Tôi gặp Abraham, bố của hai con trai tôi, trong một lần diễn không có sân khấu. Khách mời là những người đến tham dự triển lãm của Hà Lan về những kiểu nhà tránh lũ. Người ta uống cocktail ngoài trời, chuyện trò và xem một chương trình nghệ thuật dân tộc.
Tôi vốn ghét những buổi biểu diễn như thế. Diễn giữa ban ngày ban mặt. Ngay trên sân xi măng của Viện bảo tàng quân đội. Mọi thứ cứ trắng phếch ra, cứ như là không mặc quần áo. Cứ “người trần mắt thịt” nhìn thẳng vào mặt diễn viên. Chẳng có tí tẹo nào khoảng cách giữa diễn viên và khán giả. Chẳng có chút lung linh ánh đèn sân khấu cần thiết để lấy cảm hứng cho cả người diễn lẫn người xem. Vì mình phải tô son trát phấn, diễn rất gần đám khán giả vây tròn xung quanh. Trong tình trạng ấy, tôi múa mà cảm thấy mặt mũi sống sượng, ngượng chín người. Chẳng dám nhìn ai, cứ phải ngó bâng quơ, diễn cho xong chuyện. Đã thế, tiết mục nào cũng phải có mặt, từ diễn tập thể đến diễn đôi diễn đơn, tôi đều là tâm điểm của sự chú ý.
Diễn xong như thoát nợ, tôi mau chóng dắt xe máy ra về Vừa đến cổng, một cậu thanh niên đuổi theo: “Chị Vân ơi, ông sếp của em là người Hà Lan, vừa xem chị biểu diễn xong, rất muốn làm quen với chị. Đấy là em chỉ truyền đạt lại nguyện vọng của ông ấy”. Lúc đó đang mệt, tôi chỉ muốn thoát ra khỏi đám khán giả ấy, bèn gạt phắt đi: “Này, em về nói lại với ông sếp của em là chị chẳng muốn làm quen gì với người nước ngoài đâu nhé. Tính chị không thích như thế đâu”. Rồi dắt xe đi thẳng. Làm gì có chuyện dễ như thế nhỉ.
Chẳng quen biết gì ông lại bỗng dưng mời tôi? Tôi thấy bực bội. Thường thì những người hâm mộ hay bày tỏ tình cảm bằng những lá thư. Nếu có mời trực tiếp thì phải mời cả nhóm cùng đi ăn uống trò chuyện. Tôi không phải là loại người dễ dãi để họ dám can đảm mời một mình.
Bị từ chối thẳng thừng mà họ vẫn không tha. Biết tôi là người đang được chú ý trong giới nghệ sĩ ở Việt Nam, họ phôn đến nhà nói chuyện một cách rất dè dặt và có văn hóa, vì họ sợ một sự phản ứng không hay: “Tôi tên là Đàn, đang làm việc cho một tổ chức lương thực thế giới, hôm vừa rồi, sếp của tôi có xem chị biểu diễn và rất hâm mộ. Ông ấy muốn dược mời chị đi uống nước làm quen.” Rồi anh ta còn cố nói thêm: “Tất cả chỉ xuất phát từ lòng mến mộ thôi, sếp tôi là người rất đàng hoàng, một người tốt”. Tôi gạt phắt đi. “Anh ạ, anh về nói với sếp của anh: một là cô ấy có gia đình rồi. Hai là cô ấy không phải loại người dễ làm quen. Ba là nếu ông ta là loại người nước ngoài thích làm quen với loại đàn bà dễ dàng thế thì tốt nhất anh bảo với sếp anh ra ngoài đường đầy các em trẻ đẹp, tìm đâu cũng được.” Bốp chát như thế xong là cúp máy luôn. Ấy vậy mà anh Đàn, nay đã trở thành một người bạn của gia đình, vẫn kiên trì gọi thêm vài lần nữa. Lần nào cũng bị từ chối thẳng thừng: “Đừng làm phiền tôi nữa. Tôi không thích kiểu làm quen như thế, tôi không có cái tính ấy. Tôi không thích quan hệ với người nước ngoài”.
Vào giai đoạn ấy, tôi vẫn đang sống với chồng mình. Không bao giờ có chuyện một phụ nữ đã gần bốn mươi, đang có gia đình, lại đi nhận lời uống nước ngoài quán với một người đàn ông lạ, lại là người nước ngoài. Trong ý thức của tôi là không bao giờ có chuyện ấy. Bẵng đi một thời gian, tôi lại nhận được điện thoại từ người phiên dịch, nhưng lần này là mời tham gia biểu diễn trong đêm văn nghệ từ thiện.
Người đứng ra tổ chức chính là “Ông sếp Hà Lan” ấy. Mời đi chơi uống nước thì khó, nhưng mời làm việc, lại là việc thiện, tôi sẵn sàng nhận lời.
Abraham mời một nhóm nghệ sĩ Hà Lan sang cùng biểu diễn với một số nghệ sĩ Việt Nam. Khách mời là các sứ quán, ngoại giao đoàn và một số tổ chức xã hội khác. Mời chúng tôi đến văn phòng trao đổi công việc, Abraham nói: “Chúng tôi muốn tổ chức một đêm từ thiện, mời các nghệ sĩ Việt Nam tham gia, đương nhiên là có thù lao, tiền bán vé sẽ quyên góp cho các trẻ em nghèo”.
Nghệ sĩ đôi khi phải gặp gỡ làm việc với người mê mình là chuyện không lạ. Tất nhiên, người tinh ý sẽ biết ngay là người ta thích mình, nhưng mình không thích người ta thì cũng thấy rất bình thường. Lần đầu tiên gặp Abraham, trong lòng tội chẳng có gì rung động. Nghĩ bụng, chẳng dại gì mà đưa đẩy mình vào những mối tình éo le, ngang trái nữa. Sợ lắm rồi. Sau buổi làm việc đó, chúng tôi gặp nhau trao đôi thêm một hai lần nữa về chương trình cụ thể. Xong việc, anh mời tất cả ra quán Latino để ăn trưa và nói chuyện một cách đàng hoàng. Từ đó, chúng tôi thành quen nhau.
Đêm diễn thành công, những người trong ban tổ chức muốn vận động các nghệ sĩ góp tiền thù lao cho đêm từ thiện, nhưng vì đã thỏa thuận trước với diễn viên Việt Nam là có cat-se, Abraham lẳng lặng bỏ tiền túi ra để trả cho diễn viên như lời hứa. Sau này, anh phiên dịch nói lại chuyện ấy với tôi để chứng tỏ sếp mình là người đàng hoàng, trước sau như một.
Vào thời gian đó, họa sĩ Lê Chúc, cậu ruột tôi đang vẽ và làm việc tại Hà Nội. Cậu ở với gia đình tôi. Nhiều năm dài lênh đênh trên biển chỉ là cái cớ để cậu thỏa nguyện vẽ. Cậu cần vẽ như như người ta cần cơm ăn nước uống và khí trời để thở. Tôi phục nhất ở cậu cái đức ham học, ham đọc. Đọc, nghiền ngẫm và chắt lọc kiến thức biến nó thành của mình.
Thỉnh thoảng, tôi tranh thủ thời gian nghe cậu giảng giải như nghe truyền Đạo. Đạo ở đây mang ý nghĩa rộng lớn vượt ra ngoài lĩnh vực tôn giáo. Nhờ cậu, tôi hiểu thế nào là đạo về hội họa. Sau đạo Thiên chúa, gần đây nhất, cậu hay giảng cho tôi nghe về đạo Phật.
Vì đã từng làm việc trên tàu biển nên cậu nói tiếng Anh rất giỏi. Trong một lần gặp Abraham bàn công việc, tôi nhờ cậu đi cùng để phiên dịch. Rất nhanh, họ trở thành thân thiết bởi họ ngang tuổi nhau lại cùng quan tâm đến hội họa.
Chính vì vậy, sau đó, cậu mời anh tới nhà vẽ chân dung. Đó là lý do vì sao anh có thể đến nhà tôi chơi một cách công khai. Hai người đưa nhau ra vẽ vời góc vườn hay đâu đó. Họ có thể cà kê nói chuyện với nhau hàng giờ. Trong buổi triển lãm tranh, cậu Chúc có mời anh đến dự. Tôi cũng có mặt hôm đó, đón tiếp anh với tư cách “gia chủ”. Khi đã tin tưởng nhau rồi, tôi cởi mở với anh hơn, dần dần hình thành mối quen biết thân tình như bạn bè.
Với mối tình thứ ba này, cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không thể nào cắt nghĩa được sự đưa đẩy của số phận. Tôi đã dùng lý trí chống lại nó theo kiểu “hắt nước đổ đi”, thậm chí cố tình phũ phàng, sỗ sàng để người ta đừng theo đuổi mình nữa mà vẫn không thoát. Tôi chân thành nói với Abraham: “Tôi sợ bi lụy lắm rồi, sợ chết trong tình yêu lắm rồi! Tôi không muốn yêu một chút nào nữa, không muốn chuốc thêm những nỗi khổ vào mình nữa. Tôi đã cắt tóc ngắn rồi, muốn an phận cả về đường nghề lẫn đường tình”. Nhưng bất chấp mọi sự cự tuyệt của tôi, tình yêu vẫn đến…
Bỗng nhiên, năm 1997, tôi lại nhận được lời mời của Cục điện ảnh đi dự Liên hoan phim của một quĩ văn hóa Pháp tài trợ ở Phnompenh. Họ mời tôi và Thúy Hường, hai diễn viên chính của phim, vì đạo diễn bận không đi. Đợt ấy, có cả vợ chồng đạo diễn Hồ Quang Minh cũng mang phim Trang Giấy Trắng tới.
Cục Điện ảnh còn thông báo, họ đã quyết định gửi phim Lời Thề đi liên hoan phim Asean ở Indonesia. Vì thế, chưa hết thời gian ở Phnompenh, tôi đã phải bay về Sài Gòn, từ đó đi Jakarta, thủ đô của Indonesia rồi bay tiếp đến tỉnh Yoyagarta, cố đô cũ của Indonesia, nơi diễn ra liên hoan phim.
Đoàn đi gồm đạo diễn Tường Phương, hai người bên phát hành phim, một phiên dịch và tôi. Đến nơi, còn đang lả người ra vì mệt và đói, tôi vừa đặt vali xuống chuẩn bị làm thủ tục nhận phòng, đã thấy lễ tân hỏi: “Có phải bà là Lê Vân? Bà có một lá thư”. Tôi ngạc nhiên quá, ở cái nơi khỉ ho cò gáy này mình quen ai nhỉ? Nghĩ mãi không ra. Mở ra, một lá thư ngắn: chào mừng đã đến đất nước Indonesia, hỏi thăm sức khỏe sau chuyến bay, và lời nhắn: “Hãy gọi điện cho tôi theo số điện thoại này…”. Đó là một số phôn chỉ có bốn con số.
Nghĩ bụng: “Ai mà vô duyên nhỉ, gọi điện cho tôi theo số này, cứ như là ra lệnh ấy”. Bỗng tỉnh ra, đây là số nội bộ.
Như có một luồng điện giật, có lẽ là anh Hà Lan gốc Indonesia chăng? Quá dễ để anh ta biết mình nghỉ ở đâu. Không biết chừng anh ta đã thuê sẵn một phòng tại khách sạn này rồi cũng nên. Nhận phòng xong xuôi, thử gọi, vì tôi cũng rất tò mò. Bấm số xong, có người Alô trả lời luôn. Đúng là anh chàng Hà Lan! Tôi cười phá lên. Sao anh ta lại “tinh vi” thế?
Tại sao lại nghĩ ra cái màn đón đầu như thế! Chợt nhớ ra, trong một lần gặp Abram ở Hà nội trước khi đi, tôi có khoe sắp đi dự liên hoan phim ở nước anh ta tổ chức…
Và thế là, lại một khoảng trời tự do mở ra…
Ở đó, chẳng ai để ý đến ai. Có tám đoàn điện ảnh đến từ tám quốc gia khác nhau. Đoàn Việt Nam gồm bốn nam một nữ, đương nhiên là tôi phải ở riêng một phòng. Thế là lại ở nơi không ai quản lý, không ai nhìn thấy mình để mà sợ cả.
Chẳng ai để ý xem mình đang cặp kè với ai. Chương trình liên hoan khá bận rộn: Họp báo, xem phim, ra mắt đoàn, tham quan… với hàng trăm con người như thế. Năm người Việt Nam cũng chỉ gặp nhau vào lúc ăn sáng dưới nhà hàng của khách sạn, sau đó tản ra mỗi người một việc. Người đi chợ phim, người đi hội thảo. Ai muốn xem phim nào thì lên đúng cái xe đó, ban tổ chức sẽ chở đến rạp. Nói chung là sinh hoạt tự do.
Tôi vớ được ông anh người gốc Indonesia thì mừng quá Vui như hội. Tối hôm đó đói kinh khủng. Tôi đề nghị: “Anh có đưa tôi đi ăn được không vì tôi đói sắp lả ra rồi”. Anh ấy bảo: “Yên tâm, tôi sẽ đưa cô đi ăn những thứ đặc sản của lndonesia”. Anh đưa tôi đến một nhà hàng ở trung tâm.
Lúc ấy cũng chẳng để ý đến giờ giấc nhưng chắc cũng khá khuya, nhà hàng vắng teo. Bram gọi ra rất nhiều món và bảo: “Tôi ăn rồi, những món này chỉ em ăn thôi, Gọi ra năm, bảy món mà nhìn món nào tôi cũng thấy thích nhưng không thể nào ăn hết. Khi về, chúng tôi không về bằng tắc xi. Anh gợi ý đi bằng loại xe đặc biệt của Indonesia thích hơn. Đó là loại xe giống kiểu xe lôi của Việt Nam, một thứ xích lô ngược. Ông xích lô nghèo thì mới lọ mọ phục vụ khách ban đêm như thế.
Chúng tôi đi chơi cố đô bằng cái xe đó trong không gian tĩnh lặng lãng mạn của đêm phố cổ. Nghĩ mình thật là may mắn, đang đói thì có người cho đi ăn, ăn xong còn được đi chơi phố lạ bỗng nhiên thành như đã quen. Tôi rất vui, bảo anh: “Nếu không gặp anh ở đây khéo em chết đói, làm sao mà dám đi chơi Indonesia như thế này”.
Từ hôm đó, anh cứ “nằm vùng” ở đấy suốt bốn, năm ngày. Ngoài chương trình của LHP ra, có thời gian, tôi lại được anh đưa đi chơi. Chúng tôi ăn trưa, ăn tối, và thậm chí cả ăn sáng cùng nhau. Chẳng ai để ý đến chúng tôi vì đông quá. Có lẽ, người ta tưởng anh cũng là người của LHP. Ăn sáng xong, tôi đi theo chương trình của mình. Chỉ gặp anh vào buổi trưa và buổi tối. Tự nhiên có một người đưa đi khắp nơi, biết bao nhiêu thứ lạ, tôi kể lại với mấy người cùng đoàn, mọi người ngạc nhiên lắm. Người phiên dịch bảo: “Lần đầu tiên tôi được nhàn, chứ không thì đến khổ với mấy bà diễn viên Bắt đưa đi chơi, nào mua bán mặc cả, nào ăn uống đủ kiểu. Lần này mới được một bà nhanh nhẹn thế. Bà ấy chẳng cần gì, thậm chí lại còn đi trước cả mình”.
Mọi người đâu biết tôi có “tay trong” đưa đường chỉ lối Bốn năm hôm liền quấn quít bên nhau rất thân thiết. Có những lúc nằm sát cạnh nhau cực kỳ lãng mạn nhưng giữa chúng tôi vẫn có một khoảng cách tỉnh táo, không có chuyện tình cảm xa hơn.
Anh rủ tôi đi tham quan chùa Boroburdu, một di tích kiến trúc nổi tiếng của Indonesia. Ngôi chùa được xây trên một đỉnh núi, vào thế kỷ thứ tám, thời kỳ Phật giáo phát triển thịnh vượng nhất ở đây. Một trong những cái thú của khách du lịch nước ngoài là được đón mặt trời lên tại ngôi chùa. Phải có mặt lúc năm giờ sáng để thưởng thức không khí yên tĩnh buổi sáng, đúng vào khoảnh khắc mặt trời mọc.
Trước buổi đi tham quan, vì ăn tối xong cũng đã khá muộn, sáng hôm sau lại đi sớm, tôi quyết định ngủ lại phòng của anh ấy, thử lý trí mình xem sao. Ngủ cùng giường, nhưng tôi rất tỉnh táo nghĩ rằng, nếu mình không muốn thì người đàn ông không thể có cách nào mà tiến tới được. Tôi thực sự muốn thử bản lĩnh của mình xem liệu tôi có bị cám dỗ không. Có lẽ là tôi lãng mạn quá! May là không có chuyện gì xảy ra.
Chỉ có điều là anh không thể ngủ được, cứ trằn trọc quay bên nọ quay bên kia. Tôi cũng thế nhưng giả vờ ngủ thôi. Cứ như là đang thử thách nhau vậy. Bỗng nhiên, anh bật dậy, mặc quần áo ngoài. Tôi nghe tiếng cửa đóng uỳnh một cái. Biết ngay là anh bị ức chế. Biết anh đi ra quầy bar nhưng tôi cứ mặc kệ. Rồi thiếp đi. Anh về từ lúc nào tôi cũng chẳng biết. (Sau này, anh cứ cười cợt nửa đùa nửa thật bảo rằng: “Em ơi, em ngây thơ lắm tất cả bọn đàn ông đều… chó cả”).
Bốn giờ sáng dậy đi chơi núi. Trên xe, do đêm trước ngủ ít quá, tôi bị say xe và buồn ngủ kinh khủng. Đến lúc này, chả cần ý tứ gì cả cứ gối đầu bừa lên đùi anh ấy mà ngủ như chết. Suốt quãng đường bốn năm chục cây số, tôi cứ ngủ ngon lành. Ở trên xe thì còn lo gì nữa. Cả hai chúng tôi đều rất hạnh phúc. Sao lại có một thứ tình cảm trong sáng đến thế, lãng mạn và đẹp đẽ đến thế? Anh bảo, anh còn nhớ mãi cảm giác tôi gối đầu lên đùi anh tin cậy ngủ như một cô bé. Lúc ấy, trong đầu anh không hề gợn lên một chút vẩn đục nào.
Đến nơi, sương chưa tan, không gian mờ ảo, trong veo. Cảm giác trong lành và cực kỳ tĩnh tâm. Rồi mặt trời lên. Có tiếng gà gáy sáng đâu đây. Lác đác những người khách du lịch châu âu đi thăm quan, hít thở tinh khí buổi sáng. Không gian vừa tĩnh lặng vừa tràn đầy sức sống. Được xếp đặt bởi những phiến đá gắn kết với nhau giống như cách người cổ đại Ai cập làm Kim tự tháp, ngôi chùa là một kỳ quan từ bàn tay con người tạo nên chẳng cần một chất xi măng hay chất keo nào. Ngôi chùa cổ trông như một quả núi thấp, bao gồm rất nhiều những ngôi chùa nhở trong đó có tượng phật ngồi, có những bức mất cả đầu. Thật đáng sợ.
Không ai giải thích được lý do tại sao người ta lại lấy được đầu tượng Phật ra khỏi đó. Đặc biệt hàng nghìn bức tranh được khắc trên đá kể lại sự tích đạo Phật và đời sống con người thời đó. Cũng không ai giải thích được lý do nhờ đâu những nghệ sĩ cách đây hàng mười mấy thế kỷ lại tạo ra được những bức tranh khắc trên đá hoàn hảo tuyệt vời đến vậy. Phải có một niềm tin mạnh mẽ hướng về tôn giáo, về Thượng đế tuyệt đối thế nào, người Inđô mới có thể tạo ra một kỳ quan vĩ đại nhường ấy.
Hôm đó là thứ năm, ngày anh phải về lại Jakarta bàn giao công việc, thứ bảy anh bay đi Singapore rồi mới về Hà Lan. Còn tôi, thứ bảy kết thúc liên hoan phim, bay về Jakarta, rồi về Việt Nam.
Sau khi đi tham quan về, chúng tôi ăn với nhau bữa, cơm trưa chia tay trong một nhà hàng lịch sự. Vừa đưa miếng thức ăn lên miệng, bỗng nhiên tôi thấy nghẹn ngào. Lại bị cảm xúc chia ly chi phối. Mấy ngày trời quấn quít bên nhau như thế, bao nhiêu là tình cảm êm đềm, vui tươi, lãng mạn. Mà chia tay như thế này nghĩa là chia tay luôn. Anh trở về Hà Lan, tôi ở lại lầm lũi một mình. Một nỗi xúc cảm dâng lên, nghẹn lại một cục ở cổ, không sao nuốt nổi. Cứ cắm mặt xuống khóc. Không dám để người ta biết mình khóc. Còn bao nhiêu người xung quanh nữa chứ. Lại lo, nếu anh biết mình khóc, nghĩa là mình đã mở rộng trái tim như một lời thú nhận Tôi không dám ngẩng mặt lên. Đến khi anh ấy hỏi một câu gì đấy, không thấy trả lời, anh mới biết là tôi đang khóc.
Anh ra sức an ủi, thế nào chúng tôi cũng gặp lại nhau. Rồi tôi tưởng tượng, ngày mai, không có ai chờ mình ăn sáng, trưa mình sẽ ăn cơm với ai, tối ai đưa mình đi chơi. Thế là mình lại côi cút giữa xứ lạ này. Thế là không sao kìm được cơn nức nở. Anh phải ngừng bữa ăn đưa tôi về khách sạn rồi ra sân bay luôn.
Cho đến lúc đó, tuy giữa chúng tôi chưa có gì vượt quá tình bạn, tình anh em, nhưng mấy ngày chia sẻ cùng nhau biết bao điều khiến tôi thấy anh trở nên gần gụi lạ lùng. Sẽ không bao giờ có lại cái thời gian đẹp đẽ, lãng mạn như thế nữa ư? Anh đi khỏi, tôi nằm vật ra. Khóc. Như rơi vào một khoảng trống. Năm phút sau, có tiếng gõ cửa. Tôi mừng rỡ bật dậy, cầu mong đấy là anh.
Không phải anh. Người hầu phòng khách sạn bước vào. Anh nhờ họ chuyển lên cho tôi một bao thuốc lá. Thời gian đó, thỉnh thoảng tôi có hút thuốc. Thế là anh bay đi thật rồi!
Chiều hôm đó, tôi chỉ nằm buồn rũ rượi. Chẳng muốn ra ngoài ăn uống vì không cất nhắc nổi chân tay. Đến tối, đấu tranh tư tưởng, hình như mình vừa bỏ lỡ một điều gì đó. Nếu mình không quyết định lúc này thì không bao giờ có thể lấy lại được Tại sao mình lại được số phận đưa đẩy đến một khoảng thời gian lãng mạn như thế mà mình lại để mất, đánh mất cái điều đẹp đẽ đến như thế. Một ý nghĩ tỉnh táo vụt đến, tôi vồ lấy mẩu giấy có ghi số điện thoại của anh ở Jakarta.
Giờ này chắc là anh về đến nơi rồi. Lập tức giở hướng dẫn gọi điện thoại ra ngoài của khách sạn ra, bấm hú họa. Nào, thử xem số phận nó đẩy mình đến đâu? Thế mà rồi chuông reo. Gọi đúng rồi! Sau vài hồi chuông lảnh lót, nghĩ nhiều phần anh chưa về đến nơi. Thế mà rồi có người nhấc máy. Giọng anh vang lên: “Anh vừa về đến nơi thì nghe tiếng chuông”. Tôi sướng quá, lại nghe thấy giọng nói của anh. Tôi gấp gáp: “Anh hãy quay lại ngay với em, em không thể chịu đựng được nữa. Chưa bao giờ em cảm thấy cô đơn như lúc này. Bây giờ em vẫn đang nằm bẹp ở khách sạn, chưa ăn gì, không có ai đưa em đi ăn. Anh hãy tìm mọi cách bay ngay đến đây được không? Có thể anh vẫn kịp chuyến bay tối. Anh hãy quay lại ngay không có em chết mất”. Đến lúc này, tôi không thể che dấu được tình cảm của mình nữa rồi. Chả cần phải nói, em đã yêu anh mất rồi, thì anh cũng đã hiểu.
Anh hứa. Bằng mọi giá, anh sẽ bay đến ở đó với tôi một ngày. Tiếc là tối hôm đó, chuyến bay đã đầy chỗ, anh sẽ bay chuyến sớm nhất của ngày hôm sau. Thế là mừng quá, không ngủ nổi. Vừa run vừa hồi hộp. Sống trong cảm giác bị trúng mũi tên của thần tình yêu, tôi thức trắng luôn để chờ.
Tôi không ăn tối, bữa sáng hôm sau cũng nhịn luôn. Tám giờ sáng, anh xuất hiện. Chúng tôi lao vào nhau, không còn ngượng ngùng dè dặt, không còn giữ gìn ý tứ, và cả không còn khoảng cách nào ngăn cách hai chúng tôi nữa.
Ngẫm lại hoàn cảnh thử thách tình cảm và bản lĩnh của mình, tôi nhận ra, những tình cảm chúng tôi có với nhau khi đó đích thực là tình yêu. Chúng tôi không bị hút vào nhau bằng vật chất hay thân xác, nhục dục. Tôi đã thử thách bản thân đến vậy và chiến thắng được mình trong những giây phút yếu mềm nhất. Trong đầu tôi không nghĩ đến chuyện ấy. Chỉ muốn sao cho cả hai đều có những giây phút êm đềm không thể quên nên cũng không dám đi quá hơn vì lo nó không còn đẹp nữa. Đến thời khắc phải chia tay anh, trái tim tôi mới bất ngờ lên tiếng. Tôi cứ như bị chết hẳn, người cứ sóng xoài ra, tha hồ mà khóc. Cô đơn trống rỗng, như bỗng nhiên bị vứt lại giữa dòng đời không biết bấu víu vào đâu.
Rồi tự mình cường điệu lên. Ngày mai ai sẽ lo lắng cho mình. Cảm thấy như mình vừa bị tuột khỏi tay một điều gì đó tuyệt đẹp Chúng tôi lấy ngày tôi gọi anh lại làm ngày khai sinh cho mối tình của chúng tôi. Ngày 9 tháng 4. Chúng tôi chụp chung một bức ảnh trước cửa khách sạn Yoyagarta, thầm hứa sẽ quay lại nơi này cùng con cái để cho chúng biết nơi tình yêu của bố mẹ bắt đầu. Cuốn sách về kỳ liên hoan phim đó được cất giữ cẩn thận như một báu vật trong kho tàng tình yêu của chúng tôi.
Lần chia tay thứ hai, tôi không còn sợ hãi nữa, biết chắc là đã có nhau, biết chắc là sẽ gặp lại. Anh hứa sẽ đến Việt Nam ngay khi có thể. Theo chương trình, chủ nhật tôi bay lên Jakarta, chờ một tiếng ở sân bay rồi bay về Sài Gòn. Anh hẹn gặp tôi ở sân bay vì sáng hôm đó, anh cũng bay đi Singapore.
Nhưng rồi, không hiểu ban tổ chức sắp xếp thế nào, tôi và Tường Phương lại bị lọt ở lại bay chuyến sau. Bị rớt lại, tôi như điên như rồ. Thế là lại bị cắt đứt. Không gọi dược cho nhau nữa. Anh sẽ bay đi Singapore trước khi tôi đến Jakarta. Không thể gặp được. Lòng bảo lòng như vậy nhưng tâm lý của kẻ đang yêu thì cứ hão huyền hi vọng, biết đâu đấy…
Khi cùng đoàn hành khách tiến về phía cửa ra vào, tôi cũng dáo dác nhìn, như thể có ai đó đang chờ mình. Hão huyền bản năng thế thôi. Thế mà lại nhìn thấy anh. Bỏ rơi luôn vali, quên luôn cả Tường Phương là ai, tôi lao về chỗ anh đứng. Lao bộp vào cửa kính. Cái cửa kính trong suốt của sân bay. Tôi chẳng nhìn thấy gì khác ngoài cái người của mình. Nhào ra ôm chầm lấy anh. Sau đó mới thấy đau, và ngượng. Trời ơi, mình mới quê làm sao? Nhưng mà mừng quá, chẳng biết gì xung quanh nữa.
Chuyến bay về Việt Nam đã cất cánh rồi. Anh rủ tôi đổi vé đi Singapore với anh. Không ngờ lại đổi được. Thế là bỏ lại Tường Phương. Tôi bay đi Sing cùng anh. Đúng là, nhờ sức mạnh của tình yêu, người ta trở nên nhanh trí hơn rất nhiều. Tâm trạng chúng tôi như lơ lửng trên cành cây. Như những kẻ say sưa, hai đứa dắt tay nhau di bộ dung dăng dung dẻ trên đường phố Singapore. Chúng tôi vào một quán ăn, nhìn thấy bàn bên cạnh người ta ăn món cua xốt kiểu gì mà trông đỏ chót lên, tôi bảo anh, em muốn ăn cái món giống thế kia kìa. Anh cũng nói lại với người phục vụ như vậy. Có nhau thêm một ngày nữa rồi mới thật chia tay, anh hẹn xong việc ở Hà Lan là sẽ bay về Việt Nam.
Hoá ra anh là người có dụng tâm, thấy mình là người khó gần nên phải nghĩ kế làm quen bằng công việc. Lúc đó anh đã cố gắng.để không thể hiện một điều gì khác thường khiến tôi phải để phòng. Sau này, khi đã có nhau, anh tâm sự: “Anh không thể nào lý giải được tại sao lại bị cuốn hút vào mối tình này. Kể từ lúc xem em biểu diễn, anh như bị chi phối bởi một sức mạnh thần bí từ một nơi cao xa bảo anh phải gặp em. Em là định mệnh của anh. Dù rất ngại sự đường đột, nhưng rõ ràng là, có một tiếng nói từ sâu thẳm lòng anh bảo nhất định phải theo em, phải theo bằng được”. Lúc ấy, tôi nào có trẻ trung gì. Ba tám tuổi rồi, đang sống với chồng.
Bằng lý trí của mình, tôi chẳng hề nghĩ hay tìm kiếm chờ đợi một cuộc gặp như thế. Anh hơn tôi bảy tuổi, cũng đang có gia đình, vợ con đàng hoàng, yên ổn… Có lẽ như anh nói, giây phút anh nhìn thấy tôi múa đúng là khoảnh khắc của định mệnh thật. Và cũng phải thành thực mà nói, nếu không có anh xen vào, tôi đã an phận sống với chồng mình, chàng lãng tử đã từ bỏ tất cả vì tôi.
***
Khi mối tình thứ ba manh nha xuất hiện, lý trí tôi cực kỳ tỉnh táo bảo con tim tôi hãy ngủ yên. Tôi không có lý do gì để phụ bạc chồng mình. Thể mà rồi, tôi vẫn bị đưa đẩy đến một vùng miền hoang khuất đâu đó trong tôi nhưng nằm ngoài khả năng kiểm soát của lý trí. Không thể chống đỡ lại được “tiếng gọi nơi hoang dã” ấy, lần thứ hai, tôi trở thành người đàn bà phản bội. Tôi như con chim nhỏ tự lao vào bụi mận gai, tự làm mình đau đớn, để hót lên bài ca tình yêu với tất cả sức mạnh của lòng khát khao được yêu, được sống đúng là mình, đúng như mình muốn…
Không giống như lần phản bội người tình đầu tiên, về Hà Nội, tôi lập tức thú tội ngay với Người ấy. Lần này, về đến Việt Nam, tôi giữ mọi chuyện kín như bưng. Ngoài mặt cố giữ vẻ bình thản nhưng trong lòng bắt đầu một cuộc chiến đấu. Bây giờ làm thế nào? Cứ như là bị vứt bộp từ trên cao xuống đất. Phải đối mặt với sự thật. Làm thế nào khi mà trên thực tế, mình là gái có chồng, mà cũng chưa dám nghĩ chưa hề nghĩ đến chuyện bỏ chồng! Từ bỏ tình yêu kia thì không thể. Bắt đầu những ngày lén lút, chờ đợi, hồi hộp, sợ hãi.
Đúng là ăn vụng. Tôi đòi chồng lắp cái điện thoại mẹ con để còn đi ra cuối vườn hoặc lên sân thượng lén nghe điện thoại của người tình. Vừa nghe vừa nhòm xem có ai biết không.
Đó là những ngày yêu đương căng thẳng. Sao thế nhỉ? Sao lại cứ tự đưa mình vào sự khốn khổ như thế?
Lúc ấy, tôi chưa dám nghĩ đến một tương lai nào cả, chỉ biết có một tình yêu lãng mạn vụng trộm vậy thôi. Không biết có dám đi đến đâu không khi mà cả tôi và anh đều đang có gia đình. Nhưng làm sao có thể sống mãi trong sự giả dối? Vậy tôi phải xử lý chuyện này thế nào? Nghĩ đến mụ mị đầu óc. Lắm lúc tặc lưỡi, không nghĩ nữa vì đau đầu quá. Thôi cứ tạm “quẳng gánh lo đi mà vui sống” chứ cứ thế này thì chết mất. Đợi lúc nào tỉnh táo nhất sẽ tìm cách xử lý chứ đang lúc ụ mê thế này, mình rất dễ có quyết định sai lầm.
Đã yêu rồi nên lúc nào cũng trong tâm trạng chờ đợi điện thoại nhưng lại sợ chồng nghe thấy. Phải giả tạo, phải diễn, phải lừa dối chồng. Cảm giác khổ sở vô cùng vì đang làm một điều sai trái.
Trong giai đoạn Abraham chưa về lại Việt Nam, đoàn tôi có chuyến đi biểu diễn ở Trung Quốc. Đến Trung Quốc, tôi điện thoại ngay sang Hà Lan, gặp bố anh nghe máy. Bằng thứ tiếng Anh bập bẹ, tôi cố gắng để lại lời nhắn với những thông tin cần thiết. Cứ hú hoạ vậy thôi, không ngờ từ Bỉ về Hà Lan, anh nhận được tin nhắn của tôi và điện thoại ngay sang khách sạn. Tiếc là không gặp vì đoàn đi biểu diễn chưa về; Khoảng hai giờ sáng, chuông reo. Tôi vồ lấy điện thoại vì biết ngay đó là anh. Cô bạn cùng phòng ngạc nhiên: “Ai mà gọi điện hai giờ đêm thế” rồi lăn ra ngủ tiếp, mặc tôi líu lo nói chuyện. Anh thông báo kế hoạch bay sang Việt Nam, hẹn chắc chắn khi ở Trung Quốc về, anh đã có mặt tại Hà Nội rồi.
Nghĩa là từ tháng tư đến tháng chín cùng năm ấy, chúng tôi mới gặp lại nhau.
Ngày về, chồng tôi đi cùng ô tô của nhà hát ra đón tận sân bay. May làm sao, trên ô tô, bà giám đốc lại bảo: “Ngay ngày mai, tuy mệt nhưng các bạn phải chịu khó vào đoàn vì sẽ có một cuộc biểu diễn cho Chính phủ, không được nghỉ ngơi mà phải tập ngay cho buổi biểu diễn quan trọng này”. Chồng tôi cũng nghe thấy thông báo ấy, thế là tôi vớ ngay lấy cái cớ ấy để sáng hôm sau đi gặp Abraham.
Thực chất là nhóm khác phải đi tập chứ không phải nhóm tôi, nhưng tôi vẫn bảo ông xã là tôi đi vào Mai Dịch, rồi lén lút đến khách sạn Phú Gia gặp anh. Đến Việt Nam lần này, anh lại đứng ra tổ chức một buổi biểu diễn quyên góp nữa. Anh mời được cả một ban nhạc nhẹ với ba bốn ca sĩ Hà Lan sang và lại phối hợp với một số nghệ sĩ Việt Nam. Buổi biểu diễn được tổ chức ở Sài Gòn với qui mô lớn hơn lần trước.
Đúng lúc tôi đang giúp anh mời các ca sĩ phía Nam, lên bộ khung cho ba đêm biểu diễn, thì bà giám đốc nhà hát bảo: “Sắp tới có một Hội nghị phụ nữ toàn thế giới do một tổ chức phi chính phủ tổ chức ở Bắc Kinh. Hội phụ nữ Trung ương Việt Nam cử Vân tham dự, vừa với tư cách đại biểu, vừa là người gần đây có nhiều đóng góp cho nghệ thuật. Sang đó, nếu cần, Vân có thể biểu diễn giới thiệu văn hóa nghệ thuật Việt Nam”. Sau khi cân nhắc, tôi gặp cô Quỳnh giám đốc, trình bày: “Kế hoạch của cháu đã lên khung trước khi có lời mời của Hội phụ nữ, mọi thứ đã sẵn sàng, nếu cháu đi nghĩa là ảnh hưởng không nhỏ đến chương trình của người ta nên cháu buộc phải nói lời từ chối”. Họ dành phải giới thiệu người khác, cũng là diễn viên trong đoàn. Mọi người rất tiếc cho tôi. Tôi cũng tiếc một chuyến đi nhiều vinh dự như vậy, nhưng bù lại, tôi được tự do cùng anh ấy bay vào Sài Gòn.
Trước khi đi Sài Gòn, tôi thấy cơ thể mình có những dấu hiệu khác lạ: hình như tôi đã có mang. Tôi không thiết ăn, cứ ngửi thấy mùi thức ăn là ói. Rồi thì nghén. Nghén như sắp chết. Tôi chắc là mình “có” rồi. Tuy nhiên, anh vẫn đưa tôi đến khám một ông bác sĩ người nước ngoài. Anh bảo tôi đừng sợ, bác sĩ là người quen, có thể coi như chỗ bạn bè. Dẫu vậy thì tôi vẫn rất sợ, cứ muốn điên. Chưa giải quyết được dứt khoát với chồng nên tôi rất lo. Nhỡ có người nào biết thì chết mất. Mình đi đến đâu mọi người chả nhận ra! Tôi phải đeo kính đen vì sợ những bác sĩ, y tá người Việt ở đó biết rồi đàm tiếu. Rất may, ông bác sĩ là người tâm lý, chưa cần nói gì nhiều, ông đã hiểu hết. Ông đưa tôi vào phòng làm việc riêng. Khám xong lại siêu âm. Kết quả là có thai thật! Tôi nghe mà rụng rời, choáng váng. Tuy nhiên, tôi vẫn cố hoàn thành ba đêm diễn ấy. Không ngờ, đó là ba đêm diễn cuối cùng. Diễn xong, tôi bay ra Hà Nội, Abraham về nước. Anh chỉ dặn tôi cố gắng giữ gìn sức khỏe.
Anh đi rồi, chỉ còn lại tôi với cái thai không mong đợi. Tôi không biết phải làm gì. Chắc phải lén lút bỏ đi thôi. Rồi sẽ nói dối là sẩy thai. Tâm trạng thật căng thẳng. Ba mươi tám tuổi, lần đầu tiên được mang bầu mà lại phải bỏ ư?
Thật xót xa. Vì quá sợ hãi nên tôi không có một cảm giác gì về tình mẫu tử cả. Chưa biết có bầu phải như thế nào. Quá nhiều thứ mới mẻ. Chưa biết cái viện phụ sản nó ở đâu. Sợ hãi và căng thẳng làm sao! Tự nhủ, chắc chắn phải đi một mình vì không dám thổ lộ với ai. Chắc là đau đớn lắm nhưng cũng phải lặng lẽ đeo kính vào mà đi thôi vì không dám để lâu. Nhưng tôi lại vẫn đắn đo, không biết mình làm thế có đúng không?.
Đúng lúc đó, một người bạn đến nhà chơi. Một người đang bị cúm. Ngay lập tức, tôi bị lây cúm, suốt một tuần cứ hắt xì hơi, nước mắt nước mũi xì xụt, lại còn nghén lên nghén xuống. Tôi không dám ho he gì với chồng, bởi lúc đó, tôi chưa dám quyết bề nào. Thời gian đó đang ly thân với chồng, thế mà lại có thai? Sợ hãi và đau khổ muốn chết đi được vì rất lo chồng biết. May quá, nghĩ ra chỉ có nhờ cô Khanh, có chị có em đi cùng và đi công khai, vì nếu mình đi đơn độc thì người ta lại nghi. Tôi bảo với Khanh: “Chị bị cúm nên chắc phải bỏ thôi vì nghe nói, chỉ tiếp xúc với người cúm, con sinh ra đã có thể bị quái thai hay khiếm khuyết gì đó”. Nói với Khanh nhưng thực ra tôi đang tự tiếp thêm can đảm cho mình. Nhờ đợt cúm gần chục ngày, tôi đi đến quyết định từ bỏ cái thai một cách thanh thản hơn.
Khanh đưa tôi đi mà không hề biết “sự tích” cái thai là thế nào, chỉ nghĩ vì cúm nên chị phải bỏ. Có con rồi nên Khanh rất thành thạo việc ra vào chốn bệnh viện ấy. Còn tôi thì cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn vì sợ. Mới nhìn thấy bác sĩ đã đông cứng cả người lại. Chưa biết cái gì sẽ xảy ra. Chỉ biết bác sĩ bảo sẽ dùng phương pháp hút. Vì tôi huyết áp thấp lại thiếu can xi trầm trọng, vừa trèo lên bàn, tôi sợ quá đến nỗi chân tay người ngợm “dừng hình” luôn, nghĩa là không cử động được nữa. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác tê dại toàn thân. Không biết họ làm gì mà tức bụng và đau đến mức cứng hết cơ người. Bác sĩ bảo, chưa thấy ai mới chỉ có hút mà đã đau đến mức cứng người lại như thế. Họ đưa cho tôi cốc nước đường.
Sau khi uống vào một lúc, các cơ của tôi mới dãn ra và cử động lại được. Nhưng sao mà đau thế. Cứ nhắm tịt mắt lại.
Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn. Xấu hổ. Đau đớn. Tủi thân. Sợ hãi. Tôi không thể đi nổi dù chỉ một đoạn từ phòng này sang phòng kia để nghỉ. Đau không thể đứng lên được, cứ lòng khòng đi như một bà già. Khanh sợ quá bảo: “Em chưa từng thấy ai bị đau khủng khiếp như chị”.
Khanh nói đúng. Sê chẳng có ai phải chịu đau đớn như tôi. Bởi tôi không chỉ có nỗi đau thể xác, mà cộng thêm vào đó là nỗi đau tinh thần không một ai có thể thấu hiểu. Tôi vừa hút đi một mầm yêu tội lỗi hay vô tội? Không ai biết. Ngay cả chồng tôi, chàng lãng tử cũng không hề hay biết.
Sau khi hút thai, cơn nghén chấm dứt ngay như có phép màu, nhưng tôi lại bị rơi vào một trạng thái khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Tôi đang tự gây họa cho mình. Tôi biết thế. Tôi lờ mờ nghĩ đến cái chết.
Khi bên kia gọi về, tôi lén lút báo tin đã bỏ cái thai rồi. Vì cúm. Bên kia lắng nghe, bật khóc: “Anh ân hận đã để em lại một mình, giá có anh ở đó, anh sẽ đưa em đi bệnh viện, có khi em đã không phải làm thế”. Anh khóc vì mất đi một đứa con, khóc vì thương tôi lặn lội một mình trong hoàn cảnh éo le oan trái. Bên anh thì rồ dại lo lắng, bên tôi thì căng thẳng chống đỡ. Không ai biết điều gì nữa sẽ đến. Phòng chuyện không may xảy ra sau này, nhỡ nhiễm trùng hay không thể có con nữa, anh nhất định bắt tôi phải trở lại gặp ông bác sĩ quen, khám thật kỹ. Ông bác sĩ tuy xấu người nhưng lại rất hào hoa, giỏi nghề và cực kỳ tốt bụng. Đặc biệt, ông nói thạo tiếng Việt. Anh cũng gọi điện về dặn dò gửi gắm bác sĩ cẩn thận. Anh kể hết hoàn cảnh éo le chuyện tình của chúng tôi. Ông bác sĩ tỏ ra rất hiểu và thương cảm cho hoàn cảnh của tôi và anh. Ông mắng: “Tất cả là do sự ngu dốt, ai bảo chị rằng cúm là phải bỏ. Ngần này tuổi rồi, rất có thể là chị không bao giờ có con được thì sao. Kể cả đến tháng thứ ba mà bị cúm người ta vẫn cho uống thuốc được cơ mà”. Ông cho tôi toa thuốc tránh nhiễm trùng hoặc bị dính dạ con.
Ông bác sĩ vô tình trở thành người đầu tiên và duy nhất tôi tin cậy thổ lộ hết những éo le khắc khoải, những hoang mang đau đớn trong tim. Không chỉ giúp tôi hồi phục sức khỏe, ông còn chữa cho tôi cả bệnh tâm lý. Ông vỗ về an ủi tôi như với một người thân. Sau hàng giờ ngồi ở phòng bệnh của ông, trút hết ra những nỗi niềm sâu xa thầm kín, tôi thấy nhẹ nhõm phần nào.
Có lần, không thể kìm chế được cơn nức nở, tôi nói với ông những lời bi phẫn như tỉnh như mê: “Tôi không biết phải làm gì đây, tôi chỉ muốn chết quách đi cho xong thôi. Một đằng phải lo đối phó với chồng, một đằng người tình lồng lộn lên vì ở xa không giúp được gì. Tôi không hiểu tại sao đàn ông lại ích kỷ và tàn ác như vậy? Sao họ chỉ muốn hành hạ tôi? Họ không đưa ra cho tôi được một lối thoát nào, tôi chỉ muốn chết thôi. Hai người đàn ông không người nào chịu nhường người nào, họ cần phải quyết định. Người tình của tôi, giá như anh biết tôi khổ sở thế này, thì anh phải biết hi sinh tình yêu của anh đi, buông tha cho tôi đừng làm khổ tôi nữa. Anh vẫn còn có gia đình, vợ con kề cận. Tôi là cái gì? Còn người chồng, bằng linh cảm, anh thừa biết tôi có ý khác, cũng có thể anh đã nghe thấy một cuộc điện thoại vụng trộm nào đó của tôi và đã biết tôi ngoại tình, sao anh chẳng ra lời? Còn tôi, đến một lúc thuận lợi, nhất định tôi phải nói chuyện với anh. Nhưng khi ấy, liệu tôi có dám nói ra tất cả sự thật không hay chỉ nói một phần. Tôi có đủ sức lực, đủ dũng cảm để chịu đựng mọi lời xỉ vả từ anh không? Tôi có dám đi đến quyết định ly hôn không? Người tình của tôi cứ khẳng định, anh đến với tôi như trời định, anh thề phải được sống với tôi. Khi biết tin mất đứa con đầu, anh đã khóc như một người cha khóc con. Anh muốn tôi nói hết sự thật với chồng.
Nói thì dễ. Nhưng tôi không đủ dũng cảm để thú nhận.
Chồng tôi quá tốt với tôi, anh chẳng có lỗi gì. Làm sao tôi có thể mang đau đớn, phũ phàng đến cho anh ấy? Đàn ông sao ích kỷ thế, người nào cũng muôn sở hữu tôi, muốn giành giật tôi Họ có nghĩ đến nỗi đau của tôi không, họ có thương tôi không, mà sao không tìm cách giải thoát cho tôi? Những cuộc độc thoại như vậy tua đi tua lại trong đầu tôi làm tôi phát điên vì không có câu trả lời? Tôi hận đàn ông. Tôi chỉ muốn biến mất mãi mãi khỏi cái thực tại này”.
Ông bác sĩ khuyên tôi phải bình tĩnh, tỉnh táo. Phải cân nhắc điều nào đúng với tình cảm của mình và điều nào cần cắt bỏ dù phải hy sinh đau đớn. Người đàn ông nào là người thực sự tôi yêu? Tôi hãy nghe theo tiếng gọi của trái tim. Và khi mình đã yêu người này, nghĩa là không thể yêu người kia nữa, vậy tại sao mình phải giả vờ để cố sống với một người mình không còn yêu? Đừng lo lắng nhiều. Chưa cần phải quyết định ngay tức thì. Khi bình tâm lại, tôi buộc phải chọn lựa vì không ai có thể cùng lúc ôm cả hai. Bây giờ, tôi cần bình phục sức khỏe và ổn định tâm lý đã.
Lời khuyên của bác sĩ giúp tôi rất nhiều. Tôi nguôi ngoai dần. Muốn chết để chạy trốn thực tại thì chết lúc nào chả được, chả cần phải xin phép ai để chết cả. Rất may còn có cái chết như là một cái phao để nếu có lâm vào cảnh kịch chân tường, mình sẽ tự giải thoát. Không sợ chết. Đối mặt với cuộc sống lúc đó còn ngàn lần đáng sợ hơn cái chết. Chết lúc nào là do mình.
Bây giờ phải nghĩ cho chín đã. Bao đêm tôi tự dằn vặt mình, sao tôi ngu ngốc thế… Nhưng quả thực, tôi đã chẳng thể nào chống cự nổi tình yêu của anh. Hình như, tôi chỉ dám phỏng đoán, anh đã cố tình muốn có con với tôi, buộc tôi phải đi đến một quyết định, để tôi thuộc về anh hoàn toàn chăng? Có lẽ anh đã rắp tâm làm thế? Có con, anh càng mừng, như vậy là anh đã “tóm” được tôi rồi. Không phải anh lừa gạt tôi, nhưng để anh khẳng định ý muốn chung sống và trách nhiệm lâu dài.
Sau đợt khủng hoảng đó, anh trở lại Việt Nam chỉ vì lo lắng cho sức khỏe của tôi. Chúng tôi đã vô cùng hạnh phúc, mừng mừng tủi tủi gặp lại nhau, để rồi sau một tháng, tôi biết mình lại… có thai. Lo, nhưng tôi cũng rất mừng vì tôi đã dành điều thiêng liêng này cho anh, bố của các con tôi sau này.
Ban đầu, tôi nghĩ có chỗ tôi sẽ chỉ lướt qua thôi, không nói hết, vì tôi còn hơi ngần ngại. Nhưng như thế sẽ đi ngược lại tiêu chí sám hối. Khi đã xác định là sẽ sám hối, tôi phải nói thật, nói hết tội lỗi của mình. Người ta nói: “Một nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng một nửa sự thật thì không gọi là sự thật”. Vì thế, dù tôi có nói đến 99 % sự thật, còn 1 % kia giữ lại cho mình, e rằng cả 99% kia cũng không phải là sự thật! Tôi không muốn những người đang đọc cuốn sách này, nhất là những người trong cuộc, như chồng cũ của tôi chẳng hạn, đến đoạn này của đời tôi bèn cười khẩy: “Bà này xạo”. Dù chỉ một người đọc bảo có một chi tiết xạo, lập tức người ta có quyền nghi ngờ sự chân thực của cả cuốn sách. Tôi cứ nấn ná mãi, vì đây là giai đoạn đấu tranh nội tâm căng thẳng. Lại một lần nữa, tôi bị giằng xé giữa hai người đàn ông, chàng lãng tử chồng tôi và người tình thứ ba.
Giờ đây, hồi tưởng lại quãng thời gian đó, tôi vẫn còn thấy nhức nhối đau đầu, buốt óc. Không có ai trên đời này là pha lê cả. Có lẽ, quanh đây, còn có nhiều cuộc đời trắc trở hơn tôi. Chỉ có điều, người ta giữ kín chôn chặt, chẳng ai biết họ đã ngắc ngoải. vật lộn đấu tranh với tình yêu và tội lỗi ra sao. Đời mình đâu phải là quá đặc biệt so với đời người! Mỗi đời người là một cuốn tiểu thuyết với tất cả những thăng trầm bể khổ, éo le bất hạnh không giống nhau cơ mà. Và chẳng ai dám nói tôi bất hạnh hơn ai hay sung sướng hơn ai?
Khi muốn giữ lại cái thai thứ hai, là con trai Avi bây giờ, nghĩa là tôi phải đối mặt với toàn bộ cuộc đời, với dư luận, chứ không chỉ riêng phải đối mặt với người chồng. Sẽ ra sao nếu chuyện này bung ra ngoài xã hội?
Lần có mang này, tôi biết, mình phải tự chiến đấu với chính mình. Tôi trở nên mạnh mẽ hơn, quyết định phải nói hết sự thật với chồng. Lần lữa mãi cho đến lúc biết là không thể lùi được nữa, tôi hẹn chàng một buổi nói chuyện. Tôi nói: “Em không còn yêu anh nữa và em thực lòng xin lỗi anh về tất cả”. Anh bàng hoàng run rẩy không thể tin những lời tôi vừa nói. Tôi tiếp tục: “Đứa con em đang mang trong mình không phải là con anh”.
Ngưng lặng như ngừng thở…
“Em biết lời xin lỗi này thực là vô nghĩa so với nỗi đau mất mát của anh, nhưng em vẫn phải nói, cho dù anh không bao giờ tha lỗi cho em. Giờ đây, em chấp nhận sự trừng phạt. Hãy chửi rủa, phỉ báng em đi, gì cũng được”.
Cổ họng tôi khô khốc. Tôi như sắp bị treo trên giá treo cổ. Anh lập bập rồi cũng thành tiếng: “Chưa bao giờ anh nghĩ rằng có một ngày em sẽ bỏ anh. Anh tin em tuyệt đối. Thề có bóng đèn, anh sẽ thương đứa con em đang mang như con đẻ của anh. Mình sẽ bán hết hai cái nhà, rồi đi đến một nơi xa, mua một căn nhà nhỏ để sống… Nhưng với một điều kiện, em vĩnh viễn không được gặp lại người đó nữa. Không được điện thoại cho người đó nữa”. Tôi lắc đầu: “Không còn cách nào khác. Để bảo vệ danh dự cho anh, chúng ta phải ly dị. Anh hãy viết đơn bỏ em đi!”.
Chàng dứt khoát không chịu viết đơn.
Tôi ở trong tình trạng bị xé đôi sang hai phía, bên này giằng đi, bên kia giật lại. Chàng chẳng có tội tình gì. Giá như, chàng chửi rủa phũ phàng. Chàng đánh đập tôi cho hả cơn giận, cho hả cơn đau. Không. Chàng chỉ run rẩy khi nghe lời thú tội phát ra từ chính miệng vợ mình. Tuy đã linh cảm thấy điều gì đó, nhưng chàng vẫn không muốn tin. Vẫn ra sức níu kéo… Nhưng lòng tôi đã quyết. Không bao giờ có chuyện ấy!
Tôi từ chối lời đề nghị của chàng ngay lúc đó.
Cuộc đối thoại đầu tiên ngừng lại. Chàng bỏ nhà đi đâu không rõ. Bụng tôi lớn dần lên. Với thiên hạ, chưa có gì đáng ngại, bởi tôi đang có chồng. Mãi đến khi tôi gần sinh, chàng bất ngờ trở về. Và một lần, chàng đã khiến tôi vô cùng cảm động.
Do quá căng thẳng và cô đơn, tôi thường đi bộ ra ngồi nghỉ ở ghế đá vườn hoa. Cảm giác cô liêu buồn bã ào tới. Sao mình bất hạnh thế! Những lúc thế này, nếu người ta có chồng bên cạnh, chắc hẳn người chồng sẽ yêu người vợ lắm. Mặc dù hình thù người vợ thay đổi rất nhiều bởi cái mầm sống của họ đang lớn dần lên, nhưng người ta sẽ vô cùng hạnh phúc. Nếu mình có chồng ở đây, người đó sẽ đưa mình đi dạo, dưa mình đi tập, chứ không bao giờ để mình ngồi một mình như thế này. Ngồi đó, nhìn dòng đời, dòng người tấp nập ngược xuôi cười cười nói nói, càng thấy cô quạnh làm sao! Một người đàn bà cô đơn trong chiếc váy bầu rộng thùng thình. Đông người thế kia mà sao tôi chẳng thể chia xẻ với ai được, ngay cả với những người thân, người ruột thịt, về cái sự thật mà tôi đang mang trong lòng. Sẽ không ai hiểu được và không ai chấp nhận được sự thật này.
Đang miên man như thế: chàng lãng tử của tôi xuất hiện như từ trên trời rơi xuống. Chàng vô tình đi đâu đó qua đây, chợt nhìn thấy tôi, hay là chàng đi tìm tôi? Tôi không biết. Chỉ nhớ như in lời chàng nói: “Nhìn em, anh thương em quá! Nào, để anh đưa em về”". Tôi lên xe của chàng, lòng tràn ngập niềm biết ơn. Có lẽ, chàng là người duy nhất hiểu thấu được nỗi cô đơn hoang hoải của tôi lúc này.
Gần đến ngày sinh, bụng tôi to lắm. Lặc lè bảy mươi cân, nom tôi xù ra như một con voi xấu xí. Da gần như là muốn nứt vỡ, mặt mũi sưng phồng. Không ai nhận ra tôi nữa.
Abraham tính đến ngày tôi sắp sinh thì bay về Việt Nam. Anh muốn là người đưa tôi đến bệnh viện sinh con.
Những ngày sắp sinh, chúng tôi hay đi cùng nhau. Có ngày anh đưa tôi đi bác sĩ ba lần. Hôm đó, tôi như bị biến chứng, huyết áp tăng vùn vụt. Bác sĩ bảo: “Nghe nói ở bệnh viện Việt Pháp có dịch vụ sinh con rất tốt, chị phải đến đó ngay để người ta xử lý, nếu còn muốn sống nhìn thấy mặt trời”. Ông bác sĩ nghĩ mình hoàn toàn có khả năng tài chính để đến bệnh viện Việt-Pháp, chứ đâu có biết rằng mình còn có khúc mắc gì đây. Thành thực mà nói, tôi rất sợ. Không bao giờ dám nghĩ sẽ xuất hiện ở bệnh viện Việt Pháp. Mọi người nghĩ thế nào, rồi ở nhà sẽ tung tóe ra, ai sẽ đưa minh đi viện Việt Pháp đây khi mọi thứ còn chưa chính thức. Người ta sẽ nghĩ, làm sao một mình tôi có thể vào được Việt-Pháp?
Tôi bảo anh đưa tôi về, chuẩn bị chút hành lý rồi sáng mai vào bệnh viện Việt Nam. Ít nhất nó sẽ không xáo trộn lên. Anh bảo: “Tùy em, đâu cũng được, nhưng như bác sĩ đã nói, em phải quay lại bệnh viện ngay hôm nay, Tôi không chịu. Vẫn ngoan cố lắm. Nhưng đến chiều, bỗng thấy lo lắng không yên. Không hiểu có gì bất thường mà mặt cứ phù lên. Cuối cùng, khoảng năm, sáu giờ chiều, tôi quyết định: Thôi thì bệnh viện Việt Nam cũng được. Và anh đưa tôi đến bệnh viện C. Bác sĩ khám xong bảo: “Cho bệnh nhân thay quần áo làm thủ tục nhập viện”.
Cứ ngỡ nhập viện bình thường thôi, ai ngờ, tôi vừa ngồi lên xe đẩy kiền bị đẩy vào thang máy, cách ly luôn. Lúc bấy giờ, anh mới làm thủ tục bên ngoài. Rất may là bác sĩ nói được tiếng Anh và hướng dẫn anh khai tên tuổi địa chỉ. Ở bệnh viện, ai cũng nghĩ chúng tôi là hai vợ chồng đưa nhau đi đẻ. Họ không nghĩ đến một trắc trở gì. Anh ghi tên mình vào mục người chồng như bất cứ người chồng nào đưa vợ đi đẻ phải làm. Sau đó, anh không biết làm thế nào để gặp được tôi, hoặc chí ít là biết được thông tin về tôi. Bồn chồn lo lắng. Mãi đến 10 giờ đêm, anh mới lần ra số phôn của người phiên dịch cũ, gọi điện cho anh ta. Hai người tìm được đến nhà Khanh.
Lúc này, anh buộc phải nói với Khanh tất cả sự thật về đứa bé tôi sắp sinh. Lúc ấy, không thể nói dối được nữa, vì muốn nhờ cô ấy giúp. Trong nhà, chẳng ai biết tôi đi đâu.
Không thể nào liên lạc với mọi người ở nhà vì ngại, anh chẳng biết cầu cứu ai, ngoài cô em gái. Chỉ cô ấy mới có thể giúp được. Một tiếng Việt bẻ đôi anh không biết, người ta không cho vào làm anh vô cùng hoang mang, chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra với tôi. Trong khi đó, tôi “bị trói” luôn trên bàn, đo huyết áp liên tục. Tăng huyết áp như vậy có thể dẫn đến ngộ độc thai nghén. Bác sĩ theo dõi sát sao suốt từ chiều đến đêm mà vẫn bất ổn. Họ cố chờ xem tôi có thay đổi hay ổn định lại huyết áp không. Nằm trên bàn đẻ, tôi cứ lo cho anh, không biết một mình anh ở ngoài xoay sở ra làm sao. Chắc anh cũng rối bời vì không nhận được tin tức gì của tôi Đang lo lắng thì nhìn thấy anh và Khanh đến, mừng ơi là mừng. May sao, Khanh lại quen với một cô y tá, xin cho anh lên được phòng cách ly. Khanh bảo: “Chị đừng lo, em đã nhờ cậy các bác sĩ ở đây hết rồi”. Tôi đọc thấy sự ngạc nhiên trong mắt Khanh. nhưng vào tình huống này, cô ấy chỉ biết làm tất cả những gì có thể để bày tỏ tình cảm ruột thịt.
Không phải lúc nào Khanh cũng rảnh rỗi để chầu chực ở bệnh viện, chỉ có anh là người thân duy nhất lo lắng cho tôi lúc này. Để giúp anh vào gặp tôi dễ hơn, tôi viết cho anh một mẩu giấy, dặn anh khỏi phải nói, cứ đưa mẩu giấy này cho bất kỳ ai là y tá bác sĩ, hi vọng thấy anh là người nước ngoài, họ sẽ nể mà cho anh vào. Nội dung của mẩu giấy là: “Chị làm ơn cho tôi lên thăm người nhà ở nhà đẻ”. Hết giờ, anh và Khanh phải đi về. Còn lại mình tôi trong phòng cách ly. Anh ra ngoài, cử quanh quẩn mãi ở sân bệnh viện rồi mới về khách sạn chờ đợi. Mọi tin tức bây giờ là phải thông qua Khanh.
Quãng mười giờ đêm, mạch của tôi vẫn trong tình trạng bất ổn. Tôi không cần được theo dõi nữa mà về phòng chờ các bác sĩ hội chẩn xem tôi có phải mổ hay không? Ở trong phòng, có mấy sản phụ cũng đang chờ đợi quyết định của bác sĩ. Đêm đã khuya, họ khóa cửa, tắt bớt đèn. Tôi không làm sao ngủ được. Bệnh viện có một hành lang dẫn đến các phòng nhưng hành lang này bị khóa chặt không cho người nhà vào. Bệnh nhân và bác sĩ nếu cần thiết thì đi thang máy. Tôi bồn chồn đi đi lại lại ở ngoài hành lang ấy. Bỗng nhiên, vang lên một giọng đàn ông lo lắng hớt hải: “Em ơi, em ơi” tít phía đầu hành lang bị khóa. Tôi ngạc nhiên vô cùng, không biết ai gọi mình vào cái giờ này! Tôi lê về phía cuối hành lang. Chàng lãng tử! Chồng tôi đang đứng ngoài song cửa sắt. Anh sốt sắng hỏi han: “Anh đi chơi về, nghe Khanh báo ở nhà là em phải đi cấp cứu bệnh viện rồi. Thế em có làm sao không?” Trong lúc chàng thảng thốt lên như vậy, tôi cũng kịp trấn tĩnh để nhận ra chàng là ai? Tại sao chàng lại ở đây? Oái oăm thay, chồng tôi đấy, người đang thắt ruột lo lắng cho tôi nhưng lại không phải là bố đứa con sắp chào đời của tôi? Bình tĩnh lại, tôi bảo chàng: “Có lẽ là em phải mổ, họ đang hội chẩn xem em có phải mổ đêm nay không. Giờ anh cứ về đi”. Dường như đã yên tâm phần nào vì thấy tôi vẫn bình an, chàng ra về.
Khoảng mười hai rưỡi đêm, bác sĩ chính vào. Ông hỏi tôi có sẵn sàng để mổ không, có lẽ các nghệ sĩ thường ngại mổ vì sợ xấu. Huyết áp của tôi không ổn định, nếu chờ đợi, với tuổi này, rất có nguy cơ nhiễm độc thai nghén, sợ không can thiệp kịp. Theo ý hội đồng bác sĩ thì nên mổ. Tôi quyết định ngay: “Đối với tôi bây giờ, không có gì quí bằng sự an toàn của cả hai mẹ con, tất cả là đặt sự tin cậy vào các bác sĩ, các bác sĩ thấy nên thế nào thì làm như thế. Không sợ xấu đẹp gì cả”. Bác sĩ bảo thế thì mổ nhé. Một lát sau, bỗng thấy đau dồn rồi nước ối bục ra, tôi gọi y tá. Họ cho tôi ngồi vào xe, đẩy vào thang máy, thẳng đến phòng mổ trên tầng ba.
Vào phòng mổ, một nỗi sợ bỗng nhiên dâng lên. Tôi vốn sợ bác sĩ, đến tiêm tôi cũng chẳng bao giờ dám nhìn, cứ phải nhắm tịt mắt lại. Bây giờ phải mổ, mà lại có một mình, không người thân bên cạnh. Chỉ những bóng người trắng toát xung quanh trong đêm im phăng phắc. Tôi nghe rõ cả tiếng bước chân của các bác sĩ. Không khí căng thẳng. Tôi chẳng có người nào để bấu víu. Sợ lắm, nhưng nào dám ho he gì. Nằm trên bàn mổ, nghe tiếng họ loay hoay chuẩn bị dao kéo lanh canh phía dưới, rồi thấy họ căng một tấm vải trắng to như màn ảnh chiếu phim ngang người. Tôi nghĩ, chắc họ ngăn vậy vì không muốn mình nhìn. Cũng không dám hỏi. Thế rồi, từ phía đầu tôi, tiếng một người đàn ông dịu dàng vang lên: “Hôm nay, bọn anh quyết định cho em đẻ “kiểu Pháp”. Tức là gây tê tủy sống, chứ không phải bằng thuốc mê. Bây giờ em ngồi dậy”. Ông bác sĩ. người từng tu nghiệp ở Pháp về, là một bác sĩ gây tê giỏi. Gây tê thì đỡ mệt cho bệnh nhân hơn là gây mê. Nhưng gây tê tủy sống rất nguy hiểm, chỉ cần chệch một li là có khi người bệnh liệt luôn.
Tôi ngồi dậy, họ cởi cái nút buộc ở lưng áo sản phụ ra, gây tê cho tôi, sau đó bảo tôi nằm xuống. Tôi nằm xuổng và nghĩ, bây giờ họ sẽ chờ cho mình mê man không biết gì rồi mổ đây. Nằm mãi, chẳng có cảm giác tê gì cả. Họ lại bảo: “Thế nhé, cứ nằm yên, không phải lo lắng gì cả, mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi”. Tôi nghe vậy thì nằm yên chờ đợi cái cảm giác mê man để thiếp ngủ. Chưa thấy mê man gì, chỉ cảm giác có một lưỡi dao sắc lạnh đưa ngang bụng. Tôi rú lên: “Ối các anh ơi, đừng mổ bây giờ, đợi cho em mê đã, em sợ lắm. Các anh đừng mổ vội”. Mặc cho tôi rú lên, ông bác sĩ nói tỉnh queo: “Không, đã ai làm gì đâu”. Lạ thật, rõ ràng có lưỡi dao đặt vào bụng. Lại giọng bác sĩ thao thao hỏi chuyện: “Thế em đã đóng những phim gì rồi nhỉ? Đã ai làm gì đâu. Bao giờ mổ thì phải bảo em chứ.” Tôi tin sái cổ, cứ thao thao bất tuyệt trò chuyện với người bác sĩ gây tê. “Thế à, em cứ tưởng các anh phải cho em mê chứ nhỉ. Sao mãi chưa thấy mê gì cả”.
Hóa ra, gây tê tủy sống để mổ đẻ tức là nửa người trên hoàn toàn tỉnh táo, nửa người dưới liệt hoàn toàn, người ta mổ xẻ gì cũng chẳng có cảm giác. Thế là bên trên cứ say sưa trò chuyện “Thế phim Đêm hội Long Trì là phim cuối à, còn phim Chị Dậu em đóng hồi bao nhiêu tuổi nhỉ?”; còn bên dưới thì họ vẫn đang mổ xẻ. Chuyện chuyện trò trò khoảng hai chục phút, nghe mơ hồ như người ta lạch xạch cái gì phía dưới. Bỗng một giọng bác sĩ khác hân hoan nói: “Nào, bây giờ có muốn xem không”. Tôi kêu lên: “Không, em sợ lắm. Em sợ đau lắm”. Tôi cứ đinh ninh bác sĩ dọa tôi có muốn xem ông ấy mổ không. Ai ngờ, họ đã mổ xong rồi và hỏi có muốn xem mặt con không. Hóa ra, trong khi tôi còn mải mê chuyện trò, các bác sĩ đã lấy con ra và khâu lại xong rồi. Tất cả chỉ mất hai mươi phút. Hay thật. Trút cả cái bụng như thế đi rồi mà chẳng có tí cảm giác gì. Sau này, tôi cứ ân hận mãi vì không hiểu ý bác sĩ. Thế rồi, họ đeo cho tôi một sợi chỉ có miếng sắt đánh số của em bé. Lúc đó họ mới bảo: xong rồi nhé. Tôi ngơ ngác hỏi: thật hả anh? Và cứ ân hận mãi là không được xem mặt con lúc nó vừa ra đời.
Sau cuộc phẫu thuật, tôi kiệt sức, lả đi vì đói, ngủ lịm đi Không biết họ đưa mình về thế nào, chuyển giường ra làm sao. Khoảng ba giờ sáng, tỉnh dậy vì thấy mình mẩy đau ê ẩm. Có lẽ thuốc tê đã hết. Tỉnh dậy vì vết mổ rất đau, nó cắn rút rất khó chịu, không thể ngủ tiếp được. Xung quanh tối đen, chỉ có ánh đèn bên phòng trực. Tôi gọi bác sĩ xin thuốc ngủ. Tôi nuốt mấy viên Seduxen cùng bao nhiêu là cảm xúc vui sướng, lo toan, bề bộn tràn về. Cứ thế trằn trọc tới sáng…
Sáu giờ sáng, bệnh viện mở cửa cho phép người nhà vào thăm sản phụ. Cô Khanh và anh đã chầu chực sẵn ở bệnh viện từ bao giờ. Khi tôi mở mắt ra, nhìn thấy anh, thấy đúng người của mình rồi. Mừng quá. Mừng không thể tả xiết. Cứ như thể sẽ không được gặp nữa mà nay được gặp lại. Anh nhìn tôi đầy thương xót. Anh bảo tôi không cần phải lo lắng gì nhiều, mọi thứ đã có Khanh thu xếp. Tôi tỉnh lại là yên tâm rồi. Tôi đưa anh xem miếng sắt có số của con trai, bảo anh nhớ lấy số 940, rồi xin họ cho đi gặp thăm con. Tuy chưa đến giờ thăm, Khanh vẫn xin được cho anh đi gặp con. Anh là người được nhìn thấy con trai Avi trước tôi.
Con trai chúng tôi đặc biệt giống bố ở mái tóc dày đen kịt. Mũi nó khoằm không lẫn đi đâu được. Cu cậu phải nằm cách li mẹ vì mẹ mổ nên chưa có sữa cho con bú. Họ phải cho con bú bằng bình sữa bột. Xem mặt con xong, anh ra về, hẹn đến giờ thăm con buổi trưa sẽ quay lại. Tôi thở phào.
Cám ơn các bác sĩ. Cám ơn Trời Phật. Anh đã được xem mặt con trai của chúng tôi rồi. Mẹ tròn con vuông.
Khoảng tám giờ, một cô hộ lý uỳnh uỳnh đẩy băng ca đến hỏi: “Ai tên Vân? Tôi sẽ đưa chị về khu điều trị sau mổ. Tôi là người trông nom khu ấy”. Tôi ngạc nhiên: “Làm sao mà tôi chuyển từ giường sang băng ca được, phải có người khiêng tôi chứ nhỉ”! Rất lạnh lùng, cô ta bảo: “Làm sao mà tôi khiêng được chị. Chỉ có tôi với chị thôi”. Tôi nhìn cái băng ca, một cỗ máy phát ra tiếng ồn ã chói tai, thấy nó cao hơn hẳn cái giường tôi nằm đến hai mươi phân. Tôi không thể hình dung mình có thể lăn sang cái “cỗ máy” ấy được khi mà đôi chân tôi vẫn chưa thể nhúc nhích, chưa có cảm giác.
Nó nặng tựa cái cối đá. Cô hộ sinh thản nhiên: “Vết mổ không bục ra đâu mà lo!”. Cô ta nói như một cái máy vô cảm, không chút thông cảm, an ủi hay chia sẻ. “Nào, cứ theo hướng dẫn của tôi. Đầu tiên, gác chân lên đây, tôi sẽ xốc chị, rồi chị đu người lên nhé”. Tôi gắng sức làm theo lời chỉ dẫn của cô ta vì chẳng có cách nào khác. Vật vã đau đớn một hồi, tôi thấy mình cũng nằm gọn trong cái băng ca thật!
Sau khi gồng người lên được cái băng ca, tôi lại được đẩy đi long sòng sọc dọc hành lang, cảm thấy đau buốt nơi vết mổ. Thấy tôi nhăn nhó, cô ta giãi bày: “Chị thông cảm, công việc thì nhiều mà người thì ít. Khổ lắm chị ạ”. Tôi được chuyển về căn phòng chưa đến hai chục mét vuông mà kê đến gần chục cái giường. Họ bảo, vì tôi mổ đẻ nên may mắn được nằm một mình một giường cá nhân. Những người đẻ thường bị ghép đôi hết. Giường kê sít sịt vào nhau. Đúng là tôi may mắn thật. Buổi chiều, bác Dần vào thăm rồi ở lại chăm sóc tôi. Tôi bèn ghép bác Dần vào giường của mình.
Chỉ sau một ngày, mọi việc loang ra khi chồng tôi vào thăm và thản nhiên bảo: “Tôi là chồng Lê Vân”. Các bác sĩ y tá ở đó cứ ngớ ra không hiểu có chuyện nhầm lẫn nào không. Ban đêm đưa đi đẻ là một ông Tây không biết nói tiếng Việt nhận là chồng, sáng ra là một ông lai Tây lạ hoắc vào cũng nhận là chồng! Kể cả các sản phụ nằm cùng cũng ngạc nhiên. Họ thấy rõ là tôi cư xử với hai người đàn ông khác hẳn nhau. Chồng tôi, chàng xông đến để chứng tỏ một điều: ta mới thực là chồng nàng đây! Tôi cố ngậm bồ hòn làm ngọt. Chàng lãng tử còn ngồi ngay cạnh giường sản phụ của tôi mà rằng: “Anh đề nghị với em một việc, em phải cố gắng giữ thể diện cho anh, em không được để cho ông kia ngang nhiên vào đây như thế”. Và chàng cứ ngồi đấy, rối bời, chẳng nói năng được gì. Tôi cũng rổi bời, nhưng cũng không thể cấm chàng vào thăm. Thái độ của chàng rất ngang tàng. Tôi biết, chàng muốn hành mình đây. Đến nước này thì tôi như hóa đá. Đằng nào người ta cũng biết. Tôi có hai người đàn ông đến thăm, cả hai đều nhận là chồng, vậy thì đứa bé là con ai?
Suốt ba ngày sau khi sinh con, tôi vẫn cứ có hai người đàn ông thay phiên nhau đến thăm nom. Cũng may, bố Avi nhanh trí nghĩ ra mua cho tôi một cái điện thoại di động để tôi có thể gọi điện cho anh bất cứ lúc nào tôi muốn. Và cũng để tôi báo cho anh biết lúc nào tiện để vào thăm tôi, lúc nào nên tránh. Có điện thoại thật là tiện lợi.
Một ngày rưỡi sau, tôi mới được bế thằng bé lên cho con bú để kích thích tia sữa. Nhân lúc chàng lãng tử của tôi không ở đó, anh vào và chụp ảnh khoảnh khắc hai mẹ con tôi gặp nhau lần đầu tuyệt diệu ấy.
Bác sĩ dặn, chừng nào ruột chưa thông thì chưa được ăn. Nhìn thấy giường bên cạnh ăn mà tôi thèm quá. Nhớ lại tối hôm qua, tôi tình cờ nghe được câu chuyện giữa một phụ sản và ông bác sĩ. Cô ấy được người nhà gửi gắm một người quan trọng trong bệnh viện. Ông ta đến thăm cô, dặn dò cô rất nhiều. Tôi tranh thủ lắng nghe để học lỏm. Ông bác sĩ bảo: “Cháu đừng lo, không bao giờ vết mổ bị bục cả. Cháu phải cố gắng vận động càng sớm càng tốt, đừng ngại đau.
Phải tập ngồi dậy, đứng dậy, lần giường tập đi thì mới mau bình phục, mau được ra viện. Nhiều người nhát, sợ đau, càng phải nằm viện lâu”. Nghĩ bụng, mình phải cố gắng thôi. Nhờ bác Dần nâng lên để ngồi dậy nhưng bác chỉ làm mình đau đớn hơn, thế là tôi cố gắng tự ngồi dậy. Lết, thở phì phò, thế nào mà cũng ngồi dậy được. Vì nghe lỏm được lời dặn của bác sĩ nên không sợ ảnh hưởng vết mổ. Dựng được người dậy một lúc, y như rằng, cái hơi trong người mình ra hết, ruột tự động sắp sếp lại “đội hình” của nó.
Thông ruột rồi! Cảm giác nhẹ nhõm hẳn, tôi reo lên: “Cho tôi ăn đi nào, tôi đói lắm rồi. Mấy ngày chưa được ăn”. Cô bên cạnh thấy mình kêu đói, mà bác Dần chưa đem cơm vào, cô ấy sẻ cho tôi ít cơm của cô, bảo: “Nhà em mang vào nhiều quá, em chẳng ăn hết đâu, chị đói quá thì lấy mà ăn tạm một chút”. Tôi vồ lấy. Cám ơn cô. Cơm canh bà đẻ rất đơn giản mà sao ngon thế?
Ngày chia tay anh thật là bịn rịn, hoảng hốt. Anh đi, để lại cho tôi cả một mớ bòng bong rối bời. Không biết sẽ phải lặn ngụp ra sao trong cái mớ tơ vò này, biết đường nào ra. Mọi thứ mới kinh khủng làm sao! Rồi cái gì đến cũng phải đến? Anh phải ra đi, không có cách nào khác. Con trai tôi, sau khi được đưa về cho mẹ cho bú một tí, buổi chiều hộ lý lại đưa cháu về phòng cách ly. Chỉ còn lại mình tôi. Anh, chỗ dựa tinh thần vững chắc của tôi, lúc này đã ra đi. Con trai, sợi dây nối tôi với anh, cũng bị cô y tá mang đi nốt.
Sao mà cô đơn, trống trải thế! Cứ cảm thấy như mình bị bỏ rơi. Hẫng hụt. Sợ hãi. Lo âu. Tôi không biết phải làm gì bèn cố gắng lê lết ra hành lang sau của khu nhà, gọi điện cho anh. Anh đang trên đường ra sân bay. Nghe giọng anh, tôi òa lên tức tưởi: “Sao mọi người bỏ em đi hết thế này" Con người ta vừa mang đi, anh cũng đi mất rồi, em không biết làm sao đây?”
Làm sao đây? Tôi chỉ biết cay đắng khóc một mình.
Tám ngày sau, tôi được ra viện. Cũng chẳng cần ai đón. Tôi bồng con xuống cổng bệnh viện, gọi taxi vào tận nơi. Bác Dần tay xách nách mang, đón tay thằng bé. Ba mẹ con bác cháu ra về.
Suốt thời gian đầu tôi nuôi con một mình, chồng tôi tránh mặt bỏ đi đâu không rõ. Có lẽ, chàng sợ ở lại Hà Nội, người ta đàm tiếu hoặc là chàng sợ giáp mặt với sự thật: tôi đòi li hôn. Thế là tôi một mình thui thủi nuôi con.
Lúc đó, tôi với mẹ vẫn đang trong cơn giận hờn vô cùng căng thẳng. Bà không hề bước chân vào bệnh viện hỏi thăm con gái và cháu ngoại. Thường thì trong cơn hoạn nạn, người ta sẽ dễ dàng xóa bỏ những cái khó vượt qua để đến với nhau. Nhưng không hiểu sao, nhất định bà vẫn cứng lòng không nhìn mặt cháu. Thời gian đó, mẹ đang ở Thụy Khuê với tôi. Phòng bà ngay cạnh phòng hai mẹ con, chung nhau phòng tắm, vậy mà sao như xa cách nghìn trùng!
Căn phòng của hai mẹ con tôi không nhiều ánh sáng, có lẽ vì nuôi người đẻ nên phòng lúc nào cũng tôi tối. Hai mẹ con ngồi ôm nhau, nhìn đêm xuống trong bao nhiêu là lo âu, không biết phải làm gì. Hơn lúc nào hết, tôi hiểu giá trị quí báu của bác Dần. Chị gắn bó với tôi hơn cả người ruột thịt.
Mọi thứ tôi đều trông cậy vào bác ấy. Bác Dần cũng chưa chăm sóc bà đẻ bao giờ, cả hai chị em đều không có kinh nghiệm gì. Cứ theo cảm giác, nghe người ta bảo nên thế này nên thế kia rồi làm theo. Thấy bảo thịt thăn tốt cho người đẻ thì cứ mua ngày nửa cân rim lên ăn hai bữa với canh rau ngót. Rồi lại thấy Khanh và Vi bảo hai cô phải ăn cháo chân giò cho có nhiều sữa, ngấy đến nỗi bây giờ nghĩ đến cháo vẫn thấy sợ. Cũng may, tôi bốn mươi tuổi mới sinh mà con bú không hết sữa.
Người ta vẫn nói, trông dáng dấp tôi trước sau như một, dân múa làm gì có ngực, thế mà sinh con xong, không biết làm sao mà sữa về trông to như hai cái bình tích. Tôi nuôi Avi rất nhàn. Bé toàn bú sữa mẹ và không bao giờ khóc quấy đêm. Hàng xóm chẳng ai biết trong nhà có trẻ con mới sinh. Bạn bè đến thăm, cho sữa thì toàn tôi uống. Vì cứ nghĩ dù sao, khi chất sữa ấy lọc qua người mình, có thêm chất đề kháng tốt hơn cho con và cũng an toàn hơn nữa. Tôi luôn có ý thức như thế. Tuy thực đơn cơm bà đẻ rất đơn giản, nhưng cứ nghĩ phải ăn cả cho con nữa, nên dù chán vẫn cứ ăn băng băng. Tuy sinh con chỉ có hai cân sáu, nhưng thằng bé trộm vía cứ tăng cân vù vù đến bác sĩ cũng phải ngạc nhiên. Bé tăng cân ở mức lý tưởng. Cái đồ thị tăng cân của bé là một đường thẳng dốc.
Cám ơn cuộc đời, Trời Phật thương con tôi, bù lại cho hoàn cảnh éo le của bố mẹ. Và cũng cảm ơn Trời Phật đã gửi đến cho tôi một người bạn, người chị như bác Dần. Nhiều lúc tôi thảng thốt tự hỏi, đời tôi sẽ ra sao nếu thiếu người đàn bà này!
Sau này, trong một lần trò chuyện về chuyến vượt cạn, Abraham loáng thoáng kể, hồi ấy, chàng lãng tử của tôi và anh cũng đã có một cuộc chạm trán ngay cổng bệnh viện.
Họ nói những gì với nhau, anh không kể chi tiết. Nhưng anh đã nhấn mạnh cho chàng hiểu một điều: “Hãy hỏi Vân xem cô ấy yêu ai?”. Nói lại với tôi câu ấy, mắt anh sáng rực lên, nhìn tôi đầy tự tin và trìu mến làm sao!
***
Khi con trai tôi được khoảng mười tháng tuổi, tôi và chồng tôi mới quyết định ra tòa ly hôn, một quyết định không dễ dàng.
Một lần, đưa con đến khám vị bác sĩ nay đã trở thành chỗ thân thiết, ông khuyên tôi, nếu lúc này tôi quyết định sai lần, nó sẽ kéo theo một loạt hậu quả về sau. Nghĩa là, tôi phải chọn người bố đứa bé. Nếu tôi quyết định không liên hệ gì với người bố của cháu, vẫn sống với chồng tôi, người không phải bố cháu, sẽ cực kỳ sai lầm cho tương lai. Phải quyết định ngay, không thể sống thế này được, đau thần kinh lắm.
Nhân một lần chồng tôi đảo qua nhà, tôi mời anh vào để nói chuyện ly hôn. Anh vẫn níu kéo, nhắc lại điều kiện cũ: “Nếu em hứa sẽ không bao giờ gặp và liên lạc với người đó nữa, anh sẽ coi đứa bé như con anh. Chúng mình sẽ đi khỏi đây, càng xa càng tốt”Bản “giao kèo” của chàng như tiếng chuông làm thức tỉnh đầu óc u mê rối bời nơi tôi. Thật may, như được Trời Phật phù hộ độ trì, tôi mở mắt bừng thoát khỏi cơn quẫn trí. Một cơn quẫn trí mang màu sắc lãng mạn: “Chúng mình yêu nhau và có với nhau một đứa con, như là một kỷ niệm chẳng thể nào quên được. Giờ anh hãy quay về với bổn phận làm chồng làm cha của anh đi, thỉnh thoảng chúng mình gặp nhau, thế cũng là đủ cho em rồi. Hãy tạm bằng lòng với số phận vậy…”
Không còn nghi ngờ gì nữa, nếu quyết định sống với chồng, tôi sẽ kéo theo hàng loạt sai lầm lớn trong suốt quãng đời còn lại Trước tiên, tôi sẽ là người có tội với con tôi.
Cuộc đời tôi và con sẽ trở nên lệch lạc, méo mó. Chúng tôi sẽ suốt đời phải sống dưới sự ban ơn rộng lượng của chàng. Ai mà biết được, lúc nào đó quẫn trí lên, chàng lại không moi móc chuyện xưa, làm khổ đứa bé.
“Không, mẹ không thể nào hành động như vậy được con ơi! Con không có tội. Tội là do mẹ, mẹ phải chịu. Con có cha, con phải được gọi cha. Con sinh ra bởi tình yêu của cha mẹ, con có quyền được hưởng tình yêu của cả cha lẫn mẹ”
Như gạt bỏ được đám mây đen bao phủ bấy lâu, tôi quyết định: Phải dũng cảm lên Vân ơi. Dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật. Dũng cảm chấp nhận sự trừng phạt của lương tâm, của dư luận người đời. Vân đã yêu thì Vân phải biết chấp nhận.
Đến giờ, tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của mình, một bà mẹ hiếm muộn cô đơn nuôi con trong lúc không chính thức, lòng tràn ngập mâu thuẫn. Vừa xót xa thương cảm cho chồng (giá anh phũ phàng thì mọi chuyện lại dễ dàng), vừa hoang mang bối rối giằn vặt mình, lại vừa thấy tội nghiệp đứa con bé bỏng vô tội. Thêm vào đó là nỗi nhớ thương khắc khoải người đàn ông đã cho mình đứa con của đam mê. Ru rú trong căn buồng nhỏ dành cho bà đẻ, ôm con trai trong ánh sáng lờ mờ, tôi phát điên đầu lên vì bế tắc. Lắm lúc tặc lưỡi, kệ thây đời. Nghĩ mãi chẳng biết đi lối nào.
Cuối cùng, tôi ngộ ra, con đường sáng duy nhất là hành động vì quyền lợi của đứa bé vô tội. Gạt những thứ như tình yêu, tình nghĩa, danh dự, lòng sĩ diện… của đám người lớn tăm tối hão huyền chúng tôi sang một bên. Không thể vì muốn che dấu một lỗi lầm này mà phải bắt đầu một lỗi lầm khác. Cứ luẩn quẩn loanh quanh, tôi sẽ phải sống cả đời trong dối trá thì thật kinh khủng. Vâng, tôi đã sẵn sàng chấp nhận. Tôi đủ sức để chịu đựng tất cả sự trừng phạt.
Nhìn con trai bé bỏng ngây thơ ngủ ngon lành vô tội thế, tại sao tôi lại có thể đẩy bé đến một tương lai sai lầm! Tại sao bố đẻ không được gặp con? Tại sao lại bắt bé phải nhận một người dưng làm bố? Bé phải được hưởng tình yêu chính đáng của bố đẻ. Lẽ đời đơn giản thế, sao tôi cứ tự đẩy mình vào cơn khủng hoảng u mê loạn trí này!
Tuy thế, chàng nhất định không chịu viết đơn. Hay có lẽ, chàng cũng chẳng có khả năng viết một lá đơn cho đủ ý, gãy gọn, đàng hoàng. Chàng buông một câu dằn dỗi: “Anh không viết, nếu em muốn li hôn thì em đi mà viết”. Tôi đành cầm bút thảo lá đơn li hôn với chàng. Một lá đơn đẫm nước mắt.
Cầm bút, tôi ngẫm nghĩ, viết thế nào đây? Có hai cách: Một là, thôi thì sự việc đã vậy, chẳng cần vạch áo cho người xem lưng, sẽ viết như tất cả mọi người vẫn viết với lý do chúng tôi không hợp nhau, không yêu nhau nữa nên cùng nhau đi đến quyết định chia tay. Đó là cách đỡ bêu riếu nhau nhất. Nhưng tôi lại nghĩ viết như thế, nhỡ lúc ở tòa, chàng lại cười khẩy rằng cô ta nói dối, cô ta lừa cả tòa đấy, cô ta đi ngoại tình rồi về đòi bỏ tôi, chứ không phải vì hòa hợp hay không hòa hợp gì cả. Cho nên tôi chọn cách thứ hai là nói hết sự thật. Không có gì thuyết phục hơn sự chân thành. Thường thường, người ta hay đồng cảm với thân phận người phụ nữ cho dù họ có lỡ lầm. Tôi đoán vậy. Cho nên, mình phải viết một cách chân thành nhất. Có thế nào nói đúng như thế.
Không sợ bị đánh giá, chắc người ta sẽ thương cảm, giải quyết cho ly hôn, chứ không cố gắng hòa giải, hàn gắn. Tôi thảo lá đơn ấy trong nước mắt bởi tôi viết nó bằng tất cả sự chân thành từ trái tim.
Vào lúc thuận tiện, tôi đưa anh đọc lá đơn để ký. Chàng buột miệng: “Sao em đại thế. Nói thế nào chả được. Sao em lại đi nói thật hết thế này?”
May làm sao, chàng vẫn “ngoan ngoãn” cùng tôi ra tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Bản chất của chàng là người tốt, hiền lành, không thủ đoạn. Có lẽ chàng cũng nghĩ ngợi, đau khổ đến đờ đẫn đi rồi. Khi biết chẳng còn đường nao lùi nữa, bị đặt vào tình huống dở khóc dở cười như thế, chàng đành phải ký vào đơn ly hôn.
Hôm chia tay, hai chúng tôi đến tòa từ hai ngả khác nhau, như hai kẻ xa lạ. Lặng lẽ, chúng tôi ngồi đối diện với vị thẩm phán, nghe họ đọc lá đơn. Tôi vô cùng hồi hộp và lo lắng. Bỗng tiếng người thẩm phán cất lên:
“Anh có nhất trí với những điều chị Lê Vân trình bày trong đơn không?”
“Có đúng đứa con trình bày trong đơn là con riêng của chị Vân không?”
“Đúng”.
“Như vậy khẳng định cháu bé không phải là con của anh đúng không?”
“Đúng. Nó không phải là con tôi”
Tôi ngồi như bất động, nín thở.
Chàng có thể thay đổi ý kiến vào phút chót, không đồng ý thì sao? Ngẫm lại, đời tôi may mắn toàn gặp những người tử tế. Trong trường hợp này, chàng đã rất sững sờ, chẳng kịp phản ứng trước nỗi đau bàng hoàng. Chàng không bao giờ có thể tưởng tượng nổi đến một ngày lại phải đưa nhau ra tòa như thế này. Cuối cùng, vị thẩm phán tuyên bố: “Tài sản đã tự thỏa thuận, con chung không có, nếu sau mười lăm ngày không ai kháng án, không cần phải lập phiên tòa nữa, chúng tôi sẽ ra quyết định ly hôn”.
Tôi và chàng ra khỏi tòa án, mỗi người rẽ đi một lối, lặng câm.
Hai tuần sau, tòa gọi chúng tôi lên đưa quyết định ly hôn. Chàng chẳng thiết nhìn thấy nó. Tôi giữ cả bốn tờ cho tôi và cho chàng. Hi vọng một lúc nào đấy chàng sẽ cần đến nó.
Và thế là tôi được tự do.
Được tự do, tôi như người trút được một cái gánh nặng trĩu, cái gánh tôi mang từ lúc có bầu cho đến lúc sinh con, cái gánh làm tôí căng thẳng thần kinh, rời rã thể xác.
Cảm giác tự do thanh thản từng chút một trở về, từng chút một trả lại cho tôi sự an bài, tĩnh tâm, tĩnh trí. Có được điều này là nhờ có con trai tôi. Chỉ có con trai tôi là hiện thực. Bận bịu với con, vui đùa với con, hạnh phúc đó bù đắp cho tôi tất cả những thứ trìu tượng, hão huyền như danh vị, sự nổi tiếng hay thậm chí là phẩm giá. Con trai ruột thịt của tôi thực sự đã làm tôi biến đổi.
***
Tôi đã khao khát biết bao có một gia đình hạnh phúc, một mái ấm đi về, nơi có người vợ chăm chỉ thảo hiền, có người chồng trách nhiệm thương yêu và những đứa con ngoan đẹp thiên thần… Tôi đã mơ về ngôi nhà ấy trong suốt tuổi thơ bơ vơ, câm nín. Tôi thầm gọi tên ngôi nhà ấy, đau đáu nghĩ về nó trong mười năm bóng tối của mối tình vụng trộm tội lỗi. Tôi cật lực làm lụng như con ong cái kiến hàng ngày chắt chiu tình yêu cho gia đình mơ ước ấy trở thành hiện thực. Và hiện thực ấy đã đến, vào một ngày đẹp trời, khi hai mẹ con đáp máy bay xuống thành Rome cổ kính xinh đẹp, nơi có người đàn ông mạnh mẽ dang rộng cánh tay đón chúng tôi vào lòng che chở.
Để đón hai mẹ con sang, anh đã cực kỳ chu đáo, sắp đặt mọi kế hoạch, mọi tình huống giúp tôi hòa nhập với cuộc sống xa quê hương. Anh tìm thuê căn hộ gần công viên cho tôi dễ dàng đẩy bé ra vườn hoa cây xanh gặp gỡ những người mẹ khác, những đứa trẻ khác. Phòng khi anh đi làm xa, tôi vẫn có thể đưa con đi chơi được chứ không đến nỗi phải chờ anh về. Nơi chúng tôi ở thật đẹp và tiện nghi. Từ nhà, tôi chỉ cần đi bộ một dãy phố là đến khu chợ đầy những rau quả tươi của những người nông dân mang đến bán. Tìm được một nơi như thế không dễ vì thông thường người ta đi siêu thị mua đồ ướp lạnh. Anh biết, ở Việt Nam, tôi rất thích mua rau quả tươi. Hàng ngày, anh đi làm sớm, sẩm tối mới về. Hai mẹ con ở nhà chơi với nhau. Đến gần giờ anh đi làm về, hai mẹ con lại đẩy nhau từ công viên về chuẩn bị đón bố. Chiều xuống, đó là lúc không khí gia đình ùa về rất rõ, rất ấm cúng, là khoảnh khắc mọi người sau một ngày làm việc lại mơ ước trở về tổ ấm của mình để sum vầy, nghỉ ngơi. Và đó cũng là cái không khí tôi ao ước thèm khát bao nhiêu năm…
Giờ đây, tôi đang có một mái ấm thân thương của mình. Chiều chiều, hai mẹ con lại ra đứng ngóng bố từ cửa sổ tầng ba. Nhìn xuống sân, chốc chốc lại thấy một chiếc xe con tiến vào len lỏi tìm chỗ đậu, rồi một người đàn ông bước ra cùng tiếng cửa xe đóng sầm mạnh mẽ. Đã có một người đàn ông trở về. Nhiều chiếc xe trở về như thế mang theo những người chồng, người cha về với mái nhà ấm cúng. Hai mẹ con chờ một lát rồi cũng nhìn thấy màu xe xanh sẫm của nhà mình trở về. Người đàn ông của nhà mình bước ra. Tiếng cửa xe của nhà mình đóng sầm. Anh bao giờ cũng về muộn. Anh bao giờ cũng ngẩng lên ngay sau đó. Anh bao giờ cũng cười thật tươi với hai mẹ con đã chờ ở ngoài hành lang vẫy bố rồi. Những cử chỉ nhỏ thôi nhưng vô cùng trìu mến mà bao nhiêu năm tôi mơ ước, thèm khát. Bây giờ tôi đã được đúng như thế, thậm chí còn hơn thế.
Thời gian sống ở Ý, tôi được chứng kiến một sự kiện đặc biệt: Ngày Nhật thực, một hiện tượng bốn mươi năm mới có một lần. Họ thông báo, vào ngày 11 tháng 8 năm 1999, đúng vào lúc 11 giờ 30 phút sáng, bầu trời sẽ trở nên tối đen như ban đêm, nhật thực sẽ kéo dài khoảng hai tiếng, mọi người sẽ được chứng kiến cảnh mặt trời bị che khuất. Thông tin này còn đi kèm với một lời đồn đại. Có một nhóm cực đoan hồi giáo nào đó tiên tri giờ đó chính là ngày tận thế! Tôi không tin nhưng cứ bị ám ảnh bởi lời đồn thổi và không tránh khỏi nỗi lo lắng hồi hộp. Tờ báo còn nói rõ: Có một tổ chức những nhà khoa học tiên tri nhóm họp tại Hà Lan về ngày tận cùng của thế giới?
Tôi bị “nhiễm” tin đồn đến nỗi cái đầu óc hay bị tiểu thuyết hóa của tôi mới tưởng tượng, nếu điều đó là sự thật, nếu trong tích tắc, mọi thứ bị xóa sổ, biến mất thì kinh khủng quá? “Có nghĩa là chúng ta có thể không bao giờ gặp lại nhau nữa hả anh? Và em sẽ mãi mãi ở lại nơi này ư?” Tôi lo lắng hỏi anh. Anh nghĩ tôi nói đùa. Anh không biết rằng, trong cái sự đùa ấy, chắc hẳn phải có hơn một phần trăm là nỗi lo lắng thật.
Khi cái ngày đặc biệt ấy đến, bầu trời đang sáng sủa bỗng tối đen, tôi bế ngay con ra hành lang xem. Một màn đêm đen kịt bao phủ toàn thành phố. Tôi ôm chặt con trai vào lòng với bản năng che chở. Tôi nghĩ đến anh. Giờ này anh đang ở mãi tận châu Phi. Nghĩ đến lá thư viết cho anh ban sáng. Tôi miêu tả cảm xúc của mình, nó bồn chồn, bồi hồi, lo lắng, cứ như là chuẩn bị cho một cuộc chia tay vĩnh viễn. Tôi bày tỏ nỗi nuối tiếc, không lẽ, vừa mới được hưởng niềm hạnh phúc lớn lao thế này, nay tôi lại phải biến mất cùng ngày tận thế, không bao giờ nhìn thấy anh nữa hay sao!…
Hết Nhật thực, anh gọi điện về nhà, mọi thứ trở lại bình thường. Nếu đọc lá thư đó, anh sẽ thấy tôi thật là điên rồ. Điên vì đau khổ đã đành, đôi khi người ta còn điên vì hạnh phúc nữa. Anh không biết, suốt hai tuần anh đi vắng, tôi và con chiều nào cũng vẫn ôm nhau đứng ở ban công đợi. Biết rằng, chẳng có cái xe màu xanh ấy của nhà mình về đâu, nhưng cứ ngóng đợi thế thôi Như một thói quen, một niềm hạnh phúc lặng lẽ. Mà biết đâu đấy, một phép lạ sẽ đến, anh bỗng trở về…, một phép lạ dành cho những người biết chờ đợi.
Có con, sống với anh, tôi thực sự được làm người đàn bà đúng nghĩa. Hàng ngày chỉ quẩn quanh chăm lo nhà cửa, con cái, cơm nước… Hoặc ở Việt Nam hoặc bế con sang thăm anh, ở với anh nhiều nhất là ba tháng. Trong suốt nhiệm kỳ ba năm của anh ở Ý, hai mẹ con cứ đi đi về về như thế.
Rồi chúng tôi có thêm một con trai nữa. Việc nhà dường như nhiều lên gấp ba. Khoảng thời gian sống ở nước ngoài, không có người giúp việc, tôi phải luôn chân luôn tay từ sáng tới chiều tối. Trẻ con không được chạy nhảy ra ngoài chơi nhiều nên chúng thả sức nghịch ngợm phá phách trong phòng. Một cậu lên năm, một cậu lên ba, chúng chưa tự ăn được. Tôi phải cho chúng ăn. Chơi với chúng. Mãi đến mười giờ tối, khi chúng đi ngủ, tôi mới được thở phào, rồi lại tiếp tục dọn dẹp.
Tôi muốn, sáng hôm sau, khi anh thức dậy, đã thấy nhà cửa gọn gàng rồi. Sau đó, mới đến lượt mình đi tắm giặt thay đồ, ngồi xả hơi xem một chút gì đó giải trí. Đó là khoảng thời gian tự do rất ngắn cho riêng mình.
Tôi luôn ý thức thu xếp nhà cửa tươm tất gọn gàng, để khi anh đi làm về, nhìn thấy một căn phòng sạch sẽ ngăn nắp, anh sẽ hết mệt mỏi. Và cả nhà sẽ quây quần bên mâm cơm đơn giản nhưng hợp ý… Nhưng cứ vừa dọn xong chỗ này thì hai ông tướng con lại bầy ra chỗ khác. Lắm lúc cứ choáng váng cả người. Loáng cái đã sáu giờ chiều. Bỗng tiếng chuông cửa réo lên. Anh đã về rồi ư? Tôi phát hoảng thấy công việc nhà cửa chưa đâu vào đâu cả… tôi chẳng biết làm gì trước làm gì sau nữa. Chỉ cảm thấy đuối sức, buồn bã và mệt đứt hơi. Cứ thế này thì chết mất. Tôi ngồi thừ người, bất lực. Anh về, thấy tôi im lặng chẳng chạy ra đón, đoán chắc có chuyện gì, bèn hỏi han. Tôi bỗng òa ra nức nở. Bọn trẻ con trố mắt nhìn không hiểu sao mẹ lại khóc. Anh bật ti vi cho trẻ con xem, kéo tôi ra ghế, bảo tôi ngồi vào lòng anh và dỗ dành: “Em ngồi xuống đây anh nói cho em nghe, anh rất hiểu và chia sẻ với công việc của em ở nhà. Nếu cho anh làm một phút thôi chắc anh phát điên lên chứ đừng nói gì làm từ sáng đến tối quần quật như thế. Em đừng bao giờ nghĩ rằng, anh là người đi làm kiếm tiền nuôi vợ con nên công việc của anh mới là quan trọng. Đừng bao giờ quan niệm như vậy. Nếu bắt anh ở nhà, làm công việc của em, anh khẳng định là anh không thể làm được. Đây cũng là cách em hi sinh tất cả để chăm con, anh không bao giờ dám coi thường”. Cũng may, anh là người tâm lý, hiểu ngay được sự khủng hoảng của tôi để mà chia sẻ, thông cảm. Nghe anh nói, cơn xúc động của tôi dịu di. Rõ ràng, anh có thiên chức của người bố và tôi có thiên chức của người mẹ, không ai làm hộ ai được.
Hạnh phúc chỉ đến khi người ta biết tôn trọng nhau và giúp đỡ nhau thực hiện cái thiên chức của mỗi người. Hết nhiệm kỳ làm việc ở Ý, anh nhận công tác ở nước CHDCND Triều Tiên. Ở đó, điều kiện sống khắc nghiệt, nhưng may là gần Việt Nam. anh được về thăm mấy mẹ con tôi nhiều hơn. Lần đầu tiên đón ba mẹ con đến Triều Tiên chơi, anh lo tôi có thể bị sốc nặng. Tôi bảo, không sao đâu, tôi đã trải qua cái thời kỳ bao cấp khó khăn như vậy ở Việt Nam rồi. Anh dặn tôi phải cẩn thận, có nói thì chỉ nên nói những chuyện thông thường, tốt nhất là đừng đả động gì đến chuyện chính trị. Ở đây, người nước ngoài bị quản lý rất chặt, đi đâu cũng phải xin phép, hệt như một thời ở Việt Nam, nhìn thấy người nước ngoài nào cũng bị ám ảnh họ là gián điệp. Ở Triều Tiên, tôi gặp lại bầu không khí quen thuộc như ở Việt Nam cách đây mấy chục năm. Không điện đóm, đường phố tối om. Người dân ăn mặc toàn quần áo sẫm màu, chắc là không có đủ xà phòng. Trong cái thành phố không ánh sáng ấy, dân chúng vẫn phải đi lại dò dẫm chậm chạp, thành thử trông họ như những bóng ma không trọng lượng. Nếu mình không quen, không cẩn thận, mình sẽ đâm vào họ. Còn họ thì quen rồi, họ hòa mình vào bóng tối. Họa hoằn mới có một luồng sáng vút qua từ một chiếc xe hơi.
Cứ cuối tuần, đồng nghiệp của anh lại bay qua Hồng Kông giải trí. Đã có một số người nước ngoài làm việc ở đó bị phát điên vì quá căng thẳng. Giống như Việt Nam ngày xưa, sự căng thẳng luôn bao trùm lên bầu không khí xã hội. Dân chúng bị biến thành những con người sống chẳng giống ai, có lẽ giống như người ngoài hành tinh. Không bao giờ đủ điện thắp sáng. Mùa đông chắc là rất khó để chống chọi với những cơn giá buốt. Người dân sống trong những căn hộ cao mười mấy tầng không thang máy, là hình bóng xa xôi còn lại của cái thời được Liên Xô bao cấp. Khó khăn, thiếu thốn và bị kìm hâm nhiều bề. Đến đây rồi ngẫm lại, ở Việt Nam bây giờ thời mở cửa, mọi thứ thay đổi đến chóng mặt, được thoáng đãng hơn nhiều. Chính người Bắc Triều Tiên đã nhắc nhở tôi biết quí giá những gì tôi đang có hôm nay.
***
Nhờ thỉnh thoảng bồng bế con ra nước ngoài sống với anh, tôi khám phá thêm nhiều điều mới mẻ của chính tâm hồn mình.
Không ít lần, tôi băn khoăn, liệu tôi có thể định cư ở nước ngoài được không khi mà thời điểm đó đến? Nếu buộc phải theo chồng con đến sống nơi đất khách quê người, tôi sẽ bị cô đơn như thế nào? Cứ nghĩ đến cái ngày phải đi khỏi Việt Nam thì thấy hoảng sợ. Bởi tôi biết, tôi không thể nào hòa nhập được với cuộc sống ở nước ngoài. Ở đó, tôi sẽ buồn lắm. Sẽ không biết trò chuyện với ai. Con mình sẽ hòa nhập vào cuộc sống ở đó, thành những con người ở đó. Chồng mình và con mình sẽ không còn là đồng loại của mình, sẽ có một khoảng cách mà họ không thể chia sẻ hết với mình được.
Họ sẽ không hiểu tại sao mẹ lại có thể nhớ đến thẫn thờ cái heo may của mùa thu Hà Nội, vị chua của bát nước rau muống luộc dầm sấu, hay là vị cay đặc biệt của một bát bún riêu cua của bà già đầu ngõ. Sao mẹ lại khóc khi nghe một bài hát xưa, một giọng ca cũ… Chưa gì tôi đã hỏi anh, nếu sau này, em và con đi theo anh rồi, khi em chết, anh sẽ chôn em ở đâu? Nếu mang em về Việt Nam, anh và con sẽ không được năng lui tới thăm em, nếu để em lại một cái nghĩa trang xa lạ nào đấy, thì em sẽ mãi mãi cô đơn ư? Thật là lạc lõng nơi đất khách quê người cả khi sống lẫn khi chết. Đây là điều mà tôi có thể khẳng định.
Sống với người nước ngoài có cái thiệt thòi là mình không thể rút ruột rút gan mà nói cho họ hiểu và thông cảm hết những điều vui buồn của mình. Người ta có thể mường tượng thôi chứ không bao giờ biết được mình buồn ra sao, cô đơn thế nào, tủi hận thế nào. Đấy là một thiếu hụt lớn, bù lại, mình được một điều khác. Chính vì người ta không thể tìm hiểu cặn kẽ mình được, nên không thể đào sâu vào cuộc đời mình. Như vậy, mình còn có một bức ngăn nào đó, khoảng cách tự do nào đó cho riêng mình. Mình không thể thổ lộ hết bởi có nói người ta cũng không thể hiểu được. Như vậy mình lại giữ được một điều gì đó chỉ thuộc về riêng mình thôi.
Không biết những người khác lấy chồng nước ngoài hay sống ở nước ngoài cảm thấy thế nào, nhưng tôi, còn cả vì đứng chữ Mậu, tôi biết tôi sẽ phải cô đơn. Nói cái nghĩa cô đơn ở đây nó không hoàn chỉnh không đúng, vì bên cạnh vẫn có chồng và hai con trai ruột thịt thì tại sao lại bảo là cô đơn.
Nhưng con người có bao giờ chịu dừng lại, biết đâu nó lại còn khao khát những gì nữa còn hơn cả chồng, hơn cả con.
Ví dụ như khao khát đồng loại, thèm nghe tiếng đồng loại mình chẳng hạn! Ngay từ bây giờ, tôi đã có ý thức sưu tầm những cuốn sách tiếng Việt, những băng đĩa nhạc Việt tôi thích để dùng cho mai sau. Để trong cái không gian lạc lõng ấy, tôi vẫn nghe thấy đâu đây tiếng mẹ đẻ của mình bằng cách tua đi tua lại cái bài hát ấy, băng nhạc ấy… Trong những cuốn sách mang theo, nhất định phải có hai cuốn Doctor Jivagor và Nỗi buồn chiến tranh. Đó là hai cuốn sách mà tôi có thể đọc đi đọc lại nhiều lần, lần nào cũng vẫn cảm thấy đau một nỗi đau thăm thẳm kéo dài, một nỗi đau nâng tâm hồn con người vượt thoát lên trên những nỗi buồn đau vụn vặt hàng ngày. Hình như, khi tâm hồn càng hướng nội, càng giầu có thì càng cảm nhận sự cô đơn sâu sắc hơn. Sống giữa Roma, thành phố đẹp như một bảo tàng nghệ thuật, vậy mà tôi, một người mê kiến trúc, lúc nào cũng chỉ muốn nhìn ngắm, học hỏi về kiến trúc, sao vẫn thấy thiếu vắng…
Thành thực mà nói, tôi vẫn chưa dám mở to mắt để nhìn thẳng vào cái kết cục đời mình: nhiều phần sẽ bị cô đơn nơi đất khách quê người. Những điều tôi nói đây không hề vội vàng bởi tôi đã có ý thức thừ nghiệm cảm giác của mình.
Tôi không thể hiểu hết được tại sao người nước ngoài lại xử sự như vậy, tại sao lại sống như vậy. Họ có một nền văn hóa khác, mình bị đặt vào đó, làm sao mình tránh khỏi cảm giác lạc lõng bơ vơ? Hiển nhiên, mình là một kẻ xa lạ giữa đồng loại của họ. Vô hình chung, tự mình sẽ khép mình lại, thế là rơi vào khoảng cô đơn của riêng mình. Sẽ rất khó giao tiếp với người khác khi mình đang phải sống cuộc sống khác hẳn với đồng loại của mình. Giống như một cái cây bị đào lên đem trồng vào một vùng đất khác, cây càng lâu năm, càng to bao nhiêu thì càng khó sống ở vùng đất mới bấy nhiêu… Đó là điều tôi thấu hiểu sâu sắc mà chưa dám nói ra với anh.
Xa nhau thì khao khát gặp nhau, mong bồng bế con đi đoàn tụ gia đình, không có gì vui bằng được ăn với nhau bữa cơm hàng ngày như thứ hạnh phúc gia đình giản dị nhất, nhưng chỉ được hai tuần đầu, đến tuần thứ ba, tôi hoảng hốt nhận thấy, hình như chồng không đủ và con cũng không đủ. Như đọc được tâm hồn tôi, nhiều lần, anh ướm hỏi: “Em có chắc chắn rằng em sẽ không bị hẫng hụt như Vi không?”. Cô Vi hăm hở theo chồng đi Pháp cho một cuộc sống đoàn tụ gia đình. Cũng xác định thế nọ thế kia, mà rồi chỉ được một thời gian, lại như điên như rồ, cô gào lên trên điện thoại: “Đừng ai khuyên ngăn gì em hết, cả bố mẹ và các chị, em phải về đã, muốn khuyên gì thì khuyên sau, nếu cứ để em ở đây em sẽ phát điên mà chết”. Anh nhìn thấy cái gương đó nên lo lắm. Ai biết trước được cái gì sẽ xảy ra?
Anh bảo, nếu xác định định cư ở Hà Lan thì phải lên một kế hoạch từ bây giờ. Phải suy nghĩ thật chín chắn, chứ không thể một sớm một chiều mà di chuyển ngần ấy con người về lại Việt Nam được. Tôi an ủi anh rằng: “Ở tuổi này, từ khi có con em thay đổi rất nhiều, làm cái gì lớn hay nhỏ, đầu tiên là em nghĩ đến lợi ích của hai con. Và em phải xác định một cách không bồng bột, em sẽ hi sinh nốt quãng ngày còn lại của đời mình cho hai con. Chắc chắn là như vậy, bản năng người mẹ mách bảo em thế. Người mẹ nào cũng có cái bản năng ấy. Con nó còn nhỏ như thế, nó cần một chỗ dựa, cần người chở che dẫn dắt, vậy thì mình còn tiếc gì cái tuổi già của mình mà không hi sinh nốt cho hai đứa con thơ dại! Em muốn được tự nguyện dâng hiến nốt”. Đương nhiên, chẳng ai đòi hỏi sự hi sinh này. Cho dù sau này, chính những đứa con tôi bảo, nó không dám đòi hỏi điều đó.
Sau gần chục năm trời sống với nhau, tương lai xa thì không thể biết được, nhưng hiện tại, tôi tạm thời bằng lòng và mãn nguyện với những gì đã có. Đôi lúc, chỉ có một nỗi sợ mơ hồ, nhỡ một ngày nào đó, anh không còn làm cho tôi muốn yêu anh nữa. Khi tình yêu đã đạt được rồi, con cũng đã có rồi, hoàn cảnh gia đình tạm ổn rồi, thì cái khó nhất, cái lo lắng nhất là làm sao để giữ được tình yêu. Giành giật được tình yêu đã khó khăn rồi, thì không được để tình yêu mất đi.
Nhiều gia đình, sau khi lấy nhau và sinh con, cuộc sống chỉ còn lại là góp gạo thổi cơm chung. Họ quên bẵng mất việc phải nuôi dưỡng và gìn giữ tình yêu. Họ quá ảo tưởng về những gì họ có trong tay: con cái, sự nghiệp, nhà cửa thế là yên tâm rồi, chẳng thể nào mất đi đâu được. Chẳng cần chăm sóc nữa. Đến lúc nào đó, chính họ cũng không ngờ, tình yêu đã một đi không trở lại. Với tôi, trong sự chống trọi đơn thương độc mã với cuộc đời khi không có anh cận kề, thì thời gian và cả không gian xa cách nữa, lại làm chúng tôi có thể nuôi dưỡng tình yêu. Lúc nào cũng thấy khao khát, thấy đói, thấy mong muốn hồi hộp gặp lại nhau, rồi chưa kịp thỏa mãn tình yêu, anh đã lại phải lên đường.
Khi gặp bất hạnh, tôi thấy tâm hồn mình bay bổng lãng mạn giàu có vô cùng. Sống trong đau khổ mới thấy cái khoảnh khắc hạnh phúc nó thật quí giá làm sao? Hiện nay, khi mọi thứ với tôi dường như là an bài, mọi khao khát đã đạt được rồi, không phải suy nghĩ nữa, bỗng nhiên lại sợ tâm hồn mình sẽ nghèo nàn đi, sẽ mai một dần. Cho nên, tôi luôn phải nhắc nhở anh, nhắc nhở mình, sau này, khi được sống với nhau rồi, lại càng phải chăm sóc tình yêu. Nếu anh để tình yêu bào mòn anh đi thì tôi cũng sẽ bị bào mòn theo. Đừng để sống với nhau lâu, rồi trở nên xuề xòa, rồi chính tự mình thiêu cháy, làm chết đi cái tình yêu mình đã có. Như thế thì không lấy lại được nữa. Sống với nhau chỉ để mà sống vì đã mất hết cả phần hồn rồi, không có sự bay bổng lãng mạn của tình yêu nữa thì sợ lắm! Không yêu nữa mà cứ phải sống cùng thì kinh hãi lắm. Không yêu nữa thì phải nói với nhau, đừng sống bằng sự chịu đựng. Đừng giả dối. Và quan trọng nhất là phải tuyệt đối tin tưởng nhau.
Rất nhiều lần, tôi nói với anh rằng: “Từ khi có hai đứa con, em không thể làm được điều gì sai cả. Mình sinh ra chúng nó là do mình. Chúng có quyền được cả bố lẫn mẹ chăm sóc. Khi đã sinh con ra, mình có bổn phận mang lại hạnh phúc cho con, còn việc nó đón nhận được đến đâu lại là do nó. Không có lý do gì để em lại làm điều sai trái, lỡ em và anh xảy ra điều gì thì các con phải khổ. Và thực lòng em không bao giờ muốn điều đó. Em rất hài lòng với cuộc sống hiện nay. Không phải quá giàu sang nhưng với em thế là quá đủ, quá mãn nguyện rồi. Anh đừng bao giờ lo ngại trong khi chúng ta chưa được sống bên nhau, em lại thay lòng đổi dạ”.
Vì sao mà tôi phải nhắc nhở anh thường xuyên như vậy, bởi vì hoàn cảnh sống xa nhau, đôi khi cũng không tránh được sự hiểu lầm. Hình như anh cũng lo, trong khi anh một thân một mình xa xôi cặm cụi kiếm tiền nuôi gia đình, liệu người vợ ở nhà có chịu nổi cái cảnh chia ly xa cách đấy không, có chung thủy hay không? Vẫn còn một chút nghi ngại nào đó từ phía anh, hình như, vì chưa nắm giữ được tôi ở bên, anh chưa an tâm. Thì ra, người đàn ông, dù có yêu mình đến đâu, trong một ngóc ngách “tinh vi” nào đấy, họ vẫn không hết được sự ích kỷ. Ngay cả đàn ông phương Tây cũng vậy. Cũng có thể sự lo lắng của anh bắt nguồn từ cái sự thật thà, nhẹ dạ của tôi. Đàn bà, khi yêu, luôn muốn chứng minh sự chân thành của mình bằng cách thổ lộ hết chuyện ngày xưa từng yêu ai, yêu như thế nào. Đàn ông nghe xong, không nói gì nhưng lại để bụng và không bao giờ quên…
Tôi có một người bạn là một họa sĩ nghèo. Gã tự đặt cho mình biệt danh là “Điên”, Tùng điên. Chúng tôi quen nhau đã mấy chục năm, từ thủa hàn vi nghèo đói. Tôi thương gã không chỉ vì gã quá nghèo mà còn vì gã thân cô thế cô khi bước chân về học đại học ở Hà Nội. Tôi không có kiến thức gì về hội họa, về màu sắc vậy mà khi xem tranh của gã, tôi thấy tâm đầu ý hợp.
Nhiều người không hiểu nổi tại sao tôi lại chơi với cái gã điên ấy. Đôi lúc rượu vào, gã nói ba lăng nhăng về tình cảm đơn phương của gã với tôi. Có lúc gã cục cằn, bất cần, chửi đời, thậm chí không coi ai ra cái gì. Vậy mà tôi lại nhận ra trong tận cùng con người gã là một thằng người cô đơn, thèm khát biết bao tình thương yêu của đồng loại. Tạo ra tính cách điên khùng như vậy chẳng qua chỉ muốn ngụy trang, tự vệ cho một thân phận nghèo giữa chốn đô thị “lắm người nhiều ma”. Đối với tôi, gã luôn tôn trọng và có phần vì nể và chắc chắn gã là một người bạn tốt. Sau mấy chục năm quen biết, khi cả hai đã thành gia thất, có một lần duy nhất gã bộc lộ vì không thể giữ lâu hơn được nữa: “Em đã giết chết nửa đời tôi”.
Với một người bạn như vậy, tôi không bao giờ ngại họ không tốt với mình. Thỉnh thoảng buồn đời, buồn gia cảnh, hoặc đơn giản chỉ muốn có ít phút giây thư thả, gã gọi điện mời tôi đi ăn sáng phở gia truyền phố Bát Đàn. Sau đó, bên li cà phê đen đá số 5 của Trung Nguyên, gã thong thả trò chuyện với người hiểu mình. Tình bạn giữa chúng tôi là vô hại. Chính vì thế, tôi tự cho phép mình đôi lần nhận lời.
Vì vô hại nên tôi cũng thật thà kể chuyện với Abraham là đã đi uống cà phê với gã. Không ngờ, anh im lặng có vẻ nghĩ ngợi rồi bất ngờ hỏi: “Có lẽ anh không hiểu nhiều lắm về con người và phong tục Việt Nam. Nhưng đàn bà ở Hà Lan, nếu chồng đi công tác xa mà lại nhận lời, dù chỉ là đi uống cà phê, với một người đàn ông khác, họ coi như là “có chuyện” không ổn. Đàn bà Việt Nam khác chăng?”
Nghe anh nói, tôi chợt ngộ: Vô hình chung, tôi đã khơi dậy bản tính ích kỷ nơi gã đàn ông trong anh. Cái bản chất ích kỷ ngặt nghèo ấy như con rắn nằm chờ sẵn trong mỗi một người đàn ông. Và tôi ân hận vì mình đã quá thật thà, ngây thơ khi trải lòng mình với người mình yêu. Ân hận vì đã tưởng rằng tình yêu không có chỗ cho lòng ích kỷ hẹp hòi. Với tôi, đã yêu là tin tưởng tuyệt đối. Đã yêu là không giấu nhau điều gì.
Lại lầm nữa rồi phải không Vân ơi? Đời mà đơn giản như Vân nghĩ thì đời đã không là bể khổ. Tôi nhẫn nhịn thuyết phục anh: Chúng ta thường xuyên sống xa nhau. Không còn cách nào khác là anh phải tin em như em đã tin anh. Có như vậy tình yêu mới tồn tại được.
Tuy nhiên, qua chuyện này, tôi hiểu anh hơn. Hiểu anh để mà biết cách sống cùng nhau. Tuy sống ở châu Âu nhưng anh lại cũng phong kiến như đàn ông châu Á. Tất nhiên, lo xa cũng là cải tâm lý thông thường của đàn ông thôi. Anh giải thích: “Anh sống cô đơn trong hoàn cảnh khắc nghiệt, dễ nảy sinh lo lắng, tưởng tượng. Anh có tiền cũng chẳng có gì để giải trí ở cái nước Bắc Triều Tiên này. Chỉ thỉnh thoảng cuối tuần, mấy ông đàn ông đi ăn tối với nhau, vào Casino, đi chơi golf hoặc tenis. Chỉ thế thôi. Em còn có con cái, có gia đình, có bạn bè”. Anh nói vậy tôi chỉ biết im lặng lắng nghe, chia sẻ, nhưng trong lòng nghĩ. Tôi cũng có những “hoàn cảnh” của tôi, chỉ có điều, tôi tuyệt đối tin vào cái bến bờ mà mình đã tìm thấy. Quan trọng hơn, tôi tin vào bản thân mình.
Nhắc lại chuyện này, anh phân trần: Anh tin tôi nhưng không tin “cái bọn đàn ông” ở quanh tôi. Là người từng trải, biết hết những mánh khóe đàn ông, anh cho rằng hiếm có người đàn ông nào đến với đàn bà mà lại hoàn toàn chỉ có sự vô tư trong sáng. Anh còn lấy chính anh ra để chứng mình, anh cũng đã phải làm như “vô tư” ra sao để tiếp cận tôi, chinh phục tôi. Rồi anh hùng hồn tuyên bố: “Tất cả bọn đàn ông đều chó hết. Cả anh cũng thế”. Tất nhiên, nếu quả thực tất cả bọn đàn ông đều là bọn “chó” đi nữa, thì người đàn bà cũng cần trang bị cho mình những kiến thức cần thiết và không ngừng hoàn thiện mình để nhận ra, ngoài phần bản năng đó, những phẩm chất gì của “bọn đàn ông” là đáng trân trọng.
Qua cách đối xử của anh với vợ con, với người thân trong gia đình, tôi nhận ra nhiều phẩm chất đáng quí và bản lĩnh đàn ông mạnh mẽ ở anh. Nhưng đôi khi, vì ngôn ngữ bất đồng, văn hóa khác nhau, không phải dễ dàng gì để chia sẻ được tất cả. Anh chỉ biết đời tôi từ đây trở đi, từ cái ngọn trở đi thôi, Tôi cũng thế. Chúng tôi biết nhau theo cảm nhận của mỗi người chứ cũng chẳng cần phải gặng hỏi, tìm hiểu hay chủ động nói cho nhau hiểu làm gì. Tự tìm hiểu nhau qua cách hành xử hàng ngày để nhận biết người của mình là loại người nào. Quá khứ là cái đã qua hãy để cho nó qua đi, còn sống với nhau là sống bằng hiện tại của mỗi người…
Tôi biết, số tôi đứng chữ Mậu, trắc trở trong đường tình cảm, nên trong thâm tâm tôi muốn dừng ở đây, với anh. Tôi không lo hai bên có gì thay lòng đổi dạ mà chỉ lo cuộc sống bị nhàm chán, không còn tình cảm nồng nàn say đắm như buổi ban đầu. Sống có tình nghĩa vợ chồng là đúng, là tốt, nhưng giá như vẫn giữ được cái say mê, lung linh như thủa đang yêu có phải là tốt hơn không! Làm sao để luôn luôn có ý thức giữ nhau, chăm nhau, đừng để điều gì sơ suất xảy ra. Mỗi lần anh về, tôi vẫn háo hức dọn nhà dọn phòng như chờ đón tình nhân. Không phải chỉ ra sân bay đón cho xong nghĩa vụ, không có tâm trạng xao xuyến gì cả thì rất chán.
Đừng bao giờ quên, tình yêu là một cái cây cần phải được chăm sóc hàng ngày. Nếu mình không chăm bón tưới tắm, nó sẽ bị thui chột đi, không gì cứu vãn được. Giống như, khi không còn tình yêu ở trong ta nữa, tự ta thấy nguội lạnh chứ chẳng ai bắt cả. Cứ hình dung sống với nhau, chỉ tối tăm mặt mũi kiếm tiền với lo cho con cái thì kinh khủng lắm.
Nhiều gia đình tan vỡ chỉ vì mải làm giàu, quên mất cái việc phải làm giàu cả tình yêu nữa. Vợ chồng mà sống như những người máy, tình cảm trơ ra, không còn cái xúc động bồi hổi bồi hồi khi nhìn thấy nhau, khi chờ đợi nhau, thì phỏng có ý nghĩa gì? Khi cái thi vị lãng mạn của tình yêu mất đi, đời sống lứa đôi còn lại gì? Phải ý thức rất rõ điều đó mà đề phòng trước. Nếu hàng ngày, cả hai chịu khó tưới tắm cho cái cây tình yêu chút nước, tỉa lá tỉa cành, bắt sâu cho nó… thì nhất định nó sẽ lớn nhanh hơn, mơn mởn hơn cái cây không được chăm sóc. Ví von như vậy để thấy, hạnh phúc là một quá trình nuôi dưỡng không ngừng nghỉ. Trải qua rất nhiều đau đớn, đổ vỡ, tự làm thui chột cây tình yêu của mình, đến tận bây giờ, tôi mới vỡ lẽ ra những điều quá đỗi giản dị như vậy…
***
Khi chúng tôi quen nhau, hai con anh còn ở cái tuổi dở dở ương ương, chúng sẽ đón nhận cú sốc gia đình tan vỡ ra sao? Về phần cậu con trai lớn, anh không lo lắm, nhưng còn cô con gái sắp thành thiếu nữ? Anh không nỡ lòng nào mang món quà tặng vào đời cho cô bé là tờ giấy li hôn của bố mẹ được. Vì thế, anh bảo: “Để cho cô bé lớn thêm chút nữa, anh hứa sẽ nói chuyện ấy với con gái rồi chính thức li hôn”.
Đến bây giờ, dù đã có hai mặt con với nhau, cô con gái đã vào đại học rồi, nhưng chưa bao giờ tôi hỏi, thế anh đã li hôn chưa?
Không biết người vợ chính thức của anh đã biết mối tình của chúng tôi chưa hay đã biết đến đâu? Chỉ biết rằng, khi bắt đầu quan hệ với tôi, anh cũng đã có một cuộc nói chuyện với chị ấy. Anh loáng thoáng kể và tôi cũng tạm tin là thế. Chị là một họa sĩ, khi nghe chuyện, chị đã xử sự rất có văn hóa: “Anh phải chọn lựa. em hoặc cô ấy”. Anh đã chọn tôi. Như vậy, sau khi nói thật tất cả với vợ và lựa chọn bên này thì dứt khoát là không thể chọn lại bên kia được nữa. Khi họ cưới nhau, chị đã có một đời chồng với một cô con gái riêng. Họ có thêm hai người con chung nữa. Khi con gái riêng của chị ấy lấy chồng sinh con, anh cũng về Hà Lan để làm cha đỡ đầu cho cháu bé. Khi con gái anh đã qua tuổi nhậy cảm, có thể nói chuyện hệ trọng được rồi, thì vợ anh lại bị rơi vào những cú sốc tình cảm lớn. Người con gái của chị ấy đi ra ở riêng, chị đã như bị mất đi một chỗ dựa tình cảm, tiếp đến, bố mẹ đẻ của chị cũng đến tuổi về trời. Thế là suốt mấy năm liền, chị sống trong hoàn cảnh mất mát đau buồn, bị chênh vênh như không còn ai bấu víu. Nếu anh đưa ra lời đề nghị li dị lúc đó liệu có quá nhẫn tâm? Thế là cứ lùi lại mãi, không biết thời điểm nào mới nói cho phù hợp…
Những chuyện rất “nhậy cảm” đó, anh thông tin với tôi một cách như tình cờ như cố ý để giải thích cho sự chậm trễ, tôi chỉ biết chăm chú lắng nghe và im lặng chia sẻ. Tuy nhiên không phải là không có lúc lòng tôi cũng bất ngờ nổi sóng…
Một lần khi chúng tôi đang ở Ý, anh hỏi: “Em ạ, sắp tới ngày sinh nhật con gái anh tròn mười ba sang mười bốn tuổi, đó là cái mốc rất quan trọng. Gia đình sẽ làm một bữa tiệc lớn để công nhận cô bé bước vào giai đoạn trở thành thiếu nữ. Cô bé rất ao ước có mặt bố ở nhà. Theo em, anh có nên về dự lễ sinh nhật con bé không?”. Bay từ Ý về Hà Lan chỉ để dự một lễ sinh nhật ư? Câu hỏi của anh làm tôi sững người, thật là quá sức tưởng tượng! Cho đến tận bây giờ, đã bốn mươi chín tuổi, tôi chưa bao giờ biết cái lễ sinh nhật là gì. Khi ấy, tôi đang nuôi con mọn, đang ngơ ngác trên đất khách quê người. Vậy mà anh nỡ để hai mẹ con lại, không biết một câu tiếng Ý nào ư? Dường như anh hỏi là để hỏi vậy thôi, vì anh đã sắp đặt kế hoạch, mua vé máy bay rồi. Tôi ngạc nhiên rồi cũng phải lặng thinh ngậm bồ hòn làm ngọt, để xem xem người ta hỏi vậy nhưng có thực sự là cần sự đồng ý của mình không? Cuối cùng, anh vẫn đi mà không cần tôi đồng ý, mà không biết có một cái gì đó cứa vào tim người ở lại. Suốt mấy ngày đó, không một lần trong đầu tôi dám tưởng tượng rằng khi anh về với cái “my house”, nhà của anh thì anh làm gì, ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Anh sống với ai, anh ly thân chưa, tôi không hề biết. Biết làm gì cho đau lòng thêm.
Như ngày xưa, cái mối tình đầu làm cho mình khổ quá, hành hạ mình cả chục năm trời, vì căn bệnh tưởng tượng. Cứ chỉ cần nghe thấy tiếng kẹt mở tủ, gấp quần áo, đóng tủ của người vợ bên buồng trong, cái tiếng kẹt ấy nó như cứa vào da thịt tim gan mình. Bởi vì nghe sao mà nó ấm cúng, nó gia đình đến thế! Chỉ cần nhìn cái bếp dầu, với cái que sắt nhỏ bọc một đầu vải người chồng làm cho người vợ dễ nhóm bếp là thấy thèm khát rồi. Lúc nào cũng thấy đau, thấy tủi, đang sống trong tình yêu, đang có người mình yêu mà cứ như là sống không gia đình. Cô đơn chính giữa những người ruột thịt, bơ vơ lạc lõng giữa đời không biết bấu víu vào đâu. Đến giai đoạn này, biết sợ rồi, không dám tưởng tượng nữa.
Tự nhủ như vậy nhưng đâu có dễ dàng quên đi. Cái đêm anh quay về, anh tỏ ra muốn âu yếm nhưng tôi đã dứt khoát quay đi, ôm lấy con trai. Anh cũng cảm thấy có điều gì đó không bình thường, nhưng không dám hỏi. Anh biết là tôi giận. Tôi quay sang con mà nước mắt đầm đìa suốt đêm.
Thấy sao mà tủi thân tủi phận thế. Mấy ngày trước ông quay về nhà ông thì ông ở đâu? Không dám hỏi cũng không dám hình dung. Chỉ biết âm thầm khóc. Khóc rồi lại nghĩ cố nghĩ ra cái gì đó để tự an ủi mình, tại sao mình ngu xuẩn thế cứ đào sâu vào cái nỗi bất hạnh ấy làm gì, tại sao mình không biết bằng lòng với những thứ mà mình đang có. Mình đang có hẳn một đứa con do mình sinh ra. Vậy thì đừng khoét sâu vào những điều kia nữa cho được thanh thản. Tại sao mình phải thế, rõ ràng là phải yêu mình nhiều như thế nào đấy thì anh mởi chung sống với mình như thế này.
Nếu anh chưa thể đi đến một cuộc sống chính thức với mình thì anh cũng đã nói rõ ràng hoàn cảnh rồi. Thôi, hãy nhắm mắt, bằng lòng với hiện tại đi.
Thế là sau cơn xúc động, sau bao nhiêu là tức tưởi, nghẹn ngào, gần sáng bình tĩnh lại, cũng nghĩ được theo chiều hướng tốt đẹp, để cho nó nguôi ngoai đi, và vẫn giữ được cuộc sống bình thường. Nhưng cũng vẫn biết từ sâu thẳm đâu đấy trong tim vẫn rất đau đớn…
Để tôi yên tâm về tương lai của các cọn, anh đã làm một việc rất đàng hoàng là đưa tôi và hai con đến đại sứ quan Hà Lan hỏi: “Hai đứa bé này là con của tôi, do chúng tôi sinh ra, hiện bây giờ các cháu vẫn ở Việt Nam với mẹ, sớm hay muộn gì các cháu cũng về Hà Lan, vậy có cần phải làm thủ tục cho các cháu thành công dân Hà Lan từ bây giờ không và phải làm những thủ tục gì?” Câu trả lời chúng tôi nhận được cực kỳ đơn giản: “Chỉ cần anh nhận chúng là con đẻ của anh thì bất cứ khi nào anh đưa chúng về Hà Lan, chúng sẽ thành công dân Hà Lan”. Họ cũng không cần hỏi liệu anh đã có giấy kết hôn chưa? Họ tin và tôn trọng công dân của họ như thế.
Cơ quan của anh cũng không bao giờ hỏi thế ông đã li dị bà vợ Hà Lan chưa? Đã cưới cô vợ Việt Nam chưa? Chỉ cần anh bảo đấy là con anh, họ sẽ chu cấp cho tất cả, tiền ăn học và khám bệnh hàng năm. Đôi khi, tôi đã lo lắng vô ích về thực tại “một gia đình không chính thức” của mình, nhưng trên thực tế, chẳng có gì phải lo cả, khi anh công nhận chúng là con anh, nghĩa là chúng được hưởng mọi quyền lợi như bất cứ đứa trẻ nào. Họ cũng chẳng cần biết ai là mẹ của chúng.
Tuy tôi và các con tôi chưa một lần về Hà Lan nhưng cách đây vài năm, anh có cho tôi nói chuyện qua điện thoại với con trai anh. Cậu bé đã tốt nghiệp đại học, đã có người yêu và được bố cho biết: “Con còn có hai người em nữa ở Việt Nam, một lúc nào đấy, bố rất mong con gặp hai em, nhưng chưa phải bây giờ”. Với con gái, anh dè dặt hơn, vì sự nhạy cảm của cô bé. Anh sợ làm con buồn. Anh cưng cô côn gái lắm, có bốn con mà chỉ một mụn con gái mà. Cô bé cũng rất gần gũi bố. Chắc một lúc nào đó anh sẽ nói thôi, vì tất cả gia đình anh, bố mẹ các anh chị em đều biết “nhánh Việt Nam” của anh rồi. Từ khi tôi sinh cháu đầu và đang ở Ý, họ đã sang thăm, rồi lại đến Việt Nam mấy lần, ở ngay tại nhà tôi chơi với các cháu nội.
Hồi mới có nhau, bàn về nỗi niềm bên này hay bên kia, tôi từng giằn dỗi với anh: “Thôi anh về nhà anh đi, em ở lại đây để không ai gây tội lỗi cho ai, không ai gây bất hạnh cho những người thân”. Nghe tôi nói vậy, anh đã khóc, đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc: “Không thể thế được. Chắc chắn là anh phải có em. Vợ anh đã chấp nhận chia tay không chính thức và cô ấy cũng có bồ rồi. Anh đã quyết định như thế rồi thì làm sao em lại bảo anh đi về nhà anh, em về nhà em được”. Qua thái độ của anh, tôi cũng hiểu, có lẽ chưa đến thời điểm thích hợp để hợp pháp hóa mọi chuyện nên không bao giờ nhắc nhở đến lời hứa ấy nữa.
Đến bây giờ, cô con gái đã hai mươi rồi, vẫn chưa thấy gì, chỉ nói là “đang”, anh đang làm, đang tiến hành. Và tôi tin như vậy. Không bao giờ tôi nghĩ anh có điều gì đó không thật lòng với tôi. Tôi biết hoàn cảnh anh sống xa nhà, thường là dành hết thời gian nghỉ cho mấy mẹ con bên Việt nam. Một năm chỉ một hoặc hai lần, nhân những dịp thật đặc biệt mới bay về Hà Lan thăm bố mẹ và các con. Tôi cũng chẳng băn khoăn nhiều, nhưng đôi khi cũng thầm tự hỏi, thế lời hứa của anh cách đây gần chục năm, rằng đợi cho con gái anh trưởng thành qua sinh nhật mười bốn nó đến đâu rồi? Thỉnh thoảng tôi bâng quơ: “Con gái anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”. Chỉ vu vơ thế thôi. Chắc hẳn anh còn phải nhớ đến lời hứa của mình nhiều hơn tôi chứ!
Tôi biết, anh là người không muốn nói trước những điều chưa trọn vẹn, chỉ đôi khi hé mở ra rằng, anh lại đang tiến hành “việc đó”. Vừa rồi anh về Hà Lan, cũng điện thoại sang nói anh đang lo chuyện nhà cửa, làm tôi rất cảm động. Anh hỏi tôi thích có nhà ở vị trí tiện lợi đi lại chợ búa hay thích nhà lùi xa hơn trung tâm một chút nhưng có vườn và đất rộng. Tôi nghĩ mới sang chắc sẽ buồn bã lắm, nên tôi muốn trước mắt ở chỗ nào đó gần trung tâm thì tốt hơn.
Chúng tôi đã bàn với nhau những chuyện rất cụ thể như thế, cho nên tôi không một mảy may nghi ngờ anh có chuyện gì khuất tất, chần chừ cả. Tại sao tôi phải thúc giục? Dù là muộn nhưng thực tâm anh vẫn đang tiến hành mọi thủ tục để đi đến chính thức với tôi. Cái tâm của anh sáng rõ như thế thì dù dăm năm hay lâu hơn nữa, với tôi cũng chẳng quan trọng.
Cứ sau ba năm, anh lại chuyển đến một nước khác làm việc. Tôi và hai con ở Việt Nam, thỉnh thoảng đi thăm anh. Tình yêu của chúng tôi luôn ở trong tình trạng bị đói, luôn rất nồng nàn. Có lẽ thế lại hay. Vì chả ai nói trước được rằng nó sẽ không bị nhàm chán cả. Chả thánh tướng gì để mà nói được rằng tình yêu là mãi mãi. Bởi tình yêu là tinh thần chứ có phải là vật chất đâu mà bảo có thể giữ nó thế nọ thế kia. Và nếu không có tờ giấy kết hôn mà bù lại luôn có tình yêu thì cũng hay chứ sao?
Anh hứa sẽ lấy cái ngày tôi gọi anh trở lại Khách sạn ở Indonesia là ngày khai sinh cho tình yêu của chúng tôi. Sang năm, vào ngày đó, ngày chín tháng tư, là tròn kỷ niệm mười năm, chúng tôi sẽ làm một bữa tiệc coi như là chính thức. Gọi là cưới cũng chẳng phải vì đã có hai con rồi không lẽ mới cưới, nhưng để vui với nhau, lấy cớ kỷ niệm mười năm quen nhau. Rồi sẽ đặt một vài mâm cỗ, mời nội tộc gia đình họ hàng hai bên nội ngoại. Chắc rằng cũng chẳng ai dám hỏi thế hai đứa đã đăng ký kết hôn chưa? Chắc chắn là sẽ rất nhiều người muốn hỏi, chúng nó đã chính thức chưa mà sao không thấy làm cái gì. Những bà bác, họ hàng thân thiết thế nào chẳng nhỏ to với nhau thế nhưng sẽ chẳng ai biết để mà trả lời, còn hỏi thẳng mình thì không ai nỡ hỏi.
***
Abraham là người yêu nghệ thuật. Thời trẻ, anh từng thuộc rất nhiều bài hát của các ban nhạc nổi tiếng. Anh cho tôi xem những cái ảnh chụp thời anh để tóc dài, mặc áo chẽn theo kiểu dân xì ke ngày xưa. Từng có thời nổi loạn, ngang ngạnh lắm, cũng thử hết các kiểu sống cả rồi… Nhưng đó là chuyện của thời trai trẻ “ngông cuồng và rồ dại”. Cho đến nay, hầu như anh đã chinh phục được tất cả mọi thành viên trong gia đình tôi. Tôi cảm thấy, cuối đời, mình đã may mắn gặp được và dừng lại với một người đàn ông xứng đáng. Anh không chỉ rất đàn ông ở vóc dáng thể chất, mà còn thực sự là người dày dạn bản lĩnh đàn ông với thái độ sống tích cực, lạc quan. Đặc biệt, anh còn là người tình cảm, sống có tình có nghĩa, có trách nhiệm với bản thân và gia đình… những phẩm chất đạo đức mà người Việt Nam cực kỳ đề cao, tôn trọng.
Abraham yêu công việc của mình đến mức lý tưởng hóa nó, cứ ở đâu có khó khăn là anh muốn xung phong đi cứu trợ ở đó. Xác định làm việc cho Liên Hợp Quốc tức là làm việc thiện, anh luôn ghi nhớ lời bố anh dặn, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ mình, không được kiếm tiền một cách bất hợp pháp, thì mới được thanh thản và lâu dài. Có lần anh bảo: “Em có nghĩ rằng anh rất dễ dàng để trở thành triệu phú không? Anh có thể như thế được đấy? Không hiếm gì những lần người ta cố tình ấn tiền vào người anh. Mình đi làm công việc để cứu trợ người khác, không lý nào mình lại qua đó làm lợi cho mình. Trước khi rời Việt Nam, có người đã mang rất nhiều nhẫn, dây chuyền mặt ngọc đến ấn vào tay anh. Rồi lần đi Indonesia, chỉ cần đồng ý để mua lương thực của người ta, gửi cho một nước nghèo nào đó chẳng hạn, ký một chữ là nhận được bao nhiêu phần trăm thì nó nhiều khủng khiếp thế nào.
Nhưng anh không thể nào làm được vì coi đó là việc làm vô phúc. Anh không chấp nhận việc một ai đó nhân danh công việc từ thiện để làm tiền. Tại sao mình phải làm thế khi mà lương mình đã cao rồi, con cái mình thì được trợ cấp nuôi ăn học để mình khỏi bận tâm lo lắng, để toàn tâm toàn ý làm việc cho tốt, tại sao có thể đang tâm làm tiền như thế được”.
Nhờ tinh thần trách nhiệm của người làm việc trong một tổ chức luôn đi giúp đỡ cứu trợ những người gặp nạn, ở anh hình thành nên một nhân cách của một người có lương tâm, có trách nhiệm với công việc và gia đình. Khi chúng tôi bắt đầu có con, anh đã vạch ra một chương trình cụ thể từ A đến Z, đã tính đến tận năm nảo năm nào cho con rồi. Anh đã cho tôi cái điều tôi ao ước nhất: có người đàn ông giải quyết những việc nặng nhọc thuộc về cái xương sống của gia dình. Tôi cảm thấy nhẹ người. Không có lời nào tả xiết cái sự thanh thản và hạnh phúc của một người đàn bà, một người vợ không phải đầu tắt mặt tối lo chuyện kinh tế, tiền bạc. Anh đã chìa ra một bờ vai gánh giúp tôi những việc nặng nhọc đó rồi.
Nó không đơn giản chỉ là việc anh đủ sức kiếm tiền nuôi vợ con, nghe như tầm thường quá, nhưng về một nghĩa nào đấy, thì làm được như vậy mới đáng mặt đàn ông?
Như bố anh chẳng hạn, cụ nuôi được vợ, hai con riêng của vợ (chồng trước của bà mất), đẻ thêm sáu đứa con, rồi bốn người giúp việc trong nhà. Cho đến tận năm ngoái, trước khi bà mất, vẫn là ông nuôi bà bằng tiền hưu của ông. Bà chỉ có bổn phận chăm lo con cái cho ông đi làm. Rất tự nhiên, bổn phận người nào người ấy làm.
Người đàn ông không phải sinh nở, thức khuya dậy sớm chăm con, đưa con đi học, đi bệnh viện khi cần thiết, bởi cái thiên chức ấy, người phụ nữ biết lo toan khéo léo hơn.
Nhưng với sức vóc khỏe mạnh và trí thông minh, anh ta phải dấn thân ra ngoài xã hội, làm việc cật lực để chăm lo nuôi nấng gia đình vợ con. Chắc hẳn những người đàn ông thực thụ không bao giờ từ chối cái bổn phận ấy.
Khi chúng tôi sống ở Ý. Nhà tôi ở tầng ba, từ đó nhìn ra bốn cây thông người ta trồng từ bao giờ nay ngọn đã cao đến cửa sổ nhà mình. Tôi rất thích mở cửa để ngắm những cây thông ẩy. Từ dưới gốc cây thông, có những cây leo rất mỏng manh quấn quít theo cây thông lớn lên. Nó gợi cho tôi một hình ảnh đúng như ước nguyện của mình. Tôi gọi anh ra gần cửa sổ, tựa đầu vào bờ vai rộng rãi khỏe mạnh của anh, chỉ cho anh xem những cái cây ấy: “Anh có thấy không, anh như cây thông khỏe mạnh vững chãi, còn em thì chỉ là cây leo mỏng mảnh kia thôi, phụ nữ cần nơi nương tựa, hiện nay em đang cảm thấy như thế. Em chỉ có thể tả như thế, và em thấy con thuyền đời em đã tìm thấy bến, em mong muốn dừng lại ở cuộc sống với anh, thế là mãn nguyện”.
***
Từ khi có anh, cuộc sống của tôi tự nhiên đổi khác rất nhiều: đó là sự thay đổi trong chính con người tôi, tâm hồn mình, tính cách tôi. Ngày chính thức quan hệ với tôi, anh đặt luôn vấn đề hòa giải mâu thuẫn gia đình. Anh biết một sự thật mà tôi không né tránh: quan hệ giữa tôi và mẹ cực kỳ căng thẳng. Mẹ và tôi không bao giờ hỏi han đến nhau, chẳng bao giờ gặp mặt, thậm chí mẹ còn không hề nhìn mặt đứa con đầu lòng của tôi. Tình mẫu tử bị tổn thương trầm trọng đến mức gần như không thể nối lại. Mâu thuẫn bắt nguồn từ một chuyện rất cụ thể mà không giải quyết được và không biết đến bao giờ mới đủ nghị lực để nối lại quan hệ, cảm giác dù chỉ ở mức xã giao cũng khó khăn làm sao?
Biết tôi trực tính, dứt khoát nên anh từ từ khuyên nhủ: “Dù sao đấy là người đẻ ra mình, em có nhún mình đi một chút thì cũng chẳng thiệt gì, vì đó là mẹ mình chứ ai?”. Và anh đưa luôn ra ý kiến: “Anh có nguyện vọng, chính em đưa anh đến gặp những người trong gia đình em, mẹ và các em để chính thức nói về mối quan hệ của anh và em một cách đàng hoàng và công khai”.
Cái ngày ấy sao khó khăn thế! Bao nhiêu ngày không gặp, bây giờ dẫn anh lên, không biết nói năng gì, bắt đầu câu chuyện ra làm sao. Nhưng rồi, dù vẫn còn đầy giận hờn trong người, tôi vẫn phải phôn cho mẹ nói: “Anh ấy có nguyện vọng thăm bà, gặp gỡ mọi người trong gia đình nội ngoại, như một cách ra mắt chính thức”. Với nguyện vọng chính đáng như vậy thì rõ ràng là mình phải đáp lễ. Ông anh ruột của mẹ từ Hải Phòng lên, cậu em ruột cũng đến. Cả hai người đó đều nói tiếng Anh giỏi. Chúng tôi đã có một buổi gặp gỡ ấm cúng, trang trọng. Qua buổi ra mắt đó, tôi buộc phải nói chuyện lại với mẹ mình.
Với bố cũng thế, cứ hậm hực với đời, vì suốt một đời cống hiến không được phân nhà cửa bèn quay qua hục hặc với con gái: “Chỉ tại con Vân, tao có nhà của tao sao lại đưa tao lên đây ở, chúng nó thấy ở rộng rồi, nó mới không cho nữa”. Nghe ác kinh khủng. Nó hằn vào tim vào óc. Nhưng đó là bố mình, là mẹ mình. Chả lẽ lại giận? Nhưng đúng là có một cái gì đó đã chết đi, không lấy lại được nữa. Cố làm gì đó thì được nhưng không thể cố để thương yêu! Thế mà nhờ tấm lòng tình nghĩa và cách cư xử đàng hoàng, chín chắn của anh, mọi chuyện với bố cũng dần dần trở lại bình thường. Khi sự căng thẳng trong gia đình được giải tỏa, tôi như trút được gánh nặng, như cắt được một khối u nhức nhối lâu nay. Tôi vô cùng biết ơn anh về điều đó. Bây giờ mọi chuyện đã đỡ hơn nhiều, dịu đi nhiều.
Bình tĩnh nhìn lại, tôi thấy mình khác trước nhiều lắm. Tôi biết nhịn, biết nén lại, chứ không thẳng băng như với những người lạ bên ngoài. Thẳng băng theo kiểu nếu không thích thì dù chỉ dùng lại ở mức xã giao thôi cũng không thể? Tôi thấy nó cứ giả tạo thế nào ấy. Vậy mà tôi đã tĩnh tâm lại để nghĩ ngợi để hàn gắn, mong có chút thanh thản trong tâm hồn.
Mới đầu là vì anh mà phải nối lại quan hệ gia đình, bây giờ, thực sự nhìn lại mình, tôi nhận thấy: không phải lúc nào mình cũng đã làm đúng, làm tròn trách nhiệm của đạo làm con. Mình cũng đã làm nhiều điều không phải, nay tự nguyện nhún nhường, chẳng đi đâu mà thiệt. Dù có thể bị nghĩ là phải “xuống nước” cũng chẳng sao cả, vì đó là bổn phận, và khi đã làm trong bổn phận thì không ai có thể dèm pha chê trách được. Bởi người đời bao giờ cũng nhìn xuống lỗi của người con chứ chẳng bao giờ nhìn lên lỗi của bố mẹ. Nó là con cơ mà! Con dường như bao giờ cũng sai. Thế mà rồi cũng dằn lòng lại để biến mối quan hệ giữa những người ruột thịt thành không nặng nề. Tuy không xuất phát từ bản chất yêu thương nhưng cũng đã tạo được một tình cảm gần gũi hơn, có một chút nào đấy ấm cúng hơn.
Sau một thời gian dài tôi chẳng đến nhà ai, chẳng gặp ai, giờ thỉnh thoảng cả nhà lại xum họp với nhau, hoặc là kéo lên nhà bà hay nhà cô Khanh, hoặc là kéo nhau về nhà tôi bày biện ăn uống…
Một lần lên thăm mẹ tôi, chỉ chốc lát thôi mà anh để ý thấy trên giường bà có một tấm chăn cũ kỹ, một tấm chăn tiết kiệm từ thời nảo thời nào. Tết đến, anh bảo: “Anh thương cụ quá, sao cụ không có được một bộ chăn gối đẹp đẽ mà dùng”.
Tôi giải thích, không phải là cụ không có tiền, nhưng tính người già là thế, vẫn dùng dược thì tại sao lại phải vứt đi, vứt đi đâu? Anh nhờ tôi đưa đi mua cho cụ một bộ chăn vừa ấm vừa đẹp, bảo tôi mang lên nói với cụ: “Anh thấy bà đắp cái chăn ấy cũ rồi nên muốn mua tặng bà bộ chăn mới”. Hành động đó tưởng như đơn giản, nhưng nếu không xuất phát từ tình cảm chân thành và một sự quan tâm chăm sóc thiết thực thì không làm được. Anh đi rồi, tôi mới giật mình, xấu hổ. Anh làm được như vậy mà tại sao sống với mẹ bao nhiêu năm trời nay tôi không làm được? Có phải vì tôi cứ cứng lòng?
Hai bà bác ruột của tôi cũng rất quí anh, người già rất hay để ý những chi tiết nhỏ để nhận xét con người. Cứ đến Tết, bốn người trong cái gia đình nhỏ của tôi cũng cưỡi xe máy đến chúc Tết hai bà đầu tiên. Một lần sinh nhật anh, gọi là tổ chức cho vui, anh cũng bảo nhân cớ ấy mời hai bà đến chơi với các cháu. Tôi e ngại, sinh nhật ăn thì đáng là bao mà hai bà lại phải lo quà mừng, nhưng vì chiều anh tôi cũng mời phất phơ vậy thôi, thế mà hai bà đi thật? Hai bà già yếu, thuê xe ôm đi, mỗi bà một bó hoa, bỏ cả ông ở nhà để đi. Sau này còn kể mãi: “Cái thằng ấy người nước ngoài mà sao nó tình cảm thế! Con Vân nó chẳng nghĩ ra mời hai bà, thế mà nó lại vẫn nhớ để mời”.
Sau khi mẹ anh mất, anh lại càng hay nhắc nhở tôi, những gì em có thể làm cho bố mẹ bây giờ thì hãy làm ngay đi, kẻo sau này lại hối hận. Đừng để như anh, còn có bao nhiêu điều muốn làm cho mẹ mà không kịp nữa.
***
Nhìn bố mẹ anh, cụ bà 85, cụ ông 87, lúc nào cũng rủ rỉ rù rì chuyện trò như đôi chim cú già đầy ý nhị, tôi vô cùng thích thú và cảm phục. Không biết cụ ông nói gì mà cụ bà cứ tủm tỉm cười. Đi đâu cũng đi cùng nhau, chăm sóc nhau. Tôi nói với anh: “Nhìn bố mẹ anh em thèm lắm. Em ước, chúng mình phải học sao cho về già sống với nhau được như thế. Tốt với nhau cho đến tận cuối đời”. Bố mẹ tôi không được như vậy, vừa hết tuổi trẻ con là đã lấy nhau và sau đó là mối bất hòa triền miên. Các cụ nhà anh có đến tám người con mà con nào các cụ cũng yêu cũng quí. Cứ nhìn mắt các cụ là biết. Tôi tự hỏi, nhiều con thế, cụ có yêu người nào hơn người nào không nhỉ? Rồi lại trả lời, các cụ yêu thương tất cả như nhau, như mình có hai đứa con đây và không thể nói được là mình yêu đứa con nào hơn. Cùng là do mình đẻ ra, mình yêu tất.
Khi nói về con cái, mắt các cụ long lanh sáng ngời, thể hiện niềm tự hào và vô cùng hài lòng. Cụ ông nói: “Bố rất bằng lòng về chồng con, nó có một công việc tốt. Bản chất công việc này cũng mang lại một tấm lòng nhân hậu, chưa kể đến chuyện có một đỏng lương ổn định nuôi được vợ con”.
Anh yêu bố mẹ vô cùng. Rất ít khi được sống gần bố mẹ nên cứ nhắc đến họ là anh lại thương xót. Lần nào chia tay với mẹ, anh cũng sợ đấy là lần cuối. Làm việc xa nhà đã 25 năm, không có nhiều thời gian gần gũi trò chuyện với bố mẹ. Chỉ sợ đi xa, nhỡ một lúc nào đấy anh về mà không kịp.
Lúc nào cũng nơm nớp lo. Mồng 3 Tết vừa rồi, nghe tin cụ ngã bệnh nặng, đang ăn tết ở Việt Nam, anh phải bay thẳng về Hà Lan, vào thẳng bệnh viện. Cụ đã chết lâm sàng, chỉ còn nhịp tim vẫn đập. Anh kể: “Lúc đó, anh vẫn cố gắng nói thầm vào tai mẹ anh, sao anh muốn nói thế, anh mong mẹ nghe được anh nói, anh còn bao nhiêu điều muốn làm cho mẹ mà chưa thực hiện được. Anh còn muốn đưa mẹ đi chơi nơi này nơi kia, vào Casino cho biết. Muốn mua cho mẹ những bộ váy áo mà mẹ thích nhưng không kịp nữa. Kỳ lạ sao, hình như mẹ anh có nghe thấy những điều anh nói. Anh thấy mi mắt mẹ động đậy, một cử động tỏ ra là cụ có nghe thấy. Hai ngày sau, cụ ra đi”
Nhớ lại hai lần các cụ sang chơi Việt Nam, mỗi lần ở lại ba tuần, các cụ thích lắm, suốt ngày khen con dâu Việt Nam nấu ăn khéo. May làm sao, tôi vẫn còn kịp gặp và được sống chung với các cụ. Sau khi cụ bà qui tiên, cụ ông sống với một chú út chưa lấy vợ. Chú út không được khỏe nên mọi người bàn bán nhà của chú đi để chú về sống với ông cho tiện mọi người chăm sóc. Hàng ngày, có hai bà chị gái rất chu đáo đi qua nấu nướng chăm sóc ba người. Mấy anh chị em sống quây quần ở đó và thay phiên nhau sang chăm sóc cụ ông.
Ngày cụ bà chưa mất, anh bàn với tôi: “Anh muốn hỏi ý kiến em, nếu em thấy được thì anh rất vui. Rồi sẽ có một ngày, một trong hai cụ đi trước, không biết là ai, khi đó, nếu chúng mình về Hà Lan rồi, anh muốn đón người còn lại về ở với mình. Anh muốn được sống gần bố mẹ. Vì 25 năm lang thang, có mấy khi được về thăm bố mẹ. Đó là ước nguyện của anh, em thấy có phiền không?” Tôi trả lời anh ngay: “Em yêu quí bố mẹ anh thật lòng. Em sẽ rất vui nếu được đón các cụ về ở cùng. Các cụ không phải lo gì cả. Em sẽ chăm sóc các cụ cho các cụ vui tuổi già”
Khi người ta già đi, người ta cần được chăm sóc chiều chuộng như trẻ thơ. Nhất là đối với các cụ ông, mất cụ bà coi như mất nơi nương tựa. Không biết đến bao giờ chúng tôi mới được về đoàn tụ ở Hà Lan để mà đón cụ ông về ở cùng.
Tôi mơ ước sau này con mình cũng nhìn mình như thế. Nếu mình thương yêu dịu dàng với con lẽ nào nó lại ác với mình. Tôi đã bàn với anh, phải lên kế hoạch, khi trẻ con hết tiểu học, cả gia đình phải được sống đoàn tụ quây quần với nhau, dù chưa được về hưu, anh cũng phải xin nghỉ sớm đi. Con cái cần có cả bố lẫn mẹ. Nhất là khi trở thành thanh thiếu niên, chúng rất cần sự chăm sóc của bố. Chỉ mẹ thôi không đủ. Cái uy của phụ nữ không đủ mạnh, nhất là với hai cậu con trai. Dù mẹ có quát tháo ầm ĩ thế nào, chúng vẫn không thể răm rắp bằng một ánh nhìn nghiêm khắc của bố. Lương tiền cũng cần, nhưng biết bao nhiêu là đủ! Nếu anh cứ mải mê kiếm sống, con anh sẽ rất thiệt thòi vì bị thiếu hụt hẳn một bàn tay mạnh mẽ dậy dỗ của người cha. Cho nên, phải biết chọn đằng nào hơn? Dậy dỗ con cái hay tiếp tục kiếm tiền?
***
Abraham, anh như là một chất xúc tác giúp tôi hòa giải với thế giới mà tôi đang sống, đặc biệt là với cái gia đình ruột thịt mà tôi là một tế bào lạ cứ chực long ra ngoài. Có anh, tôi có một chỗ dựa vững chắc. Dù cho con đường phía trước có gặp bất cứ chông gai nào, tôi cũng không sợ hãi.
Hiện tại, mỗi lần anh về Việt Nam, mấy mẹ con lại hân hoan chuẩn bị dọn dẹp sửa sang nhà cửa như đón… tổng thống. Nếu ngày nghỉ dài, anh thích đưa các con đi chơi những nơi danh lam thắng cảnh như Sapa, Tam Đảo… Nếu chỉ ở nhà, anh thích mời ông bà, gia đình ăn một bữa cơm ngoài tiệm vì không muốn tôi vất vả.
Anh không bao giờ muốn tôi bán cái nhà Thụy Khuê này. Cứ giữ cái nhà này để mai sau con cháu có về thăm quê ngoại Việt Nam, chúng còn có chỗ ở. Anh bảo tôi thế. Và nhắc đi nhắc lại rằng: em đừng sợ, đừng lo lắng gì cả, anh đủ sức nuôi mấy mẹ con.
Tin anh, tôi ước nguyện được đi đến tận cùng đời sống với anh, bởi tôi biết, dù bất cứ lúc nào, nếu tôi kiệt sức mỏi mệt thì…
… ở nơi ấy luôn có một bờ vai rộng.