm lại để người ngồi trên quan
sát. Không nghe tiếng gà, tiếng chó. Gia trang hiu quạnh như không có
người ở.

Hai cánh cổng mở toang. Giữa cổng giồng bốn chiếc cọ, trên mỗi ngọn cọc có cắm một thủ cấp máu me bê bết.

Mỗi chiếc cọc đều có biển đề tên họ của mỗi chiếc đầu lâu.

Đọc kỹ tên họ. Điền Quách, con trai Trại chủ, trên trán hãy còn vết rạch bằng mũi tên đề chữ “Mộc”.

Thủ cấp thứ hai đề tên họ Điền, cùng một khuôn mặt nhưng râu tóc già hơn chắc là đầu lâu của trại chúa.

Cọc thứ ba và thứ tư cắm hai đầu đàn bà tóc dài, chắc chắn vợ và ái thiếp của Trại chủ, cả thảy bốn mạng người.

Nhất Tiếu há hốc mồm vì kinh ngạc, chàng nói :

- Các vị có tin là ma quỷ bày trò hay linh hồn gia đình chủ vườn cây
“Dương Bộc” đã về báo oán, giết bốn mạng nhà họ Điền. Nhưng còn mấy anh
em tân khách nuôi báo nuôi beo và lũ tráng đinh đâu, không thấy một bóng người nào xuất hiện?

Thất Tình Tú Sĩ xách gươm đảo quanh trang viện thấy vườn không nhà
trống, các người ở trong trang trại đã vơ vét hết kho dụn, đồ tế nhuyễn
của riêng tây họ Điền, mang đi hết từ khuya!

Ngẫm lại lời hiệp khách vô danh mang mộc kiếm, dặn dò bọn Nhất Tiếu nên
“ghé mắt” dòm qua Điền gia trang, chắc hắn có liên can biết tới chuyện
tru lục toàn gia này!

Hiệp khách vô danh đã ra tay trả thù cho gia đình bốn người họ Dương
chăng? Không có lẽ! Suốt đêm qua hắn ăn thịt, uống rượu, đánh cờ, uống
trà không bỏ đi một giây phút nào? Làm sao hắn có thể phân thân, biến
hình để hành tội họ Điền?

Vậy thì ai giết nhà họ Điền?

Nhưng dù sao ai giết thì cũng “oan oan tương báo”, hại người người hại, tất cả chỉ trong vòng nhân quả mà thôi!

Tiểu Bạch suy nghĩ chốc lát, miệng nàng lẩm bẩm chữ “Lục Diệp nhai”;
nhất định vụ Lục Diệp nhai có liên can đến ba anh em Lão Sư, Lão Hổ, Lão báo và hiệp khách mang kiếm gỗ nọ.

Mọi người rời Điền gia trang, tiếp tục cuộc hành trình. Dọc đường, Tiểu Bạch nói với Nhất Tiếu rằng :

- Nhất huynh nhận xét việc xảy ra vừa rồi như thế nào?

Nhất Tiếu đáp :

- Tôi không ngờ ở Trực Lệ lại có nhiều sự kỳ quái như vậy? Từ bữa qua,
hành trình bị đình trệ, phần vì tôi tham ăn tham uống. Phần cho rằng
thằng chả lãng nhách kia đi theo, từ lúc nó đi theo sinh ra lắm chuyện!

Ái Huê đương rong cương cho lừa chạy, gân cổ cãi lại rằng :

- Oan em quá, ông anh ơi! Ông anh ăn nhiều uống lăm, mắng mỏ đàn em, đàn em phải chịu! Em bị đòn đâu, ăn ít, uống ít, ngồi học đếm thâu đêm suốt sáng, vừa đếm vừa rình thằng cha kia, hai mắt nó phát tia hung quang,
tay luôn luôn nắm vào chuôi kiếm, kinh hãi thấy mồ! Theo ý em đã từng
lăn lộn giang hồ, thằng chả đo chẳng phải quân đại đạo thì cũng phường
đánh thuê giết mướn, khát máu, khát giết như những ác ma ác quỷ... chứ
tử tế gì đâu?

Tiểu Bạch nói :

- Nhận xét khá lắm! Đúng vậy! Lúc nó còn đói thì cùng bọn ta ăn uống tử
tế lắm. Nhưng về sau ăn uống no say, hắn thèm động thủ, tay luôn mẫn mê
chuôi kiếm, rút ra khỏi bao lại tra vào dăm chục bận! Nếu không bày cuộc đánh cờ thì đêm qua đã xảy ra những trận giao đấu kịch liệt rồi!

Thất Tình Tú Sĩ góp ý kiến :

- Tôi cũng nhận xét thấy như vậy! Các nước cơ hắn đi tỏ ra hắn rất hiếu
sát! Tôi biết hắn là một tay thiệt kiếm nên mỗi lần hắn đặt tay lên
chuôi kiếm thì tôi cũng phải chuẩn bị đặt tay lên chuôi thanh Song Nhạn
Thiên Linh hờm sẵn!

Nhất Tiếu cũng cười đáp :

- Mọi người tưởng tôi ngủ ngon lắm sao? Phép cắm đao nhập thổ của tôi là một chiêu thế cao siêu nhất trong phép đánh đao, lần đầu tiên trong đời gặp đối thủ tôi phải rút sẵn kim đao để ngoài vỏ. Không lẽ rút đao để
chềnh ềnh trong lòng tỏ ra khiếp nhược, sợ hắn lắm ư? Nếu hắn là tay lão luyện thì cũng biết thâm ý tôi hạ đao cắm xuống đất là muốn gì rồi? Hắn sợ tôi ra chiêu bất thình lình nên không lúc nào hắn dám để tay xa
chuôi kiếm là như vậy!

Tiểu Bạch cũng cười chúm chím :

- Còn tiểu muội thì cũng đã rắp tâm làm gãy kiếm của hắn! Cứ tưởng thanh mộc kiếm mảnh mai, chỉ nhấn mũi hài là gãy, thế mà lần thứ hai em giẫm
rách lần vải bố sam bao ngoài mà thanh kiếm không bị chấn gãy đấy? Không biết kiếm của y luyện bằng chất gỗ gì?

Ái Hoa nghe mọi người trao đổi ý kiến phục quá nói theo :

- Thế ra các ông anh, bà chị đều giữ miếng với nó cả! Em cứ tưởng chỉ có mình em biết. Em ngồi học đếm, nhưng hai mắt vẫn cố thôi miên nó mà
không được! Thằng chả công lực thâm hậu lắm! Em không khiến được nó “tản thần” mà trái lại mỗi lần nó quắc mắt nhìn lại tiểu tăng thì, trời ơi
em sởn cả gai ốc! Xem chừng nó ngán nhất hai ông trùm đầu kia kìa? Nó
thấy hai ông ấy ăn khỏe quá, hết cả đàn, đống thịt công, nhau nháu mấy
miếng lại hết một con, rồi lại còn thọc cả bàn tay vào đống than hồng mà không bị bỏng. Phép luyện thiết thủ tỵ hỏa này làm hắn hoảng sợ là phải vì mộc kiếm gặp lửa là cháy tiêu còn gì.

- Chưa đúng như vậy, hắn sợ chúng ta vì số đông, chứ không phải sợ hỏa
chưởng? Trông bốn bề, thiếu gì ác ma quái hiệp? Vì thế Mã phu nhân không muốn chúng ta ngao du sông núi. Tiểu muội cầu mong từ đây trú cư Xích
Lão bá, chúng ra không gặp những chuyện cản trở nữa!

Xe chạy tới gần ngọ, bụng ăn no tối đã thấy lưng lửng đói, bỗng thấy
đông người lố nhố đứng chắn ngang đường. Không lẽ giữa giữa nơi xóm làng đồng ruộng trù phú như thế này cũng nảy sinh phường đại đạo? Lại gần,
thấy đó là đám dân lành chất phác. Trong số có mấy hán tử mặc tang phục
sô gai. Chắc cha ông bà mẫu gì của những người đó đã qua đời. Họ đứng
chờ ai giữa quan lộ này?

Thấy bọn người Nhất Tiếu đi tới các người bận tang chế đều phủ phục cả xuống. Nhất Tiếu xuống ngựa hỏi duyên cớ sự tình.

- Thực là quý hóa quá! Bạch hòa thượng, nhà tôi có phúc lớn lắm!

- Các người đứng dậy. Có việc gì xảy ra vậy?

Người đứng tuổi nhất trong đám đến trước Nhất Tiếu cung kính nói rằng :

- Tổ mẫu chúng tôi về chầu Phật từ tối kia. Trước khi lâm chung có dặn
con cháu phải rước hòa thượng độ vong. Ngặt vì trong vùng có ít chùa
chiền nên việc thỉnh hòa thượng về làng rất khó khăn. Chờ từ sáng đến
quá tỵ, không thỉnh được vị tăng nào cả, giờ hạ huyệt sắp tới nơi rồi mà quan tài vẫn chưa đưa ra đồng vì chưa có hòa thượng dẫn đàng tụng kinh
siêu độ? Chắc tổ mẫu chúng tôi sinh thời thành tâm lễ Phật nên thánh
thần run rủi đưa các thầy tới đúng lúc. Bạch hòa thường xin giúp gia
đình làm phúc!

Nhất Tiếu gặp khó khăn hơn phá thế trận Thiên Cương Đao. Chàng quay lại
nhìn Ái Huê hỏi ý kiến, nhưng thấy vị tăng này còn lúng túng hơn nhiều.

Chàng đánh bài liều, nói lảng :

- Bần tăng có việc riêng của thiền viện phải đi gấp, không mang kinh kệ, thanh la não bạt đem theo thì biết lấy gì mà dẫn độ vong linh qua Tây
phương được?

Gia chủ và tang quyến bu quanh, lạy van xin ra tay tế độ buộc Nhất Tiếu và Ái Huê phải theo họ làm lễ cầu siêu.

Sự níu kéo rất thành khẩn, rất cung kính khiến bọn người Nhất Tiếu hết phương sách thoái thác.

Tất cả mọi người và ngựa xe đi vào một con đường rẽ ngang, tới cổng một
khu nhà cửa rộng rãi ngăn nắp trong ấp. Đám táng đã sẵn sàng cử hành,
nhưng chỉ thiếu có vị tăng đến niệm Phật.

Nhất Tiếu và Ái Huê là hai vị tăng rất giỏi võ công, nếu hỏi về chiêu số chưởng pháp thì hai chàng tinh thuộc lầu lầu, có thể thao thao bất
tuyệt, đàm luận suốt ngày được. Nhưng hỏi về bộ kinh Lăng Nghiêm Tam
Tạng, Báo Ân, Dược Sư, Địa Tạng... thì khó lòng nhớ lấy một chữ ngoài
câu “Nam Mô A Di Đà Phật” và “Ma ha tát” mà thôi.

Hai chàng luýnh quýnh không biết xử trí thế nào cho đúng với bổn phận
phải làm của mình... Tiểu Bạch vội kêu hai người lại gần xe ghé tai nói
nhỏ.

Hai người hớn hở cứ theo đúng lời căn dặn thi hành. Thoạt tiên tắm gội
sạch sẽ, sửa sang lại cà sa, áo choàng cho tươm tất. Phút chốc sau hai
bực “đạo hạnh”, mặt mũi quang minh, khoan thai trịnh trọng bước vào nơi
quàn linh cữu, tay cầm thanh gỗ đập kêu vang lên thay mõ, miệng niệm
danh hiệu “thập phương chư Phật”, bồ tát, a la hán... Hai người cùng rì
rầm tụng niệm một lúc, thanh la khua, choeng choeng, lốc cốc, chẳng ai
nghe hiểu được tiếng gì hết.

Nhưng cứ trông bộ mặt trang nghiêm của nhà sư Ái Huê lẩm nhẩm “tập đếm”
đã mấy hôm nay, thì người nhà gia chủ, ai ai cũng tưởng rằng chàng tập
trung tinh thần tụng niệm độ vong một cách... “vô lượng chân trí chân
tín” đầy Bồ Tát hạnh cứu vớt “vong linh”!

Nhưng có ai biết đâu là Ái Huê đương hết đếm ngược rồi đếm xuôi từ một tới một trăm rồi lại từ một trăm trở về một...

Đám táng bắt đầu cử hành. Nhất Tiếu tay cầm cành phướn trên đề bốn chữ
“Tây Phương cảnh thổ”. Ái Huê đi sau gõ lốc cốc, đếm lẩm nhẩm “Tò te tí
te” kèn trống tưng bừng, náo nhiệt!

Gia chủ và tang quyến vui sướng hết sức vì tổ mẫu quá cố đã được toại
ước nguyện lúc sinh thời, lúc chết có “thầy tu” dẫn đường sang Thiên
Trúc.

Vì vậy, mọi người trong ấp trọng đãi bọn người Tiểu Bạch rất hết lòng.
Ngựa, lừa được tắm rửa nghỉ ngơi ăn lúa non, cỏ tươi, nước giếng trong.
Thực phẩm “cúng dâng” bày la liệt oản, bánh, xôi, chuối, trái cây, hoa
lá không thiếu một thức gì!

Tuy nhiên Tiểu Bạch cũng phải sai người ra tận huyệt căn dặn hai tiểu
hòa thượng, lúc “chạy đàn” quanh mộ phải thận trọng bước thong thả, đừng có hấp tấp phát triển vũ bộ khinh công chạy nhanh như đèn cù thì người
nhà gia chủ sẽ chóng mặt ngã lăn ra hết...

May mắn, mọi sự đều diễn tiến đẹp đẽ suôn sẻ không xảy ra sự gì trục trặc.

Dân trong ấp, sau khi cử hành đám táng, bà cụ được được “mồ yên mà đẹp”
lúc trở về mổ bò giết trâu ăn uống linh đình vì tin tưởng bà cụ đã được
siêu thăng lên cõi Niết Bàn. Từ nay, con chúng sẽ tiếp tục cuộc sống đầy phúc lộc trong sinh năm đẻ bảy.

Đám táng người già còn “vui” hơn đám cưới.

Như vậy, đoàn người Nhất Tiếu không thể giã từ lên đường ngay được vì
hai vị hòa thượng biến thành hai “thượng khách” của mọi người.

Phái phụ nữ nhiệt liệt hoan nghênh Ái Huê hòa thượng vì vị sư trẻ tuổi
này “đứng đắn”, tụng niệm luôn miệng và tỏ ra “nhút nhát” muốn tránh phụ nữ. Hắn sợ là phải nếu vô ý cử động một động tác “bất đạo hạnh”.

“Bất kiêm thiện” thì Tiểu Bạch lạ cho nếm mùi “qua cầu truyền” kim trâm tay, “trầm thủy” uống nước no bụng thì đi đời nhà ma!

Riêng có Nhất Tiếu, ngửi mùi bê thui, tương gừng tỏi ớt và rượu đế thơm
phức, thì các con sâu rượu nhất tề diễu hành vũ điệu túy cuồng khiến
Nhất Tiếu lên cơn sốt rét!

Chàng bất giác nói :

- Chà bê thui “thơm” quá!

Gia chủ vồn vã hỏi :

- Bạch hòa thượng! Bên non nhồi lá ớt, thui bằng rơm cháy bùng, chín
tới, thơm ngon lắm ạ! Hòa thượng “dùng” với chúng tôi vài miếng, “ăn
chơi”!

Nhất Tiếu không cần chờ tới lời mời thứ hai, đứng dậy rảo bước tới chỗ
thui trâu, thui bò. Gia chủ đưa con dao nhỏ cho hòa thượng để ngài muốn
cắt một miếng nào “tùy ý”!

Thấy chưa động dao mới hít hà mà hòa thượng đã khen luôn miệng, các
thanh niên trong ấp đương thui bê thích chí reo hò hoan nghênh cử chỉ
“bình đẳng” của hòa thượng. Nhất Tiếu nhè chỗ thịt mỏng xẻo một miếng
lớn nặng hai ba cân, nước ngọt nhiễu ra ròng ròng... chấm bát tương gừng căn thử một miếng... tuyệt hảo.

Thấy Nhất Tiếu làm như vậy, gia chủ bắt chước làm theo, mọi người cũng xúm xít lại xẻo thịt ăn như hòa thượng.

- Rượu, rượu! Một xị, hai xị, ba xị...

Mọi người xô nhau mang rượu tới, cùng nâng bát, nâng chén, mới uống la lối ầm ỹ, vui hơn hội!

... Sau khi đã dẹp tan được sự “nổi loạn” của đám sâu rượu trong bao tử, Nhất Tiếu cười nói lớn :

- Từ trước đến nay, mọi người lầm tưởng gán cho đạo Phật “thanh tịnh”
tịch diệt duy ngã độc tôn là lầm lớn. Phật đã bảo: “Phật sẽ không thành
Phật nếu còn một người trong bọn chúng ta chưa thành. Phật! Phật sẽ ở
đâu? Phật tại tâm”. Các vị muốn thành Phật thì sẽ... thành Phật tất cả!
Phật có duy trì cái lối “tịch”... thanh tu như các thầy tỳ khưu ốm nhom
co ro như que củi đâu? Lúc nào Phất chẳng thoải mái mỉm cười? Thịt bò
ngon thế này mà không biết thưởng thức thì lấy đâu sức khỏe để đi hết
con đường... vạn dặm? Ăn cơm suông thì “lết chân” không nổi! Không uống
rượu thì “huyết bất hành” dễ sinh bệnh phong thấp, đầy hơi và... đau
bụng!

Các thanh niên trong ấp hoan hô :

- Đúng rồi! Mời sư phụ làm miếng này, “bí ròn”... nhai thú lắm!

- Bạch sư phụ, ăn thịt không bằng ăn tái sách nướng, gan bò tươi bao lá sả...

Ngoài sân đột nhiên nổi lên một “hoạt cảnh” vui vẻ tưng bừng vô hạn
định. Phái phụ nữ không hoan nghênh ý kiến của sư phụ Nhất Tiếu.

- Ai ngả mặn thì mặc! Đã tu thì phải chay!

- Kính dâng sư phụ bánh khảo nhân mặn xanh này, chúng em làm ngon lắm!

- Dạ! Trái tuyết lê này ngọt lừ!

- Sơi đậu phộng chấm muối mè... vừa bùi vừa bổ! Đậu phụ chiên dầu ăn nóng chấm nước tương kém gì... thịt bê thui!

Ngoài sân ăn mặn! Trong nhà ăn chay! Thất Tình Tú Sĩ thấy hai hòa thượng được chiêu đãi quá sức thì cũng hơi ghen tức trong lòng. Chàng ghé tai
Tiểu Bạch nói nhỏ :

- Hôm nay hai anh trọc nó sắp thành “Phật sống” đến nơi rồi! Nếu biết họ được ưu đãi như thế này tôi cũng muốn “xuất gia” quá xá, tiểu thư ạ! Ai bảo đi “tu” là khổ? Tu đạo thấy thành quả như vậy thì đáng tu lắm.

Nhưng có tiếng ồn ào ở nhà ngoài. Gia chủ đường cật vấn một tên người nhà hấp tấp xuống ngựa ở ngoài công đi vô.

- Trời! Sao về muộn vậy! Tang lễ xong xuôi cả mà bây giờ mày mới về?
Công việc thỉnh sư ra sao? Sự cụ sao lại không đến? Ngày thường tứ thời
bát tiết cúng tiến lễ vật hương hoa, mùa nào thức ấy, có bao giờ khiếm
khuyết vật gì đâu? Đến lúc hữu sự, thỉnh sư không đến? Thế là nghĩa lý
gì?

Tên người nhà đáp :

- Ghê lắm! Tôi đến Bồ Đề am từ sáng sớm. Sư cụ Chính Giác đã nhận lời
cũng tiểu sa di đi thu thập hành trang lên xe thì có một thằng hung bạo ở đâu chạy đến. Nó rút thanh kiếm bằng gỗ đen sì cầm tay chặn lối đi hỏi
rằng :

- Này trên trọc khốn nạn kia, mi có biết bắt đầu từ hôm nay, ta “phát nguyện” như thế nào không?

Sư cụ Chính Giác đáp: “Tráng sĩ phát nguyện như thế nào?”.

- Vì đấng Thế Tôn là một người “giỏi võ” ta không muốn ai giỏi võ hơn ta, vậy bắt đầu ta giết tất cả những tên trọc mà ta gặp!

Nói rồi hắn vung kiếm chém rụng đầu sư cụ Chính Giác và tiểu sa di. Vào
am, người nào để tóc hắn tha giết. Người nào cạo đầu hắn chặt đầu liền.
Vì thế nên không đón được sư cụ về đây cho chủ nhân.

Gia chủ nghe chuyện sợ hãi quá chừng, luôn miệng nói hai chữ “tội nghiệp”!

Tiểu Bạch thính tai nghe rõ câu chuyện hai người nói với nhau, nàng liền bàn với Thất Tình Tú Sĩ cho mời tên gia nhân nọ vào hỏi chuyện.

Bốn người vào căn phòng nhỏ, đóng cửa lại, mật vấn. Sau khi khiến tên
gia nhân mô tả hình dáng tên sát nhân thấy trùng hợp với người lạ mặt
mang kiếm gỗ trong vườn trái cây, nàng hỏi :

- Sau khi tên sát nhân giết các nhà sư trong Bồ Đề am, anh có nghe thêm
chuyện gì nữa không? Bồ Đề am cách xa Điền gia trang bao nhiêu dặm
đường?

Anh cứ bình tĩnh, thong thả kể hết cho chúng tôi những điều mắt thấy tai nghe sau khi vụ án giết sư xảy ra?

Tên gia nhân nọ liên uống mấy ly nước trà cho khỏi khát kể cho mọi người nghe câu chuyện hắn đã nghe được.

- Tôi tên Xung Phát. Chủ nhân tôi tin cậy là một tên gia nhân tinh tế và có tính cẩn thận. Sau khi dắt trong người năm lạng bạc đi thỉnh sư về
độ vong, tôi định bụng thế nào cũng tạt qua Điền gia trang thăm người
yêu của tôi là Thúy Hạnh làm thị nữ cho Trang chủ. Bồ Đề am cách Điền
trang có nửa dặm đường, như vậy cũng đủ thì giờ vì tới giờ Ngọ mới làm
lễ hạ huyệt. Ngựa tốt, xe tốt chạy nhanh tới nhà còn dư kịp làm lễ.
Nhưng việc sư cụ Chính Giác, tiểu sa di và hai vị sư bác bị tên ác tặc
chém rụng đầu đã làm trì hoãn ý định đi thăm người yêu của tôi. Lý
trưởng sở tại giữ tôi làm nhân chứng để chờ nha lại trên quan về tra
xét. Đáng lẽ chúng tôi phải lên huyện nhưng trên huyện đã phái người về
xem xét vụ án tại Điền gia trang. Nhà cửa trong trang bị cháy thiêu rụi, ngoài cổng cắm bốn cái cọc bêu thủ cấp Trại chủ và gia đình. Các người
ăn làm, gia nhân, thị nữ, tráng định trong trại hơn một trăm người đều
mất tích không tìm được một người nào để tra cứu.

Bốn chiếc đầu người dựng trước cổng trang án ngữ như bốn ma đầu nên
không ai dám xông vào chữa cháy bên trong. Ngọn lửa hoành hành biến
trang trại thành đống tro tàn, gia súc, trâu bò lừa ngựa xe cộ trong
trang không còn vết tích.

Thực là một vụ án khủng khiếp, vô cùng kỳ lạ không ai hiểu đầu đuôi ra sao?

Người ta rỉ tai nhau thì thầm “hồn ma” về báo oán! Trước kia Điền Quách
con Trại chủ có giết gia đình ông Dương Bộc bốn người vì trộm chim công
giết thịt sao đó? Bây giờ, hồn người chết từ cõi âm trở lại báo thù?

Riêng tôi thì tôi lại sợ cho Thúy Hạnh của tôi quá! Tôi rất hối hận vì
thấy họ nhà Điền giàu có nên chạy chọt cho nàng vào làm thị nữ, mong
kiếm được nhiều tiền làm vốn rồi xin ra ăn ở với nhau. Biết đâu cơ sự
xảy ra nhanh chóng và ghê sợ như thế này?

Họ hàng thân nhân những người làm trong trang trại hay tin, một đồn
mười, mười đồn trăm kéo đến đông nghẹt trước bãi tro tàn, nhiều kẻ kêu
trời la khóc ầm ĩ. Họ chia nhau đi khắp ngả dò kiếm khắp nơi mà không
một ai thấy dấu tích gì cả!

Vụ án Điền trại còn kinh khủng hơn vụ án xảy ra tại Bồ Đề am, vì họ Điền rất có danh vọng trong vùng.

Vì vậy nên tôi có nói với ông “Đô đầu” cho tôi về nhà báo tin không mời
được sư làm lễ cho chủ tôi ở ấp hay. Ông Đô đầu biên họ tên tôi và thả
cho tôi đi.

Đáng lẽ tôi phải về sớm hơn báo tin cho chủ nhân hay, nhưng tôi nghĩ nên tiện đường chạy ngựa qua hai ông bà thân sinh ra Thúy Hạnh báo tin dữ
cho biết.

May mắn tôi gặp được Thúy Hạnh đã về nhà. Tôi mừng như được tái sanh,
nàng sợ hãi xanh xám cả người, yêu cầu tôi đem nàng trốn đi xứ khác. Hai ông bà thân sinh ra nàng cũng hối tôi mang nàng đi lánh nạn. Tôi thuê
xe đem nàng về đây, xin chủ nhân và các vị lượng tình giúp đỡ chúng tôi
trốn tránh yên ổn?

Tiểu Bạch nói với chủ ấp cho nàng gặp Thúy Hạnh để nàng hỏi việc xảy ra
tại Điền gia trang. Xung Phát ra ngoài lát sau dẫn vô một thiếu nữ da
ngăm đen, vóc mập lớn, mắt to, môi dầy, ăn bận quần áo sang trọng đầy tớ một nhà giàu. Mặt thị hãy còn vẻ kinh hãi, hai mắt nhớn nhác nhìn trước nhìn sau như đang bị một kẻ vô hình dõi theo ám ảnh.

Tiểu Bạch dùng lời lẽ ngọt ngào cho ả an tâm. Ấp úng mãi, thị tỳ Thúy Hạnh mới nói ra lời :

- Tiện nữ làm việc tại trong trang được hơn một năm, hầu hạ bà vợ bé của Trang chủ.

Ông ta nóng tính và hung ác lạ thường! Kẻ nô bộc trái ý bị đánh đập,
nhưng không một ai dám bỏ trốn vì sợ bị công tử Điền Quách thủ tiêu.

... Điền trại chúa dựa vào thế lực có thân thích họ hàng với quan lệnh
tỉnh Trực Lệ nên ông ta không hề sợ một ai trong vùng. Con trai ông là
Điền Quách, ham chuộng võ nghệ, thích săn bắn và nuôi chim công. Lâu lâu hai cha con đi vắng xa một vài tuần. Lúc về, đem theo nhiều tiền bạc,
đồ vật không biết lấy ở đâu, nhưng thường khoe với bà bé là quan lớn đầu tỉnh biếu cho.

Cách đây mấy hôm, có ba ông lớn tự xưng là: Lão Nhất, Lão Nhị, Lão Tam
đến thăm trang trại, đem theo nhiều thú dữ. Trong số đó có một con “kim
tiền báo” cực lớn, một con gấu đen ngày ăn hết năm sáu rổ thịt cá và một con dã nhân lông màu hung hung. Trại chủ mở tiệc khoản đãi ba ông lớn
uống rượu như uống nước lã!

Điền chủ bắt chúng tôi đàn sáo, sênh phách cho chim công xòe lông cánh
đuôi nhảy múa. Bọn thị tỳ chúng toi phải thù tiếp ba ông khách lạ rất
chu đáo.

Buổi chiều hôm đó, con dã nhân tìm bắt chim công, lấy sức cánh tay bẻ
cong chấn song sắt chuồng công, phá lưới vào định bắt chim ăn thịt. Vì
vậy nên đàn chim của Trang chủ sút chuồng bay loạn xạ ra ngoài. Công tử
Điền Quách dẫn người làm, đi đuổi theo bầy chim. Lúc chập tối thấy công
tử miệng thở hồng hộc, mặt mũi đầm đìa máu đỏ lòm, bước vô phòng tiệc.

Tiểu Bạch hỏi :

- Lúc đó cô đứng ở đâu mà nhìn thấy được?

Thúy Hạnh hai má đỏ bừng, cúi đầu không đáp.

Tiểu Bạch tinh ý ghé tai bảo chủ nhân truyền tên Xung Phát tạm ra ngoài
để nàng dỗ dành Thúy Hạnh kể tiếp cho mọi người nghe sự ả mục kích :

- “Số là Điền trang chủ và ba tên họ Lão không phải là thiện nhân. Bọn
chúng là quân giết người không sợ máu tanh. Chúng còn là một bọn “cuồng
dâm” ghê tởm.

Trong một cuộc rượu, Lão Nhất hỏi Điền trại chủ rằng :

- Đại ca thấy khỉ độc làm sút chuồng công, đại ca có buồn không?

- Có gì mà phải phiền? Đối với các tôn huynh, lão phu không từ nan. Tuy
nhiên lão phu không hiểu các tôn huynh tài nghệ tuyệt vời, nuôi làm gì
giống vật đó, đi đâu mang theo chỉ thêm bận mình? Dù là các thú vật
luyện tập, dạy cho biết làm một vài trò biểu diễn tiêu khiển nhưng những công phu săn sóc trông coi chúng mất nhiều thì giờ.

Lão Nhất cười ngất rồi đáp rằng :

- Điền huynh hãy còn “ngây thơ” quá! Biết một mà chẳng biết hai. Mỗi lần bọn ta muốn thu tiền kẻ nào thì lấy mảnh vải áo quần kẻ đó cho con vật
đánh hơi, tức thời nó biết tìm đến kẻ đó cắn chết. Như vậy chính bọn ta
đỡ phải ra tay. Nhưng chúng ta có ba bộ da thủ mặc vào người thì Lão
Nhất này biến thành con dã nhân khổng lồ. Lão Nhị trông đúng là con gấu
ngựa có móng nhọn, còn Lão Tam kia thì giống y hệt con kim tiền bào có
vuốt sắc hơn lưỡi dao. Chúng ta và ba con thú dữ giết người thì không ai nhận biết là người giết hay thú giết hại? Nhưng cái sở thích của ta là
khi ta mặc bộ dã thú dẫn nhân mà hãm hiếp đàn bà thì ta nhất định không
chịu thua con dã nhân thiệt một chút nào. Điền huynh không tin thì bắt
con thị nữ vóc người to lớn kia, để ta và con dã nhân của ta cùng “thí
nghiệm” xem thì biết!

Tưởng tên ác ma khốn khiếp ấy nói chơi. Ai ngờ nói xong thì thi hành tức khắc! Nó gọi người đem đến ba cái thùng sơn đen, lấy ra ba bộ lông thú
và bận vô thân thể.

Ba tên ác ma khoác bộ da thú vào mình rồi, chúng nhái điệu bộ y hệt ba
con thú dữ, nhảy nhót, gầm hét trong phòng tiệc và sau rốt, tên cải dạng dã nhân xông đến đuổi bắt em!

Em sợ hãi quá, vùng la chạy trốn vào căn phòng của bà bé vì trong căn
phòng đó, bà bé có sẵn một cái tủ bí mất ăn thông vào vách giả để lẩn
trốn. Đứng trong vách giả, ghé mắt nhìn qua kẽ hở, không những có thể
trông thấy rõ các sự xảy ra bên ngoài mà còn nghe rõ cả tiếng nói của nó nữa.

Giữa lúc em lẩn trốn trong chỗ kín bí mật đó thì công tử Điền Quách bước vô phòng tiệc.

Hắn thuật lại cho cha hắn và ba tên ác đồ họ Lão biết rằng hắn bị một
người lạ mặt vạch trên trán hắn chữ “Mộc” rồi bảo muốn biết danh hiệu
người ấy là ai thì cứ hỏi ba vị Lão Sư, Lão Hổ và Báo và “món nợ” tại
Lục Diệp nhai thì rõ!

Từ trước đến nay, cây cung nặng ba thạch của tiểu sinh đã buông tên ra
trong vòng trăm bộ, không một người nào sống sót. Mỗi lần cây cung sát
hại một mạng người thì tiểu sinh khắc một nhát dao lên thân cung, vết
khắc chằng chịt không còn chỗ để lách dao! Thế mà tên lạ mặt chỉ khẽ giơ tay là nắm được cây tên và dùng mũi đồng bịt đầu cây tên ném lại làm
đứt dây cung. Không những nội công của y thâm hậu vô cùng mà hắn ra tay
cũng lanh lẹ, đầu nhọn mũi tên vạch lên trán tiểu sinh chữ “Mộc” chỉ
thấy đến nhói một cái như bị gạch ngang có nét chữ “Nhất”?

Nếu muốn hạ hắn, thân phụ phải cùng các vị “liên thủ” hợp công mới toàn
thắng được! Tam nhân họ Lão đứng lặng yên không nói gì, vẻ mặt ngẫm nghĩ lung lắm!

Điền trại chủ, thắc mắc vì câu chuyện món nợ Lục Diệp nhai, muốn hỏi cho biết :

- “Lục Diệp nhai” ở đâu nhỉ? Ba tôn huynh mắc “món nợ” gì tại nơi ấy!

Lúc đó Điền phu nhân và bà bé thấy nói công tử bị thương cũng chạy vô
thăm hỏi thương thế ra sao. Điền phu nhân đã cao niên nhưng bà ái thiếp
của chủ trại còn vẻ đẹp “chim sa cá lặn”. Tên Lão Nhất mặc bộ lông thú
dã nhân cứ nhìn chằm chằm vào mặt bà ta, hai mắt long lên sòng sọc giống như “khỉ rừng” chính cống!

Hắn cất tiếng nói khàn khàn, ồ ề vừa là giọng rượu vừa là giọng quỷ nhập tràng nói rằng :

- “Lục Diệp nhai” hả! Lục Diệp nhai là phố lá cây màu xanh lục, là phố
gần nhà xác, nơi quàn xác những kẻ chết vô thừa nhận ngoài thành An Châu tỉnh Trực Lệ!

Đây là nơi ba thằng này được nuôi nấng từ thuở nhỏ lớn lên đấy! Ông lão
trông coi nơi tha ma mộ địa ấy thu nhận những trẻ con mồ côi, không bố,
không mẹ, nuôi nấng cho lớn lên. Ông giao cho ba chúng ta công việc đào
huyệt chôn người. Có ba thằng dưỡng tử khỏe mạnh, hung tợn như “hổ beo
sư tử” này thì dưỡng phụ ta đỡ mệt nhọc lắm. Ông để thì giờ tạc tượng,
tô son, hoặc thiếp vàng những pho tượng đất, tượng gỗ.

Tiếc thay trời sinh ra dưỡng phụ của chúng ta không phải là để ông ta
trở nên một nhà “điêu khắc” thiên tài! Vì nghề chính của ông ta là nghề
thu nhặt và chôn xác chết vô thừa nhận! Ông làm sao có đôi bàn tay khéo
để nặn nên những pho tượng trông ra... hình người? Chúng ta cũng không
hiểu tại sao cha nuôi chúng ta lại có ý nghĩa như vậy! Hàng ngày sống
bên những thây ma sắp thối nát, lo đào huyệt bó chiếu đem chôn, ông lại
muốn dùng hai bàn tay chôn người để nặn hoặc đẽo gọt nên những pho tượng “thanh niên tú nữ” để bày chơi?

Không đạt được ý muốn vì hai bàn tay quá ư vụng về, chuyên môn cầm
thuổng cuốc đào huyệt và khiêng xác chết của ông ta, đột nhiên một ý
nghĩa cuồng bạo phát sinh từ cái đầu óc lệch lạc về nghề nghiệp.

Ông lựa chọn xác chết có thân hình cân đối, mặt mũi không xấu xí, lột
hết quần áo đem ngâm vào trong bồn đầy sáp ong và cánh kiến đã được đun
nóng chảy lỏng, rồi vớt ra phơi khô. Kế đó sơn quấy với mạt cưa rây
nhuyễn nhào với bột sừng hươu đem trát thêm một lần dầy đặc nữa. Sau đó
dùng đá mài cho trơn bóng và sơn son thiếp vàng bên ngoài thành những
pho tượng giống người vừa đúc, vừa đỡ tốn công, vừa y như người thực.

Những pho tượng sản xuất lúc ban đầu không được đặc sắc cho lắm, nhưng
cũng có người mua. Về sau, càng làm, càng chế tạo được những pho tượng
linh động, khéo léo trình bày đủ mọi vẻ, nào người tiều phu gánh củi,
anh chàng câu cá, ông lão đi cầy, thằng nhỏ chăn dê, người thợ mộc ngồi
đục, người đàn bà dệt vải, bà lão đi chợ... nhưng sau rốt, chẳng có
những pho tượng nào hấp dẫn, dễ bán được nhiều tiền mà người giàu có
tranh nhau mua bằng pho tượng các nàng “tố nữ” uốn éo thân hình...

Nhờ vậy bốn bố con ở Lục Diệp nhai dư dật tiền tiêu, ăn uống đầy đủ không bị cảnh bữa đói bữa no như trước nữa.

Những bí quyết sản xuất các pho tượng thì tuyệt đối bí mật vì bốn bố con đều biết, nếu thiên hạ hay rõ thì tất cả toàn gia sẽ bị tùng xẻo, lăng
trì hoặc “ngũ mã phanh thây” đến... tan xác! Cũng nhờ vậy mà nhiều xác
chết của kẻ vô thừa nhận đáng lẽ đem chôn hủy dưới nấm mồ nông thì trái
lại, vô hình chung đã được bọn nhà quyền quý, những trọc phú mua về đặt
vào những chỗ sang trọng nhất trong nhà cao cửa rộng, được trông nom săn sóc như... bảo vật đặt tiền.

Nhưng rủi thay, kẻ nào mà chẳng ham lời? Tiền của làm đen tối lòng
người. Dưỡng phụ của ba chúng ta muốn có nhiều tượng gái đẹp để bán cho
khách hàng phải nghĩ cách làm sao cho có “nguyên liệu” để làm “cốt
tượng”.

Nói vậy nghĩa là phải đi đào những “mả mới” những cô gái có nhan sắc
trong thị trấn, ăn trộm xác còn tươi chưa bị sình thối mặt mũi méo mó
rữa nát thì mới kiếm chác được! Nghề đúc tượng theo sáng kiến mới phát
minh của ông ta thật chẳng “thơm tho” chút nào!

Bốn bố con như bốn “thần trùng” ăn cắp thây ma, ban ngày chia nhau đi dò la đánh hơi các nhà có đám táng. Nếu gặp món hời, đêm đến thì lủi nhủi
như bốn tên “âm binh” vác xẻng cuốc đi đào trộm mả người ta.

Tài năng và kinh nghiệm nghề nghiệp đã giúp chúng tôi “cho ra lò” một
pho tượng rất đẹp, dung nhan và dáng điệu y hệt con gái của một vị tai
to mặt lớn trong thành An Châu. Cô ta mới mười tám xuân xanh, nổi danh
tài sắc, khắp thành An Châu đều biết tiếng, đúng là một hoa khôi chẳng
may bị bạo bệnh tuyệt mạng.

Thi hài đã được tẩm nhiều khinh nhân trộn với ngũ vị hương và lá cây
tiết nhiều chất lục diệp tố nên thi thể không bị rữa nát. Nhờ vậy, dưỡng phụ chúng tôi đã “tái tạo” một pho tượng phải được liệt vào hạng kỳ
quan của vũ trụ. Từ mái tóc, gò má, cái trán, sống mũi đến đôi môi có nụ cười hồn nhiên... tất cả đều đẹp đến nỗi chúng tôi cũng phải mê thích
không nghĩ đến sự thối tha ghê tởm sau lần nước sơn trám trên sáp ong,
cánh kiến ở lần vỏ bao ngoài thây ma.

Đó là một tác phẩm đáng kiêu hãnh nhất và cũng mang lại cho dưỡng phụ chúng tôi nhiều tiền bạc nhất.

Pho tượng đó được vị phú thương giàu nhất tỉnh đem phô trương, trưng bày trong một đám tiệc linh đình gần như đầy đủ các mặt thân hào nhân sĩ
sang trọng trong thành.

Lúc đó mọi người đã ngồi vào bàn tiệc. Trên bàn bầy la liệt cao lương mỹ vị. Quan khách phục sức lộng lẫy, kẻ hầu người hạ, rót rượu từng bừng,
nhạc công cử nhạc ầm ĩ.

Quan khách, người nào ngắm nhìn pho tượng cũng khen nức nở, cho là một “tác phẩm” vô song.

Không ngờ, trong tiệc rượu hôm đó lại có một anh chàng nho sĩ được đãi
làm mạc khách ra vô tư dinh vị quan thân phụ cô gái bạc mệnh nọ! Vốn sẵn dòng máu “nghệ sĩ tình” trong người, chàng ta bấy lâu ngấp nghé cô gái, tôn làm thần tượng của lòng mình.

Mối tương tư chưa được bày ngỏ cùng “mỹ nhân” thì than ôi! Người đẹp xa chơi cửu tuyền!

Nỗi lòng thương nhớ chẳng bao giờ nguôi, anh chàng trong tiệc rượu mượn
hơi men để giải nỗi sầu “muôn ngàn năm”! Bất giác đôi mắt nho sĩ trong
cơn say thần trí chơ vơi lặng nhìn pho tượng chừng như nàng đã tự Thiên
Thai hiện về!

Nàng xưa là gái cấm cung, chàng làm sao tạo nên dịp cùng nàng “tế ngộ” hòng cởi mở điệp khúc giao duyên?

Người đẹp chẳng còn! Nên anh ta càng ngắm pho tượng, càng tưởng nhớ tới
bóng hình kiềm diễm. Thế là, chân nam đã chân chiêu, nho sĩ ta lảo đảo
tay cầm chung rượu, mon men lại gần pho tượng, dán mắt lại nhìn cho kỹ,
miệng ngâm câu: “Vọng mỹ nhân hề... thiên nhất phương”!

Ai ngờ, ở xa thì còn khả trợ, lại gần sát cận thì chao ôi! Dung nhan đẹp quá, đúng là người đẹp trong mơ của chàng rồi không sai, nghĩ tới sự
người yêu chẳng may hóa ra người thiên cổ, chàng đưa chung rượu lên môi
uống cạn, hai hàng nước mắt đầm đìa, nức lên khóc rồi “té lăn cù” bất
tỉnh.

Cử động của anh chàng si tình này không có chi đáng trách. Nhưng tiếc
thay, lúc hắn ta ngã xỉu, người hắn đụng nhằm pho “thần tượng” của hắn.

Thế là chẳng kịp ai nâng đỡ, pho tượng “mỹ nhân xách lẵng hoa” lắc lư đổ xuống đất đến “ầm” một tiếng.

Một mùi “hôi thúi” kinh khủng, không ai chịu đựng nổi, tỏa ra khắp phòng khiến cả trăm quan khách bưng mũi, nôn ọe rầm rầm. Một cảnh tượng hãi
hùng bày ra. Nhiều vị phu nhân, tiểu thư kêu rú lên những tiếng kinh hãi vì pho tượng rớt vỡ tan làm nhiều mảnh, đã làm tung tóe thịt, xương,
“bộ đồ lòng” thối nát của một thây ma dính vào quần áo, bát chén đựng
thức ăn của mọi người!

Một cảnh náo loạn chưa từng có đã xảy ra! Tiếng người la hét, tiếng bàn
ghế bát đĩa bị xô đổ vỡ loảng xoảng. Nhạc công quẳng cả kèn trống nhị
sáo, bưng mũi chạy dài?

Gian phòng trang hoàng rực rỡ, lộng lẫy bao nhiêu trong phút chốc tràn
đầy những sự đổ nát dơ dáy bấy nhiêu! Trước đây thơm tho bao nhiêu thì
bây giờ “thúi hoắc”, thúi hơn chuột chết bấy nhiêu!

Xú uế xông lên nhức óc! Chỗ nào cũng nôn ọe, khạc nhổ, cơm canh vung vãi khắp nơi.

- Thây ma! Ối trời, trong bụng pho tượng có thây ma sình thúi! Thực là kinh tởm vô cùng!

Nhiều người quá sợ hãi ngất xỉu luôn.

Viên trấn thủ An Châu thân hành đến tra xét. Câu chuyện lan nhanh đi
khắp tỉnh. Những nhà nào trước đây bỏ tiền ra mua tượng đẹp về trưng
bày, bây giờ sai gia nhân ôm quẳng bỏ ra ngoài hè đường. Kẻ hiếu kỳ bu
quanh, đập ra xem trong có “thây ma” không? Nếu có thì cả một khu phố
lại náo động...

Một đám người đông như kiến cỏ trưng đèn thắp đuốc, tay cầm võ khí, hò
reo ồ ạt tiến về “Lục Diệp nhai”. Khí thế tức giận có thể “san thành phá nước”. Họ vây kín khu nhà quàn xác chết, tìm bắt bốn cha con thợ “điêu
khắc” quái gở, bất chính trú ngụ trong đó.

Họ bắt được quả tang chúng tôi đương hăng hái sắp sửa cho ra lò dăm bảy “tác phẩm” nữa!

Sẵn bồn sáp ong, cánh kiến đương đun sôi sùng sục, không để cho giây
phút phân trần phải trái, họ xông vào túm bắt dưỡng phụ chúng tôi, tiện
tay ném luôn vào vạc lửa.

Thân hình khẳng khiu của ông ta rơi tõm vào sáp ong, cánh kiến sủi bọt
chảy lỏng tức thời da thịt thân hình chân tay trong chốc lát rời tan
hết, chỉ còn trơ xương sườn, khúc xương chân, tay nổi lên chìm xuống
lềnh bềnh theo âm điệu sáp sôi trong bồn...

Ba anh em chúng tôi lúc đó run như cầy sấy, mặt tái xanh không còn hạt máu, nhắm mắt chờ đến lượt mình bị quăng vô bồn nấu sáp.

Nhưng một tiếng thét như sét nổ lưng trời làm chúng tôi mở choàng mắt ra.

- Không được ném ba thằng nhóc đó vào bồn sáp.

Rẽ đám đông, một chàng thanh niên bận võ phục màu trắng, uy dũng tiến lại ngăn chặn mọi người và che chở cho chúng tôi.

Đám đông nhao nhao phản đối :

- Tên kia là ai? Tại sao dám bước vô can thiệp giúp đỡ mấy cha con tên
ác quỷ nấu xác người làm tượng này? Mi cũng là đồng bọn phải không?

Thanh niên quát to :

- Chúng bay không nhận biết ta là ai thì ta tự giới thiệu cho tất cả lũ
bay biết. Ta là Lãnh Diện Băng Tâm, người đao phủ tỉnh An Huy. Hôm nay
ngẫu nhiên ta đi qua thành An Châu. Được biết và mục kích câu chuyện hay hay này.

- À tưởng mi là hạng người nào. Mi chỉ là tên chặt đầu tội nhân quèn ở
tỉnh An Huy. Hèn chi cùng loại cá mè bênh nhau. Thằng chặt đầu thuê đi
bênh cha con thằng chôn xác mướn, có gì là lạ!

Lãnh Diện Băng Tâm thấy người cầm đầu đám đông lăng nhục mình, đáng
khiến hắn ta phải nổi cơn tức giận lắm, nhưng trái lại, mặt hắn vẫn lạnh lùng, thản nhiên đáp :

- Ta làm đao phủ, chặt đầu người lấy tiền sinh sống không có chi là xấu? Ta chặt đầu người sống thành thây ma “cụt đầu” chết giao cho mấy tên
này đem chôn. Mấy cha con chúng chôn thi hài lấy tiền cũng không có gì
là xấu. Ta thấy chúng bay nổi đóa giết oan một mạng người “vô tội” lấy
làm bất bình nên phải can thiệp.

Vị võ quan trấn thủ cười lớn :

- Này Lãnh Diện Băng Tâm, nghe ta nói! Mi là một thằng khùng mới dám há
miệng bảo chúng ta giết oan một người vô tội. Tội phạm ghê tởm của nó
rành rành như thế kia, mà mi dám bảo tên chôn xác là kẻ vô tội. Nó đào
mả ăn cắp xác, làm tượng bán lấy tiền, dối gạt mọi người, thánh thần nào mà dung tha nó được?

Chàng thanh niên cãi lại :

- Thây ma là những người đã chết rồi! Đã chết rồi dù có đem chôn dưới
đất thì nó cũng thúi rữa hết. Mà có đem sáp ong làm tượng thì nó cũng
không hại gì đến ai? Lúc pho tượng chưa bị đổ vỡ, ta thấy các người
tranh nhau mua lại đem về trưng bày, xúm xít lại nức nở khen là khéo,
khen là đẹp. Chừng đến khi chúng bay làm đổ vỡ thịt xương nước vàng thúi hoắc chảy ra nhầy nhụa, ghê tởm thì các ngươi nổi đóa lên bắt tội trả
thù, giết chết người ta! Thực là hành động mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất! Giết chết người ta, chúng bay có làm người ta “sống” đặng lại hay
không? “Khen” ngay đấy rồi lại chên ngay đấy. Khen tặng “bốc thơm” lên
rồi lại “bốc thúi” chê bai dìm nhau xuống? Như vậy còn muốn làm chết
thêm ba sinh mạng nữa được không? Ta thấy chúng bay không bắn tên “chôn
xác” và “nấu xác” người làm tượng. Ít nhất nó cũng biến dạng thành một
sự thúi tha thành một vật để ngắm nghĩa thích thú. Hành động đó ghê tởm
đến đâu cũng còn dễ tha thứ hơn là sự nổi giận vô lý của các ngươi đương muốn giết người sống... ba đứa nhỏ này chỉ biết vâng lệnh cha nó làm
việc lấy tiền sinh sống. Các người muốn giết nó đang “sống” thành...
thây ma” ư? Chúng ta hãy đứng lặng yên ngẫm nghĩ. Chúng bay sẽ thấy bốn
bố con nhà nó “vô lý” hay cả đoàn, cả đám đông chúng bay ỷ quyền, ỷ thế, làm một việc vô lý? Ta là kẻ “chuyên môn” chém rụng cả trăm, cả ngàn
đầu người. Ta đâu có phận sự làm kẻ sống phải chết thành thây ma. Ta
nhận biết cái nỗi “khổ tâm” của bốn bố con nhà nó. Vì vậy ta bênh vực
chúng nó.

Viên quan trấn thủ cười nhạt hỏi :

- Những tên đó có hành động ma quái như vầy làm gì có “tâm” mà mi lại nói là thấu hiểu nỗi khổ tâm của chúng nó?

- Lũ hèn mạt chúng bay thực ngu dốt quá chừng? Chúng bay chỉ coi cái hào nhoáng bề ngoài mà quên phắt cái phần ruột bên trong. Vì vậy, nên không bao giờ chúng bay chú ý tìm hiểu đến nỗi “khổ tâm” của ai cả?

Chúng bay bị quyến rũ bởi cái vỏ sơn son thiếp vàng, thiếp bạc, lớp sáp, lớp lụa là phủ kín vỏ ngoài pho tượng mà không biết đến sự thối nát bên trong của các pho tượng. Giả sử tên chôn xác ngoài kia mà khéo tay khéo chân, biết nặn biết đẽo đá đục gỗ tạo nên những pho tượng đẹp như vậy
thì các người đã tôn nó lên là “kỳ đồng, thiên tài” trong xã hội rồi!
Mày còn sống đây, có tước, có nhà cao cửa rộng, bạc lắm tiền nhiều thì
vợ con, bạn bè, đầy tớ còn chiều nịnh mày. Nếu mày bất hạnh chết đi, nằm đường, thúi tha chềnh ềnh ra, có ai lại gần mày mà không bịt mũi không? Lúc đó, vợ con mày cũng chẳng còn dám rờ mó vào mặt mũi chân tay mày
nữa. Bốn cha con nhà kia, chúng nó có họ hàng thân thuộc gì với khối
thịt kinh tởm kia mà vẫn phải “tô son thoa phấn” để có chút... tiền. Đấy nỗi “khổ tâm” của chúng là thế đấy! Cân nhắc cho kỹ, các người không
hơn gì gia đình tên “chôn xác” người đâu.

Viên quan nọ nhất định giết cho được ba chúng tôi nên hô lớn :

- Thôi, hãy gác lý sự cùn của bay lại! Quân đâu, bắt trói chúng cho ta và quăng cả vô bồn sáp.

Quân lính và những người trai khỏe mạnh khoa đao múa gậy, hò reo xông
lên. Lãnh Diện Băng Tâm trỏ vào mặt tên quan trấn thủ nói lớn :

- Cẩu quan! Ta nói hết lời mà mi vẫn cố chấp. Không lẽ ta đương cứu mạng mà lại ra tay sát mạng. Vậy ta hãy tạm chặt cụt một cánh tay và khoét
thủng một con mắt để ngươi xem vợ con, bạn hữu mi còn cưng chiều mi như
khi còn toàn vẹn không?

Hắn xông vào đám đông, vung tay giựt lấy ngọn đao sắc, bẻ gãy vụn và ném về phía viên quan võ hai miếng. Miếng lưỡi đao lớn phạt cụt cánh tay
hữu, còn miếng nhỏ khoét thủng một tròng mắt làm nạn nhân kêu rú lên
thảm thiết.

Đám đông thấy người đầu sỏ đã bị Lãnh Diện Băng Tâm cảnh cáo, khiếp đảm không dám xông vào nữa.

Chành thanh niên “mặt lạnh” nói tiếp :

- Bây giờ ta điểm mặt những tên trọc phú đã mua tượng mà còn tụ tập đến
đây giết người bán tượng! Ta cắt mũi, cắt tai bọn mi xem ai còn khen
nịnh các ngươi nữa không?

Những tên chủ chốt này, thấy nói xẻo tai mắt mũi thì lo sợ cho bản thân, ôm đầu chạy có cờ, thế là đám đông phút chốc đã tan ra. Khu vực Lục
Diệp nhai lại trở nên vắng lặng không một bóng người.

Lãnh Diện Băng Tâm sau khi cứu ba chúng tôi mới quay lại bảo rằng :

- Ba “nhóc con”, mau lẩn cút đi nơi khác. Nếu lọt vào tay người thành An Châu thì chúng mày sẽ theo thằng bố họ Lão của chúng mày vào vạc sôi
chết rục thịt rục xương như cháo cám.

Trước khi lùi chạy, ba chúng tôi đều quỳ lạy tạ ơn cứu mạng và hứa xin đền đáp công ơn cứu tử.

Lãnh Diện Băng Tâm mắng và dặn rằng :

- Ơn huệ cái khỉ khô gì? Sau này nếu các mi còn trí nhớ tốt, nhớ tới
buổi tối nay, thì hễ gặp người nào, bất luận là nam phụ lão ấu, có chữ
“Mộc” ta ghi trên trán thì cứ việc... “trảm thủ”.

Lão Nhất kể đến đây thì tên Điền Quách mồ hôi nhỏ giọt định bỏ chạy ra ngoại, nhưng Lão Báo đã nhảy xẹt ra phía cửa chặn lại.

Điền trại chúa nài nỉ :

- Tiểu đệ chưa hề xúc phạm đến ba tôn huynh. Xin nghĩ đến nhiệt tình
trọng đãi mà giúp cho gia đình và thằng con tiểu đệ. Ba vị có nhờ tiểu
đệ cho người dò xét tin tức Thần Đao đại hiệp Xích Tu Lân và con gái
hắn. Vậy ba vị có gặp Lãnh Diện Hiệp Khách thì lựa lời năn nỉ giúp cho
chúng tôi. Tiểu đệ tình nguyện đem hết gia sản trong trang trại kính
dâng ba vị tôn huynh và Lãnh Diện Hiệp Khách để đổi lấy tội chết cho
thằng con Điền Quách của tiểu đệ.

Nhưng Lão Nhất lắc đầu trả lời rằng :

- Giả sử Điền huynh đừng hỏi chuyện vụ nợ “Lục Diệp nhai” thì có lẽ chỉ
cần giết Điền Quách bêu đầu là xong chuyện. Nhưng tiếc thay, Điền huynh
lại đòi nghe câu chuyện... mà nghe câu chuyện đó thì bọn tiểu đệ dù quý
Điền huynh đến đâu cũng phải...

- Phải sao?

- Phải cho Điền huynh và toàn thể người trong trang trại về chầu tiên tổ.

Dứt lời, hai bàn tay hộ pháp của Lão Hồ đã xiết họng Điền trại chủ kêu
ằng ặc! Còn Lão Báo dùng vuốt nhọn cắt họng Điền Quách “xí lắt léo”
trong nháy mắt!

Lão Nhất khoác tấm lông giả dạng “dã nhân” còn tệ hại hơn. Chính hắn hãm hiếp Điền phu nhân và bà bé trong căn phòng rồi cắt đầu bốn người đem
cắm trên cọc ngoài cổng trại.

Kế đó, chúng tập trung gia nhân trong trang, áp bức khuân vác của cải, đồ đạc lên xe và theo chúng về phía rừng núi.

Bọn chúng cũng lùng tìm bắt em, nhưng không ngờ em ẩn núp kín đáo giữa
hai vách tường nên tuy mở hai cánh cửa tủ, lấy hết y phục ở trong mà
không biết có cửa bí mật.

Chờ tới sáng, thấy bốn bề im lặng, đoàn xe ngựa gia nhân đã bị chúng áp
giải đi xa, em mới lân ra khỏi phòng, không dám kêu la, dò lối sau lẩn
ra ngoài chạy về nhà ở dưới xứ...”

Nghe Thúy Hạnh kể chuyện, Tiểu Bạch hiểu rõ đầu đuôi. Nàng thở dài như
trút một gánh nặng đè nặng trên ngực. Nàng quay lại nói với Cao Kỳ Nhất
Phương rằng :

- Như vậy là, không kể hai vợ chồng Song quái trong số Ngũ sát còn lại
ta đã biết Tứ Sát phải đương đầu là ai rồi? Còn tên thứ năm nữa thôi!
Như vậy, lực lượng đôi bên cũng không chênh lệch cho lắm. Đáng sợ nhất
vẫn là tên mặt lạnh như tiền. Mặt nó trẻ măng nhưng tuổi già và kinh
nghiệm của nó “cáo” lắm rồi!

Nàng lấy tiền bạc ra cho hai vợ chồng Xung Phát và Thúy Hạnh làm vốn
liếng và khuyên hai người có thể ẩn nấp trong thôn ấp này, không có điều gì e ngại vì bọn Tứ Sát cũng không lẩn quẩn ở vùng này bao lâu nữa.

Hai người đi ra ngoài phòng, chủ ý gọi Nhất Tiếu và Ái Huê cùng mọi người chuẩn bị lên đường gấp rút.

Lúc đó Nhất Tiếu và bọn thanh niên ngoài sân đã họp thành một phe đương bênh vực cho lý thuyết “ăn mặn”.

Còn trái lại, các bà các cô thì mồm năm miệng mười khen ngợi nhà sự Ái
Huê và bênh vực cho giáo lý “ăn chay” thanh đạm và tinh khiết của nhà
Phật.

Hai phe đối lập cãi nhau ỏm tỏi, rất là vui vẻ.

- Con trâu, con bò chỉ ăn rơm ăn cỏ sao mà nó chóng lớn khỏe mạnh, kéo
cày kéo xe suốt ngày không thấy mệt mỏi. Như vậy ăn chay mới khỏe được.
Vạn tuế trường chay!

Phe kia cãi lại :

- Con trâu, con bò khỏe thực. Vậy ăn “tái trâu, tái bò” chấm tương gừng, uống với rượu chỉ cất bằng “lúa gạo” ngũ cốc thì lại khỏe thêm lên vè
gốc ở mặn là do chay làm ra.

- Không đúng! Ngụy biện! Ngụy biện! Một thanh niên hỏi Nhất Tiếu :

- Theo ý riêng của sư phụ? Thuyết ăn chay, ăn mặn, thuyết nào đùng? Tôn ý định ngả mặn hay ngả chay?

Nhất Tiếu hòa thượng xoa cái bụng no phềnh, ôn tồn đáp :

- Trời đất âm dương hai đạo, nam nữ một loài hai “giới”. Ta biết vậy nên chủ trương, mặn chay đều tùy cái xác thịt của ta đòi hỏi. Tỷ dụ như bây giờ, ta đã nhậu xong chục cân “tài bò” và hai chục xị đế chỉ trông kia
kìa, trái chuối chín lấm tấm đen kia là một món chay tráng... rất hợp
cho việc “tráng miệng”. Đưa ta nải chuối tiêu kia nào!

Đám thanh niên vỗ tay khen phải.

- Sư phụ này khôn lanh ghê! Ông “dung hòa” cả hai phe.

Ái Huê nãy giờ nhìn Nhất Tiếu ăn thịt bò ngon, ngọt bổ, uống rượu thì
thèm rỏ rãi. Nhưng vẫn phải giả đạo đức ngồi nhấm nháp oản chuối. Bây
giờ thấy Nhất Tiếu tán thành chuối tiêu thì vội nói :

- Sư huynh tôi đã bỏ mặn ăn chay rồi! Vậy tôi “thử” ngả mặn một chút... xem sao?

Đám thanh niên thấy Ái Huê nói vậy, cho là phe mình đắc thắng vội mang rượu thịt lại cho hòa thượng phá giới.

Thế là cả phe nam lẫn phe nữ đều mở cuộc “tổng dung hợp” ăn uống, mời
mọc nhau linh đình, vui vẻ khôn tả. Tiệc tan, Tiểu Bạch từ giã chủ ấp
lên xe. Lúc này, nhóm trai tráng đã khoác lên thân thể đẫy đà của Nhất
Tiếu một tấm cà sa vải vàng, mời chàng ngồi lên cỗ kiệu, vắt ngang trước hai cáng kiệu một đùi bò thui lớn để kính tặng. Bốn thanh niên khiêng
kiệu, đám đông theo tiễn ra ngoài đường.

Nhóm phụ nữ cũng đã may xong tấm cà sa “trăm mục vá” sặc sỡ mặc vô cho nhà sư Ái Huê, để chàng cưỡi một con la.

Gia chủ dâng cúng nhiều thực phẩm khác nhau nữa. Dân ấp theo tiễn một quãng rất xa rồi mới từ biệt.

Nhất Tiếu xuống kiệu lên ngựa, tay giơ cao chiếc đùi bò rất oai phong làm đám thanh niên thích chí vỗ tay nhảy nhót.

- Sư phụ khỏe thiệt. Nếu không mắc việc phải đi ngay, một mình ông dám ăn hết nửa con bò tái.

Đoàn xe ngựa chay ngày càng nhanh, Tiểu Bạch quyết định bằng mọi cách
phải vào thành Trực Lệ tối nay và sáng hôm sau tới nơi trú ngụ của cha
con Xích bá phụ.

Ý người muốn đi nhanh. Nhưng hành trình cứ bị cản trở hoài. Không xảy ra việc này thì xảy ra việc khác.

Đoàn xe ngựa đi tới Trường Giang, phải ngừng lại ở bến đò để thuê thuyền qua sông, Thất Tình Tú Sĩ vào hàng quán dọ hỏi.

- Bến đò dọc theo quan lộ, người đi lại sầm uất thế này mà sao hôm nay ít thuyền qua sông thế hả ông quán?

Chủ quán trả lời :

- Thầy ở xa mới tới không biết chuyện đâm chém nhau tại bến đò này bữa
qua. Có một đám đông hòa thượng khất thực đương chờ đò thì có một người
đàn ông bận võ phục màu trắng đến, không hỏi han nửa câu, tuốt kiếm chém nhầu. Đám nhà sư cũng có võ giỏi, rút giới đao ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau làm dân chúng ở bến đò sợ “tán thần thất đảm”. Quan quân kéo
tới ngăn cản cũng không đặng. Suốt dọc bến đò, chỗ nào cũng có xác người bị chém cụt tay, cụt đầu, máu me chảy thành vũng lớn. Kết cục cả đám
đông hòa thượng khất thực bị ám hại không còn một người nào sống sót.
Bên quan lính tự nhiên vô cớ vào can ngăn cũng bị loạn đao giết chết vài chục mạng.

- Còn người đàn ông bận võ phục màu trắng có việc gì không?

- Trời! Hắn ta giỏi quá chừng! Mỗi nhát kiếm của y là một một mạng người mất đầu. Quần áo trắng lốp không dính một giọt máu và sau khi dứt tiếng hò reo, xác người nằm ngổn ngang, hắn đã biến đi đâu từ hồi nào chẳng
ai hay biết? Không biết là người hay là ma?

- Như vậy có liên can gì đến các người chèo đò?

- Bên kia sông xảy ra biến cố như vậy. Bên này sông, suốt giải Trực lệ,
xem xét tình hình lại càng náo loạn hơn nhiều. Các dinh chùa thảy đều
báo động. Nhiều nơi chạy trốn, thúc đò chạy sang bên này. Quan quân đã
được sai phái bảo vệ cho những người tu hành. Nhà thầy chờ chút nữa
thuyền bên kia sông sang sẽ có đò quá giang. Nhưng nay, tôi trông thấy
bọn nhà thầy cũng có hai vị hòa thượng. Nên vào ngồi trong xe buông rèm
kín đáo thì hơn. Nếu chẳng may gặp người đàn ông bận đồ trắng bữa qua
thì... khốn đốn!

Chủ quán nói chưa dứt lời thì có một toán quân binh kỵ mã kéo tới. Viên quan chỉ huy hất hàm hỏi :

- Hai ông sư kia định vô thành Trực Lệ phải không? Nguy hiểm lắm đấy!
Lệnh trên truyền xuống chúng tôi bảo vệ các người vì có một tên điên
khùng đương đi sục tìm các ông đầu trọc để... mượn tạm cái đầu trọc bình vôi của quý vị

Có tiếng cười nói :

- Cởi cà sa ra, lấy khăn trùm đầu có phải là yên ổn không? Chừng nào khi nhà nước bắt đặng tên sát nhất thì lại ăn bận nhà sư, không có sao.

- Thời buổi này thực là kỳ lạ? Ngày đêm đi đây cũng có người giúp đỡ.
Bất yên ổn là những người đi xa mang nhiều tiền bạc. Thời bây giờ, “bất
yên ổn” là người tu hành! Trời tự nhiên sinh ra những việc trái ngược dị thường!

Nhất Tiếu và Ái Huê nghe quan quân nói là “bảo vệ” cho mình thì càng tức tối lắm. Mình đương lo đi bảo vệ kẻ khác thì lại bị người ở đâu đến
canh chừng, bảo vệ cho mình?

Chàng lẩm bẩm nói một mình :

- Biết đặng như vậy thì đêm đó, sau bữa ăn, ta cùng nó tỷ thí một trận,
chém quách cho rồi đời một tên giết mướn đầu óc lãng trí. Mà có lẽ cũng
là lỗi tại mình khoe khoang vỗ công của đức Thế Tôn nên tên đó mới hành
động như vậy để bọn mình phải xuất đầu lộ diện tìm gặp đấu võ với nó.

Dù sao phen này bọn Hắc Y với phái Thiếu Lâm sẽ có sự rạn nứt lớn.

Tiểu Bạch dùng lời lẽ khuyên Nhất Tiếu và Ái Huê tạm nhẫn nại vào ngồi
trong xe để bọn quan quân bỏ đi nơi khác. Chờ mất một thời gian khá lâu
mới thuê được thuyền lớn chở cả xe lẫn ngựa qua sông.

Lúc vô thành Trực Lệ cũng gặp khó khăn. Sự ra vô trong thành bị khám xét nghiêm ngặt. Chỗ nào quan quân cũng tích cực bảo vệ và giúp đỡ người tu hành. Tuy bọn người Tiểu Bạch nhất mực từ chối nhưng quan binh vẫn phái người mang vũ khí đi xa canh phòng cho hai vị hòa thượng ngồi núp trong xe. Theo lời mọi người kể lại thì hành tung của tên mang kiếm gỗ rất kỳ lạ! Hắn ẩn xuất như người vô hình. Lúc nghe tiếng kêu la chạy tới thì
thấy vị tu hành đã bị đầu một nơi, mình một nẻo rồi. Cái lối hành động
ám toán vô cùng lợi hại, vì không biết phòng ngự cách nào được?

Tiểu Bạch bảo trong dong xe tới cửa thành Tây, tìm đến “Quang Phát Lợi
thương xá” vì đây là một chi nhánh tiêu cục đã nhiều lần được Xích Tu
Lân bảo trợ.

Các chi nhánh tiêu cục này được coi như là những trạm thông tin làm tăng uy danh của vị Minh chủ Võ lâm miền Bắc sông Hoàng Hà, nếu cần việc gì
muốn liên lạc với ông ta thì tìm gặp viên quản lý, nói cho biết nguyên
do, tiêu cục sẽ phái nhân viên đi thông tin và đem về những điều cần
biết.

Tiểu Bạch trước khi tới nơi hai cha con Thần Đao đại hiệp trú ngụ, định
tạt qua đây thăm dò tin tức xem có sự gì thay đổi chăng? Tiểu Bạch tìm
chỗ đậu xe ở xa thương xá, lấy bút giấy viết một phong thư để Thất Tình
Tú Sĩ cầm vào đưa cho viên quản lý.

Thất Tình Tú Sĩ đem thư vô Thương cục.

Quảng Phát Lợi lúc nào cũng đông người tấp nập ra vào người đến gửi đồ,
người đến lãnh đồ nên việc hỏi thăm tim gặp viên quản lý không dễ dàng.

Trong thương xá có khu vực lữ điếm, phạn điếm, nơi ăn uống ngủ trọ của khách thương tỉnh nhỏ kéo lên.

Thất Tình Tú Sĩ liền móc túi lấy ra một nén bạc, gọi một người làm trong thương xá nhanh nhẹn tháo vát nhất bảo rằng :

- Tôi có việc gấp phải đưa tận tay thư này cho viên quản lý tiêu cục,
anh làm ơn giúp tôi cách nào cho chóng vánh, xin tặng anh tí “tiền còm”
này.

Tên làm công thấy bạc liền cầm bỏ vô túi và dẫn Thất Tình Tú Sĩ đi thẳng tới chỗ viên quản lý đương ngồi tiếp khách. Thất Tình Tú Sĩ là người
đến sau nên không thể vô trước được vì còn nhiều người ngồi chờ gặp y,
chàng đành nén tâm tình tìm chỗ ngồi chờ đến lượt mình.

Chàng đưa mắt đảo quanh một lượt thấy phần đông đều là những thương chủ
đến vì việc làm ăn buôn bán, lạ nhất là có một thiếu phụ mặt hoa da phấn ngồi tận góc phòng, điểm trang lòe loẹt, đôi mắt long lanh sắc hơn dao
bén, trông không ra vẻ người thuộc giới kinh doanh tiền bạc.

Hình như cô ả ưa thích màu đỏ lắm thì phải, vì đôi môi đỏ chót, đã bận
quần hồng lại đi hài thêu vóc đỏ. Thiếu phụ trông thấy chàng trai Thất
Tình Tú Sĩ thì nhoẻn miệng cười để lộ hai hàm răng đều đặn trắng muốt.

Đôi mắt liếc nhìn càng tình tứ hơn. Nếu không ngại vì phòng đông hết
ghế, thiếu phụ đã tìm cách sang ngồi cạnh chàng trai để lân la bắt
chuyện.

Nhìn quang cảnh này, nếu nhẫn nại ngồi chờ thì sẽ mất nhiều thì giờ.
Thất Tình Tú Sĩ từ từ đứng dậy lại gần cửa ra vô và nhằm lúc tên đứng
gác xoay người đọc phiếu báo danh thì chàng lách mình lọt vào trong, rất lanh lẹ như con cắt.

Chàng vượt ra qua hành lang nhỏ thấy tiếng một ông cụ già đường quát tháo ầm ĩ :

- Thần Đao đại hiệp cái chó gì mà để quân sát nhân giết người khắp dải
Trực Lệ? Năm lần bảy lượt thỉnh cầu can thiệp chỉ thấy một mực thoái
thác. Thôi, về bảo chủ anh vứt mẹ cái danh Minh chủ với Đại hiệp đi
không có thiên hạ người ta cười cho thối óc!

Viên quản lý cứ chắp tay van xin :

- Khổ quá! Biết rồi, cụ nói mãi! Cụ nói thế thiên hạ nghe thấy sẽ làm giảm giá Xích tôn ông, cụ cũng chẳng được lợi lộc gì?

- Ta chẳng cần lợi lộc gì hết! Ta gần kề miệng lỗ, thấy sao sao nói vậy
cho sướng cái lỗ mồm thôi! Anh không chỉ cho ta biết ông ta và cô Vị Hải ở đâu để ta tìm đến trình bày tỏ tường việc tên sát nhân vào chùa giết
sư vô tội thì ta sẽ ra ngoài đường nói váng lên để cái cửa tiệm Quang
Phát Lợi này đóng cửa luôn.

Lúc đó, tên gác cửa cũng chạy theo nắm lấy cánh tay Thất Tình Tú Sĩ lôi kéo ra ngoài :

- Ô hay! Chưa đến lượt anh mà anh xong xáo dữ vậy? Phải có trật tự chứ.
Người ta chờ từ buổi sáng sớm, những việc tiền bạc trăm ngàn lượng quan
trọng cũng không thể làm rối thứ tự kẻ trước người sau được.

Thất Tình Tú Sĩ chỉ khẽ lấy ngón tay ấn vào mạng sườn hắn tức thời đại hán canh cửa há mồm đứng đờ người hết cử động.

Lão trượng lớn tiếng hồi nãy, tiếp tục bô bô cái miệng, đi thẳng ra
ngoài cửa, viên quản lý níu kéo làm sao cũng chẳng được nữa. Thất Tình
Tú Sĩ nhân lúc này tiến sát hỏi :

- Ông là quản lý họ Tả phải không?

- Phải, tôi là Tả Thừa Vu, quản lý tiêu cục đã hai mươi năm nay rồi. Anh chắc là người ở xa nên không biết mặt nên mới hỏi như vậy. Anh có việc
chi?

- Tiểu thư Tiểu Bạch có thư cho ông.

Đọc xong thư, quản lý họ Tả vội kéo Thất Tình Tú Sĩ và căn phòng đóng chặt cửa lại.

- Tiểu thư Tiểu Bạch đã đến đây à? Tôi nghe nói tiểu thư bị mất tích từ
lâu. Nếu Vị Hải cô nương gia chủ tôi biết tin này chắc mừng lắm.

- Vị Hải cô nương đâu?

- Sắp tới đây gặp tôi nội ngày nay, để lãnh “số ngân” tiêu xài. Còn chỗ ở của Xích tôn ông thì thật quả địa vị tôi là quản lý không thể biết phải hỏi Vị Hải cô nương mới rõ.

Cánh cửa bỗng dưng mở toang, thiếu phụ áo đỏ ngồi chờ lúc này đã xuất hiện giữa khung cửa.

- Xin lỗi, bà là ai?

- Tôi muốn gặp ông quản lý. Ông bắt tôi chờ hoài mấy bữa nay. Tôi đến
đây tại sao không cho vô trước. Cái anh chàng “quê một cục” xách chiếc
dù này đến sau, sao ông lại tiếp, phá bỏ cả thông lệ trật tự tước sau.

Thất Tình Tú Sĩ đáp :

- Tôi là cháu họ ông Tả Thừa Vu. Ông là “thúc phụ” tôi, tôi có việc gia đình phải vào... gặp trước.

Ả kia nhoẻn miệng cười :

- Thôi đi anh, việc gia đình? Đừng vờ vĩnh nữa... Anh vô hỏi “thằng cha râu đỏ” ở cửa phải không?

- Thằng cha râu đỏ nào?

- Thằng Xích Tu Lân tự khoe khoang có cây đao Hắc Kim Cương, và tự xưng
là Thần Đao đại hiệp, Minh chủ Võ lâm miền Bắc sông Hoàng Hà đó?

- Trời ơi! Nói tới Xích đại tôn ông, ông chủ lớn nhất vùng Trực Lệ, bà
phải giữ gìn mồm miệng đôi chút không thì chết hai chú cháu chùng tôi!
Ông nghe thấy nổi nóng lên thì còn gì đời hai chú cháu nhà tôi và cái
cửa tiệm quèn này nữa?

- Hai chú cháu nhà anh đã nhút nhát vậy thì nói cho ta biết chỗ trú ngụ
của thằng cha “râu đỏ”, hiện ẩn nấp ở đâu để ta cho nó về thăm Diêm
Cung. Còn hai chú cháu nhà anh thì làm “môn hạ” ta sẽ sung sướng suốt
đời, không phải sợ hãi ai cả?

Thất Tình Tú Sĩ vội chắp hai tay lại, cung kính hỏi :

- Vậy thế đại nữ hiệp là ai, xin cho biết quý tính đại danh để tiểu sinh chiêm ngưỡng và tình nguyện đi theo hầu hạ.

Thiếu phụ áo đỏ nói :

- Anh mồm mép khéo lắm! Ta trông anh rất ưa thích. Anh lại có tài lanh
lẹ. Đến thoắt một cái là đã xí gạt được thằng canh cửa lẻn vô. Xét ra
anh cũng gớm lắm, không che mắt nổi ta đâu!

- Tôi có làm gì đâu mà đại nữ hiệp bảo là ghê với gớm! Đại nữ hiệp xét
lầm người rồi. Hai chú cháu chúng tôi chỉ đứng vào hàng đầy tớ hạng bét
trong số các môn hạ Xích đại tôn ông. Chúng tôi làm sao biết tôn ông
hiện dừng gót ngựa tại hoàng cung, dinh thự nào? Ai nói cho mà biết và
dù biết làm sao bỏ công ăn việc làm ở đây mà xin tiếp kiến ông ta được?

Thiếu phụ áo đỏ gật gù gãi đầu :

- Lời nói xét ra rất chí lý! Khá lắm! Khá lắm! Nhưng bây giờ ta muốn vật này?

- Bà muốn vật chi?

- Phong thư Tả tiên sinh cầm ở tay kia! Đưa ta đọc xem ở trong viết gì? Không lẽ sự tính toán của ta đã bị nhầm lẫn?

- Thư từ nói về việc riêng trong gia đình người ta, bà tò mò hỏi xem như vậy, không thấy “bất tiện” lăm sao?

Ả trơ trẽn cười hì hì đáp rằng :

- Thì ta đối với anh cũng nhưng tình người nhà cả mà! Thư của chú cháu
anh thì cũng như thư từ của ta, xem có chi là bất tiện. Rồi đây, nếu anh bằng lòng như vậy, anh muốn xem đồ vật chi của ta có, ta cũng không
giấu giếm, chịu không? Nhưng mà này, hai chú cháu anh muốn cưỡng ý ta
cũng chẳng được đâu, xem đây.

Thiếu phụ xòe bàn tay khẽ vẫy một cái, tự lòng bàn tay như có điện nam
châm hút phong thư rời khỏi tay viên quản lý bay về phía mụ ta. Nhưng
Thất Tình Tú Sĩ đã ngầm tụ cương lực, tung ra một “tụ chưởng” nhẹ như
gió thoảng nhằm phong thư đang phấp phới bay, làm mảnh giấy như bị một
bàn tay vô hình xé vụn tan nát trăm nghìn mảnh, lả tả tứ phía như nắm
hoa giấy.

Thiếu phụ áo đỏ biết chàng trai đã phá tan ý muốn của mình tấm tắc khen ngợi :

- Bản lãnh khá lắm! Ta đã bảo anh “ghê” lắm mà, không che mắt nổi ta
đâu? Vậy ta đặt điều kiện, bằng lòng “đi theo” ta không? Nếu theo ta thì ta coi như không có chuyện gì?

Thất Tình Tú Sĩ hỏi :

- Nhược bằng không thì sao?

- Việc đó lựa là phải hỏi? Không theo ta thì... ta phải ra tay bắt mi
phải tuân theo. Cũng như con chó còn hư thì đánh cho mấy roi là phải nín thít, trở nên chó ngoan ngoãn.

Viên quản lý thấy đôi bên đối đáp sợ quá chẳng biết nói năng điều gì.

Thất Tình Tú Sĩ nghĩ bụng: “Phải cho con mẹ này trận phủ đầu mới được”. Chàng nhìn thẳng vào hai con mắt thiếu phụ nói :

- Bà đòi xem thư một cách “bất nhã” quá, tôi không thể làm đầy tớ một bà chủ mà tôi không tâm phục.

Thiếu phụ toét miệng cười ngọt ngào :

- Nói vậy, ai dám bắt thiếu hiệp làm đầy tớ. Ít ra cũng phải giữ một
chức vị “bằng vai phải lứa” với ta chứ? “Cưng” nên ngoan ngoãn nghe ta
thì sẽ được nhiều lợi.

Thất Tình Tú Sĩ nghiêm trang nói.

- Thôi ta biết rõ mi là ai rồi! Tử Ngang đạo trưởng đã nói cho ta biết
mi là Hồng My Uyển Mị Hồ Côn Lôn phía. Mi là một trong bọn Thất sát do
đảng Hắc Y cử đi ám toán Thần Đao đại hiệp Xích Tu Lân và con gái ông
ta. Đừng màu mè bộ tịch “hồ tinh” nữa, ta đâu ngán!

Thiếu phụ chính là Uyển Mị Hồ đương do thám tin tức, nghe nói trúng tủ,
giật mình đến thót một cái! Ả lại nghĩ, quái lạ, chàng thanh niên này là ai mà biết rõ nhiệm vụ bí mật của ta?

Gần đây, giang hồ đồn đại có một thanh niên tuấn tú xuất hiện, võ công
tài giỏi phi thường đánh bại Câu Hồn giáo chủ và Ngũ Độc Thiên Nhân. Có
lẽ là tên này chăng? Ta nên cẩn thận mới được.

- Mi bảo ta là một trong Thất sát? Vậy mi có biết Thất sát có những ai không?

- Sao lại không biết!

- Xin kể ra.

- Đứng đầu là tên đao phủ thành An Huy mặt lạnh như tiền tên là Lãnh
Diện Băng Tâm đương tung ra trăm ngàn cái án giết sư trên giải Trực Lệ
này. Thứ đến hai vợ chồng Hắc Hồ song quái có ngón võ Chu Sa hỏa chưởng
và Âm Hàn băng chưởng. Thứ tư là con hổ tinh dâm đãng khét tiếng thiên
hạ, sau rốt là ba anh em mãi võ Sơn Đông nuôi beo, nuôi gấu, nuôi khỉ
đột là Lão Sư, Lão Hổ và Lão Báo. Bọn Thất sát chúng bay đương bị cao
thủ võ lâm thiên hạ vạch mặt chỉ tên lùng bắt đem lăng trì giữa chợ. Màn lưới đương giăng lên đầu chúng bay mà chúng bay không biết lại còn nhắm lén lút rình rập ám sát người ta. Thật là đê mạt khốn khiếp không thể
tha thứ được.

Hồng Y thiếu phụ nghe chàng thanh niên “quạt” cho một hồi, nàng tức tối
tóe đom đóm mắt, mồ hồi toát ra đẫm trán, muốn cùng chàng động thủ ngay
trong văn phòng.

Nhưng ở ngoài đã nghe thấy tiếng chân người rầm rập chạy vô. Thần hồn
nát thần tính, Uyển Mị Hồ tưởng cơ mưu của Thất sát hoàn toàn bại lộ,
Thần Đao đại hiệp đã giăng lưới vây bắt nên nàng chỉ kịp quay lại nhìn
Thất Tình Tú Sĩ đe dọa rằng :

- Trời đất rộng dài, ta và người sẽ còn gặp nhau.

Nói rồi nàng mở cửa sổ nhảy vụt ra ngoài biến mất.

Thất Tình Tú Sĩ không dám khinh suất đuổi theo. Nhiều người ở ngoài mở
cửa vô tưởng việc chi, té ra đám đông thương chủ chờ đợi quá lâu nên
cùng nhau xô vào. Tả Thừa Vu khoát tay nói lớn :

- Hôm nay bổn cục mắc việc bất thường, xin miễn tiếp khách.

Ông hối hả kêu gọi người làm đóng cửa tiêu cục, báo động các võ sư biết có kẻ cướp xâm nhập. Trong tiêu cục nổi trống báo hiệu.

Lúc này ông cụ già về văn phòng khi nãy, đứng ngay giữa đường, trước bảng hiệu Quảng Phát Lợi lăng mạ ầm ĩ.

- Từ nay ở dải đất Trực Lệ này, cái danh hiệu Thần Đao đại hiệp vứt mẹ
nó vào sọt rác đi nhé! Khi xưa còn nghèo nàn thì còn giang hồ hành hiệp, cứu vớt kẻ thế cô, bênh vực kẻ hèn yếu. Bây giờ giàu sang phú quý, lắm
của nhiều tiên, chui rúc ẩn núp như “con rùa đen”! Ác tặc lộng hành
thanh thiên bạch nhật, giết người giết sư giữa ban ngày thì “đại hiệp”
thoái thác, né tránh trong lầu ngà tháp ngọc! Ta chửi rủa danh từ “đại
hiệp” của lũ chúng bay. Đồ giả nhân, giả nghĩa, giả đạo đức... Đang lúc
mọi người xúm xít nghe lão trượng chửi rủa thì đằng xa. Vị Hải cô nương, phục sức rất lộng lẫy đương ngồi trên một cỗ kiệu bước xuống. Nàng ăn
bận đúng là một “thiên kim tiểu thư” giữa chốn tỉnh thành. Các thị nữ đi theo hầu hạ cũng phục đẹp đẽ, quý phái.

Ông lão không biết mặt nàng là con gái Thần Đao đại hiệp nên lại càng cất cao tiếng chửi bới.

Vị Hải cô nương là một thiếu nữ xưa nay có tính vui vẻ, hay đùa cợt mọi
người, nghe những lời lăng nhục như vậy không sao chịu nổi.

Nàng xăm xăm chạy lại bên lão trượng, túm ngực ông ta và mắng rằng :

- Chà! Ông cụ này ăn nói hỗn láo quá chừng. Cha tôi làm gì mà ông chửi bới thậm tệ như vậy?

Ông lão không sợ hãi trả lời rằng :

- Có chửi rủa như vậy thì phụ thân cô nương mới chịu “ló mặt” ra cho
chúng tôi nhờ cậy chứ. Thưa cô nương! Sư ông, sư bác chùa làng tôi rất
đạo hạnh, chúng tôi rất kính phục mang ơn rất nhiều. Thế mà, ban ngày
ban mặt, ác tặc không duyên cớ đến sát hại, chém rụng đầu hết thảy!
Không phải tại một nơi mà ở nhiều nơi đã xảy ra sự việc vô nhân đạo như
thế. Xích đại hiệp và cô nương không ra tay diệt ác thì còn biết kêu cậy vào ai?

Vị Hải cô nương buông tay nói nhỏ :

- Sự việc phạm pháp đã có quan binh triều đình lo liệu, nếu có muốn nhờ
cha con chúng tôi thì cũng phải có lời lẽ đàng hoàng, đứng đắn nói
chuyện minh bạch. Cụ là người nhiều tuổi, mọi người trọng vọng, sao lại
xử sự như kẻ “thất phu”, đầu đường xó chợ thế?

Tiểu Bạch ngồi chờ Thất Tình Tú Sĩ mang thơ hồi âm trong xe đậu ở góc
phố. Tuy mắt nàng không trông thấy gì nhưng tai nàng nghe rất xa và rõ
rệt những lời ông già chửi bới.

Chợt khi nghe tiếng nói của bạn mình là Vị Hải tiểu thư, trống ngực nàng đánh thùm thụp. Nàng nắm lấy tay Nhất Tiếu bảo rằng :

- Nguy rồi, Vị Hải mắc kế của bọn Thất sát rồi! Chúng có thuê người chửi rủa thì thây kệ chúng! Vị Hải công khai “ra mặt” là sẽ bị bọn Thất sát
ẩn náu quanh đây ám toán. Con mồi đã lộ ra, ác thú sắp nhảy tới để vồ
thịt đến nơi bây giờ. Nhất huynh tính sao? Hay để tôi ra ám trợ cho Vị
Hải vậy.

Ái Huê cuống quýt nói :

- Tiểu thư có trong thấy đường đi đâu mà dấn mình vào giữa nơi nguy hiểm. Để tôi lãnh việc đó cho.

Tiểu Bạch nói :

- Hòa thượng chưa rõ bọn Thất sát! Để tôi cứu Vị Hải thoát nguy. Nàng
nhận biết tôi mới chịu nghe lời tôi. Nhất huynh hòa thượng ngồi yên
trong xe trông chừng, chỉ tiếp ứng khi cần thiết.

Nàng dặn dò hai Cẩu đầu quái bảo vệ Vương Nhi và người trong xe.

Tiểu Bạch xuống xe, tay chống gậy quờ quạng nhằm chỗ tiếng nơi Vị Hải
phát xuất, lần mò bước tới. Giữa lúc đó, ở hai bên đầu đường có ba cỗ xe do ba đại hán lực lưỡng đẩy đến làm tắc nghẽn cả sự lưu thông. Trên mỗi xe có chở một chiếc hòm lớn kềnh càng, không biết đựng vật chi ở trong?

Vị Hải cô nương thấy người trong tiêu cục ùn ùn kéo ra. Võ sư tiêu cục
nai nịt khí giới “hô” đóng cổng lớn lại! Nàng chẳng hiểu đã xảy ra việc
gì, định bước vô phía cổng thì có tiếng quen gọi nheo nhéo :

- Vị Hải Công Minh tỷ tỷ! Chờ em với!

- Chị Vị Hải ơi! Chờ em với...


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui