Những bộ xương tiến lên. Tạo thành hình lưỡi liềm bao quanh bọn tôi. Đồng nghiệp của chúng từ quán cà phê chạy ra nhập hội. Một tên vẫn đang lắp sọ trở lại vai. Tên khác thì phủ đầy sốt cà chua và mù tạt. Hai tên nữa đựng burroto trong khung xương sườn. Trông chúng chẳng có vẻ gì sung sướng cả. Chúng rút dùi cui ra và tiến lên.
“Bốn chọi mười một,” Zoxe nói khẽ. “Và chúng không thể chết.”
“Thật thú vị được phiêu lưu cùng các cậu.” Grover nói, giọng run rẩy.
Có cái gì đó sáng bóng đập vào mắt tôi. Tôi liếc mắt nhìn vào chân bức tượng. “Whoa,” tôi nói. “Ngón chân chúng thật là sáng.”
“Percy.” Thalia nói. “Giờ không phải lúc.”
Nhưng tôi không thể không nhìn chằm chằm vào hai bức tượng khổng lồ với hai đôi cánh cao như lá thư để mở. Chúng bị phơi nắng phơi sương thành màu nâu trừ các ngón chân, chúng đang toả sáng như những đồng penny mới, từ tất cả những lần mọi người chà lên chúng để cầu may.
Vận may. Phúc lành từ thần Zeus.
Tôi nghĩ về người nữ hướng dẫn viên trong thang máy. Đôi mắt xám và nụ cười của bà. Bà ấy nói gì nhỉ? Sẽ luôn có lối đi cho những ai đủ thông minh để tìm ra nó.
“Thalia,” tôi nói. “Cầu nguyện cha cậu đi!”
Cô trừng mắt nhìn tôi. “Ông ấy không bao giờ trả lời đâu.”
“Chỉ một lần này thôi,” tôi nài nỉ. “Hãy cầu xin sự giúp đỡ. Tớ nghĩ... tớ nghĩ những bức tượng kia có thể cho chúng ta chút may mắn.”
Sáu bộ xương giương súng lên. Năm tên còn lại tiến lên với dùi cui. Cách xa mười lăm mét, mười hai mét.
“Làm đi!” tôi hét lên.
“Không!” Thalia nói. “Ông ấy sẽ không đáp lời tớ đâu.”
“Lần này thì khác.”
“Ai nói vậy?”
Tôi do dự. “Thần Athena. Tớ nghĩ vậy.”
Thalia cau có giận giữ như thể cô ấy chắc chắn tôi bị điên.
“Cứ thử đi,” Grover năn nỉ.
Thalia nhắm mắt. Môi cô lẩm nhẩm lời cầu nguyện không thành tiếng. Tôi cũng cầu nguyện mẹ Annabeth, hi vọng bà chính là người phụ nữ trong thang máy - rằng bà đang giúp chúng tôi cứu con gái bà.
Không có gì xảy ra. Lũ bộ xương tiến sát. Tôi đưa cây Thuỷ triều lên tự vệ. Thalia nâng khiên lên. Zoxe đẩy Grover ra sau cô ấy và chĩa cung vào đầu bộ xương.
Một cái bóng đổ xuống người tôi. Tôi những tưởng là chiếc bóng của thần chết. Sau tôi nhận ra đó là bóng của chiếc cánh khổng lồ. Những bộ xương nhìn lên và quá muộn. Một tia sáng đồng loé lên và cả năm tên với vũ khí là dùi cui bị quét sang một bên.
Những bộ xương khác nổ súng. Tôi giơ áo khoác sư tử ra để bảo vệ nhưng không cần thiết. Những thiên thần bằng đồng bước ra trước mặt chúng tôi và gập cánh lại như
những chiếc khiêng. Đạn bay vèo vèo bật ra khỏi họ như mưa rơi xuống mái tôn. Cả hai thiên thần vung nhẹ cánh và lũ bộ xương bay sang bên đường.
“Ôi trời. Thật tuyệt khi được đứng dậy!” thiên thần thứ nhất nói. Giọng ông ta yếu và khàn khàn, như là chưa từng được uống nước kể từ khi được tạo ra.
“Ngươi nhìn ngón chân ta xem?” người còn lại nói. “Thần Zeus linh thiêng, lũ du khách đó đã nghĩ gì vậy?”
Bị các thiên thần làm choáng váng, tôi vẫn lo về lũ bộ xương hơn. Một vài trong số chúng đã gượng dậy, tập hợp lại, những bàn tay xương xẩu sờ soạng tìm vũ khí.
“Rắc rối rồi.” Tôi nói.
“Đưa chúng tôi ra khỏi đây!” Thalia hét lên.
Cả hai thiên thần nhìn xuống cô. “Con của Zeus à?”
“Đúng vậy.”
“Tôi có thể nhận thêm từ làm ơn không, thưa cô?” một thiên thần hỏi.
“Làm ơn!”
Hai thiên thần nhìn nhau nhún vai.
“Có thể.” Một người quyết định.
Và điều tiếp theo mà tôi biết là, một người chớp lấy Thalia và tôi, người kia chộp lấy Grover và Zoxe và chúng tôi bay thảng lên, qua con đập và dòng sông. Lũ bộ xương co rúm
lại thành những hạt bụi li ti bên dưới chúng tôi va tiếng hoả lực vẫn còn vang dội qua các sườn núi.
15. Tôi vật nhau với người anh sinh đôi của ông già Nôen.
“Hãy nói cho tớ biết khi mọi chuyện kết thúc,” Thalia nói, mắt nhắm tịt. Thiên thần bằng đồng vẫn đang giữ chặt lấy chúng tôi để chúng tôi khỏi ngã. Nhưng Thalia vẫn giữ chặt tay của anh ta như thể đó là thứ quý giá nhất trên đời này vậy.
“Tất cả đều ổn.” Tôi hứa.
“Có phải... có phải chúng ta đang ở rất cao không?”
Tôi nhìn xuống. Ngay dưới chúng tôi là những dãy núi tuyết phủ trắng. Tôi duỗi cẳng chân, đá tuyết từ trên một đỉnh núi.
“À,” tôi nói. “Không cao đến thế chứ”
“Chúng ta đang ở dãy Sierras!” Zoxe hét lên. Cô ấy và Grover đang bám lấy cánh tay của bức tượng còn lại. “Trước kia, tôi đã từng đi săn ở đây. Cứ theo tốc độ này, chúng ta sẽ đến San Francisco trong vài tiếng đồng hồ nữa.”
“Xin chào, xin chào, Frisco!” thiên thần đang giữ tôi và Thalia nói. “Anh bạn, Chuck này! Chúng ta lại có thể tới thăm những anh chàng ở Tượng đài Mechanics. Họ biết làm thế nào để tổ chức tiệt tùng!”
“Ôi trời,” thiên thần kia lên tiếng. “Tôi cũng tới đó.”
“Các anh đã tới San Francisco rồi sao?” Tôi hỏi,
“Thi thoảng chúng tôi có vài trò vui vẻ, phải không?” bức tượng phía tôi lên tiếng. “Những gã thợ cơ khí đấy đã mang chúng tôi tới bảo tàng Young và giới thiệu chúng tôi với quý bà đá cẩm thạch, hiểu chứ. Và ...”
“Hank!” một bức tượng khác cắt ngang. “Chúng chỉ là những đứa trẻ, anh bạn ạ.”
“Ồ, được rồi.” Nếu tượng đồng có thểđỏ mặt thì tôi thềlà Hank đã làm nhưthế. “Quay lại bay tiếp thôi.”
Chúng tôi tăng tốc. Tôi có thể nói rằng những thiên thần đang rất vui mừng. Những dãy núi khuất dần, và dần được thay bằng những ngọn đồi, và sau đó chúng tôi bay vút qua những trang trại, những thị trấn, những đường cao tốc.
Grover bắt đầu thổi sáo để giết thời gian. Zoxe buồn chán và bắt đầu bắn tên vào bất kì biển quảng cáo nào khi chúng tôi bay qua. Mỗi lần cô nhìn thấy mục tiêu của hàng bách háo nào đó - và chúng tôi bay qua cả tá những nơi như thế - cô ấy sẽ nhắm vào tâm điểm trên biển cửa hàng với tốc độ hàng trăm dặm một giờ.
Thalia nhắm chặt mắt suốt chặng đường đi. Cô thì thầm một mình như đang cầu nguyện.
“Lúc đó cậu đã làm rất tốt,” tôi nói. “Thần Zeus đã lắng nghe.”
Thật khó để nhận ra cô ấy đang nghĩ gì khi mắt cô ấy cứ nhắm chặt.
“Có thể.” Cô ấy nói. “Dù sao đi nữa, làm thế nào cậu có thể chạy thoát khỏi những bộ xương? Cậu nói chúng đã bao vậy cậu mà.”
Tôi nói cho cô ấy nghe về cô gái người trần kì lạ đó, Rachel Elizabeth Dare, người mà dường như có thể nhìn xuyên qua cả Màn Sương mù. Tôi đã cho rằng cô ta sẽ nói tôi bị điên nhưng cô ta lại chỉ gật đầu.
“Có một số người thường có khả năng như vậy đấy,” cô ấy nói. “Không ai biết là tại sao.”
Đột nhiên trong tôi loé lên và điều mà trước giờ tôi chẳng hề để ý. Mẹ tôi cũng như thế. Bà đã từng nhìn thất con Minotaur trên Đồi Con lai và biết chính xác đó là gì. Bà đã không hề bất ngờ khi năm trước tôi nói rằng bạn tôi Tyson thật sự là một Cyclops. Có thể bà đã biết tất cả từ trước. Tất nhiên bà cảm thấy lo cho tôi khi thấy tôi đang dần trưởng thành. Bà thậm chí còn có thể nhìn qua Màn Sương mù tốt hơn tôi.
“Ồ, cô gái đó khá phiền phức,” tôi nói. “Nhưng tớ thấy mừng vì không làm bốc hơi cô ta. Mọi chuyện có lẽ sẽ rất tồi tệ.”
Thalia gật đầu. “Là một con người bình thường thật là tuyệt.”
Cô ấy nói như thể đã phải suy nghĩ rất nhiều cho điều đó.
“Các cậu muốn hạ cánh ở đâu nào?” Hank hỏi, làm tôi chợt tỉnh khỏi giấc ngủ chập chờn.
Tôi nhìn xuống. “Whoa.”
Trước đấy tôi đã ngắm San Francisco trong những bức tranh, nhưng chưa bao giờ nhìn nó ngoài đời thường. Đây có lẽ là thành phố đẹp nhất mà tôi từng thấy - kiểu như một
Manhattan thu nhỏ lại, sạch sẽ hơn, nếu Manhattan được bao quanh bởi những ngọn đồi xanh mướt và sương mù. Một cái vịnh lớn và tàu thuyền, những hòn đảo, những chiếc thuyền buồn và cây cầu Cổng vàng nổi bật lên trên làn sương mù. Tôi nghĩ là mình nên chụp hình hay làm cái gì đó. Lời chào từ Frisco. Tớ vẫn chưa chết. Ước gì cậu ở đây.
“Ởkia.” Zoxe gợi ý. “Bên cạnh toà nhà Embarcadero.”
“Ý hay đó,” Chuck nói. “Tôi và Hank sẽ có thể trà trộn vào lũ chim bồ câu.”
Tất cả chúng tôi đều nhìn về phía anh ta.
“Đùa thôi.” Anh ta nói. “Lẽ nào những bức tượng không thể có khiếu hài hước hay sao?”
Hoá ra chúng tôi không cần phải trà trộn gì cả. Lúc này là sáng sớm và không có nhiều người xung quanh đây. Chúng tôi khiến một gã vô gia cư phải đờ đẫn trên bến phà khi thấy chúng tôi hạ cánh. Anh ta la lên khi thấy Hank và Chuck, rồi vừa chạy vừa kêu gào cái gì đó về những thiên thần làm từ kim loại đến từ sao Hoả.
Chúng tôi chào tạm biệt các thiên thần để họ bay tới bữa tiệc với những người bạn tượng đá. Đó cũng là lúc chúng tôi nhận ra mình chưa biết làm gì tiếp theo.
Chúng tôi đi về phía West Coast. Nữ thần Artemis đang ở đâu đó quanh đây. Tôi hi vọng Annabeth cũng thế. Nhưng tôi chưa có cách nào để tìm ra họ, và ngày mai là ngày Đông chí. Tôi cũng không có manh mối nào về con quái vật mà Nữ thần Artemis đang săn đuổi. Trong nhiệm vụ này lẽ ra nó phải tìm chúng tôi. Đáng lẽ nó phải “để lại dấu vết”, nhưng nó chẳng bao giờ làm thế. Giờ đây chúng tôi bị mắc kẹt ở bến phà này, không tiền bạc, không bạn bè, không may mắn.
Sau một cuộc thảo luận nho nhỏ, chúng tôi đồng ý rằng cần phải làm rõ bí mật của con quái vật đó là gì.
“Nhưng bằng cách nào?” tôi hỏi.
“Nereus,” Grover nói.
Tôi nhìn về phía anh ta. “Cái gì?”
“Đó không phải là những gì mà thần Apollo nói với cậu sao? Tìm Nereus?”
Tôi gật đầu. Tôi đã hoàn toàn lãng quên cuộc chuyện với thần mặt trời.
“Ông già của biển cả,” tôi nhớ là như vậy. “Tôi phải tìm ông ta và ép ông ta nói ra những gì ông ta biết. Nhưng làm sao tôi có thể tìm thấy ông ta?”
Zoxe nhăn mặt. “Ông già Nereus à?”
“Cậu biết ông ấy?” Thalia hỏi.
“Mẹ tôi là một nữ thần biển. Đúng thế, tôi biết ông ấy. Thật may là ông ấy cũng không khó tìm cho lắm. Chỉ cần lần theo mùi hương.”
“Ý của cô là gì?” tôi hỏi lại.
“Lại đây.” Cô ấy nói đầy hăng hái. “Tôi sẽ chỉ cho cậu xem.”
Tôi biết mình đang gặp rắc rối khi chúng tôi dừng lại ở chỗ cái thùng thư ở Goodwill. Năm phút sau, Zoxe trang bị cho tôi một chiếc áo sơ mi và vair flanen rách tả tơi, một chiếc quần jean rộng hơn cỡ của tôi 3 số, đôi giày thể thao màu đỏ nhạt, và chiếc mũ len mềm có màu sắc rực rỡ như cầu vồng.
“Ồ, yeah,” Grover nói, cốgiữkhông phì cười. “Cậu trông cực kì kín đáo rồi đấy.”
Zoxe gật đầu ra vẻ hài lòng. “Một gã lang thang điển hình.”
“Cảm ơn rất nhiều,” tôi gầm gừ. “Tại sao tôi phải làm điều này?”
“Tôi đã nói với cậu rồi. Để trà trộn.”
Cô ấy dẫn đường đi ngược về phía bến tàu. Sau hai tiếng đồng hồ tìm kiếm trên vũng tùa đậu này, Zoxe cuối cùng dừng lại trên một con đường nhỏ. Cô chỉ xuống chỗ cầu tàu khi
mà có cả tá những tên vô gia cư đang cùng nhau cuộn tròn trong những chiếc chăn, chờ đợi được phát món súp cho bữa trưa.
“Ông ấy sẽ ở đâu đó dưới đấy.” Zoxe nói. “Ông ấy không bao giờ đi quá xa mặt nước. Ông ấy thích sưởi nắng cả ngày.”
“Làm sao tôi biết được ai mới chính là ông ta?”
“Cứ lặng lẽ lại gần,” cô ấy nói. “Đóng giả làm một kẻ vô gia cư. Cậu sẽ nhận ra ông ấy. Ông ấy có mùi... rất khác.”
“Tuyệt thật.” Tôi không muốn hỏi chi tiết thêm nữa. “VÀ khi tôi tìm thấy ông ấy?”
“Chộp lấy ông ấy,” cô ấy nói. “Và ôm chặt lấy. Ông ấy sẽ tìm mọi cách để chạy trốn khỏi cậu. Dù ông ta có làm gì cũng đừng để ông ta chạy thoát. Hãy ép ông ta nói về con quái vật.”
“Bon tớ sẽ ở sau lưng cậu.” Thalia nói. Cô ấy lấy cái gì đó ra khỏi phía lưng áo tôi - một cụm lông lớn chẳng biết ở đâu ra. “Eo ơi. Nghĩ lại... tớ không cần cậu đáp trả lại. Nhưng chúng tớ sẽ ủng hộ cậu.”
Grover giơ cao ngón tay cái lên thể hiện sự đồn tình.
Tôi làu bàu vì thật tuyệt vời làm sao khi có những người bạn có sức mạnh siêu phàm. Sau đó tiến tới thẳng chỗ cầu tàu.
Tôi kéo lưỡi cái mũ xuống thấp, đi nghiêng ngả như sắp ngất đến nơi vậy. Làm điều đó cũng không khó lắm đủ để thấy tôi mệt như thế nào. Tôi đi qua anh bạn vô gia cư đến từ Embarcadero. Gã này đang cố cảnh báo những gã khác về những thiên thần bằng kim loại đến từ sao Hoả.
Mùi của anh ta không dễ ngửi cho lắm, nhưng anh ta không có mùi khác biệt. Tôi tiếp tục bước đi.
Hai anh chàng đầy cáu bẩn với chiếc túi đựng thực phẩm được dùng làm mũ nhìn thăm dò khi tôi tiến tới gần.
“Xéo ngay, thằng ranh!” một tên thầm thì.
Tôi bỏ đi. Bọn họ có mùi thật kinh khủng nhưng chỉ là cái mùi khó ngửi quen thuộc thông thường. Không có gì bất thường cả.
Có một người phụ nữ với một đàn hồng hạc nhựa nhô ra từ chiếc xe đẩy. Bà ta nhìn trừng trừng tôi như thể tôi sắp cướp mất lũ chim của bà ta vậy.
Phía cuối cầu cảng, một ông già trông khoảng một triệu năm tuổi đang bất tỉnh trong một khoảng đầy ánh nắng. Ông ta mặt một bộ pijama và chiếc áo choàng tăm màu trắng đã sờn. Ông ta béo, với bộ ria màu trắng đã chuyển dần sang vàng, có chút gì đó giống với ông gài Noen nếu như ông già Noen bị cuộn ra khỏi giường, và kéo lê đi khắp bãi rác.
Và mùi của ông ta?
Khi tôi tiến gần hơn, người tôi lạnh cứng lại. Mùi của ông ta thật tệ, đúng thế - những mùi khó ngửi của đại dương. Giống như mùi rong biển nóng, cá chết, và nước mặn. Nếu như đại dương có một mặt xấu xí... người đàn ông này chính là điều đó.
Tôi cố gắng không nôn oẹ. Tôi ngồi xuống cạnh ông ta như thể tôi đang rất mệt. Ông già Noen mở một mắt ra nhìn nghi hoặc. Tôi có thể cảm nhận thấy ông ta đang nhìn tôi chằm chằm, nhưng tôi không nhìn lại. Tôi lẩm bẩm vài điều về ngôi trường và những bậc phụ huynh ngu ngốc, chắc mẩm như vậy nghe sẽ hợp lý.
Ông già Noen nhắm mắt ngủ tiếp.
Tôi cảm thấy căng thẳng. Tôi biết làm việc này sẽ kì cục. Tôi không rõ những gã vô gia cư khác sẽ phản ứng như thế nào. Nhưng tôi nhảy bổ vào ông già Noen.
“Áaaaa!” ông ấy la lên. Tôi định ôm chặt lấy ông ta, nhưng thay vì thế ông ta lại như ôm chầm lấy tôi. Cứ như là ông ta chưa hề ngủ vậy. Ông ta không hề tỏ ra là một ông già ốm yếu. Ông ta có nắm tay chặt như thép. “Cứu tôi với!” Ông ta la lên khi đang siết chặt lấy tôi đến chết.
“Đó là một tội ác” một trong những kẻ vô gia cư kêu la. “Thằng bé vật lộn với ông già như vậy!”
Tôi cuộn tròn theo ý muốn - thẳng xuống chỗ cầu tàu cho đến khi đầu tôi đập mạnh vào cái cột trụ. Tôi choáng váng trong giấy lát và nắm tay Nereus thả lỏng. Ông ta đang giải lao chút. Trước khi ông ta có thể làm thế, tôi định thần lại và túm chặt ông ta từ phía sau.
“Tôi không có tiền!” ông ta cố vùng dậy bỏ chạy, nhưng tôi cố khoá chặt tay quanh ngực ông ta. Mùi cá thối rữa trên người ông ta thật kinh tởm, nhưng tôi giữ chặt.
“Tôi không muốn tiền,” tôi nói khi ông ta vẫn đang kháng cự. “Tôi là con lai! Tôi muốn một ít thông tin!”
Điều đó càng khiến ông ta chống trả quyết liệt hơn. “Những người anh hùng! Sao lúc nào các người cũng luôn bắt tôi?”
“Vì ông biết mọi thứ!”
Ông ta gầm gừ và cố gắng hất tôi ra khỏi lưng. Tôi bám vào ông ta như bám vào tàu trượt cao tốc vậy. Ông ta quẩy đập xung quanh khiến tôi không thể giữ thằng bằng, nhưng tôi nghiến răng, siết chặt hơn. Chúng tôi lảo đảo bước lên phía trước mép cáu tàu, và tôi có một sáng kiến.
“Ồkhông!” tôi nói. “Không phải là nước chứ!”
Kế hoạch đã thành công! Ngay lập tức, Nereus gào lên đắc thắng và nhảy xuống khỏi cầu tàu. Chúng tôi cùng nhau lao xuống vịnh San Francisco.
Ông ta chắc đã rất ngạc nhiên khi thấy tôi siết chặt cánh tay, đại dương đã tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Nhưng hình như Nereus còn có một vài thủ đoạn. Ông ta thay đổi hình dạng cho đến khi tôi ôm lấy một con hải cẩu màu đen béo tốt.
Tôi đã từng nghe người ta nói chuyện vui về việc cố gắng ôm lấy một con lợn được bôi mỡ, nhưng tôi phải nói cho bạn rằng việc bám vào một con hải cẩu trong nước còn khó hơn nhiều. Nereus lao thẳng xuống, uốn éo và quẫy đạp di chuyển theo hình tròn ốc xuyên qua làn nước tối om. Nếu tôi không phải là con trai của thần Poseidon, sẽ chẳng có cách nào khiến tôi có thể bám sát ông ta.
Nereus xoay tròn và mở rộng ra, biến thành một con cá voi sát thủ, nhưng tôi túm lấy vây trên lưng ông ta khi ông ta phun nước ra ngoài.
Một đám khách du lịch đến, “Oà!”
Tôi kiềm chế việc vẫy tay về phía đám đông. Yeah, chúng tôi làm thế này hàng ngày ở San Francisco.
Nereus lại lao xuống nước lần nữa và biến thành con lươn biển nhầy nhụa. Tôi bắt đầu thắt nút ông ta lại cho tới khi ông ta nhận ra chuyện gì đang diễn ra và bắt đầu biến lại thành hình dạng con người. “Tại sao ngươi không bị chết đuối?” ông ta rền rĩ, dùng nắm đấm đánh tôi túi bụi, liên hồi.
“Tôi là con trai thần Poseidon,” tôi nói.
“Nguyền rủa kẻ mới đến! Ta ở đây trước nhất!”
Cuối cùng ông ta co rúm ở mép bến tàu. Phía trên chúng tôi là một trong những cầu tàu
dành cho khách du lịch với hàng dài các cửa hiệu, giống như một trung tâm buôn bán lớn trên mặt nước. Nereus thở hổn hển, thở gấp. Tôi thấy rất tuyệt. Tôi có thể tiếp tục cuộc
chiến đó cả ngày, nhưng tôi không nói cho ông ta biết điều đó. Tôi muốn ông ta cảm thấy rằng mình đã chiến đấu rất giỏi.
Những người bạn của tôi chạy xuống bật thang trên cầu tàu.
“Cậu bắt được ông ấy rồi!” Zoxe nói.
“Cậu không cần phải sửng sốt vậy đâu,” tôi nói.
Nereus than vãn. “Ồtuyệt thật. Khán giảcho sự bẽ mặt của ta. Một cuộc giao dịch thông thường, ta hi vọng thế? Ngươi sẽ để ta đi nếu ta trả lời câu hỏi của ngươi chứ?”
“Tôi có hơn một câu hỏi,” tôi nói.
“Chỉ duy nhất một câu hỏi cho một lần rượt đuổi! Đấy là luật.”
Tôi nhìn lên phía những người bạn mình.
Điều này chẳng hay ho chút nào. Tôi cần phải tìm nữ thần Artemis, và tôi cần tìm ra cái tạo ra ngày tận thế là gì. Tôi cũng cần biết liệu Annabeth còn sống hay không, và làm thế nào có thể cứu cô ấy. Làm thế nào tôi có thể hỏi tất cả trong một câu hỏi?
Nhưng có một giọng nói trong tôi đang kêu gào: Hãy hỏi về Annabeth! Đó là thứ tôi quan tâm nhất.
Nhưng rồi sau đó tôi tưởng tượng ra điều mà Annabeth có thể sẽ nói. Cô ấy sẽ không tha thứ cho tôi nếu tôi cứu cô ấy mà không cứu Olympus. Zoxe muốn tôi hỏi về nữ thần Artemis nhưng bác Chiron đã nói với chúng tôi rằng con quái vật quan trọng hơn nhiều.
Tôi thở dài. “Được rồi, Nereus. Nói cho tôi biết phải đến đâu để tìm quái vật kinh khủng có thể đặt dấu chấm hết cho các vị thần - con quái vật mà nữ thần Artemis đang săn lùng?”
Ông già biển cả cười, để lộ hàm răng phủ đầy rêu xanh. “Ồ dễ thôi mà,” ông nói đầy ác ý. “Nó ở ngay đây.” Nereus chỉ vào chỗ ngay phía dưới chân tôi.
“Ở đâu?” tôi nói.
“Cuộc giao dịch đã kết thúc!” Nereus hả hê. Với một tiếng bốp, ông ta biến thành con cá vàng vút nhẹ ra biển.
“Ông lừa tôi!” tôi gào lên.
“Chờ đã.” Mắt Thalia mở to. “Cái gì vậy?” “Moooooo!”
Tôi nhìn xuống, và bạn tôi ở đó, con bò rắn, bơi ngay cạnh bến tàu. Nó huých vào giày tôi, đôi mắt nâu buồn bã nhìn tôi.
“À, Bessie,” tôi nói. “Không phải lúc này.” “Moooo!”
Grover thở hổn hển. “Nó nói tên nó không phải là Bessie.” “Cậu có thể hiểu cô bé... , cậu bé à?”
Grover gật đầu. “Đấy là một dạng ngôn ngữ cổ của động vật. Nhưng nó nói tên nó là Ophiotaurus.”
“Ophi-gì cơ?”
“Nó có nghĩa là bò rắn trong tiếng Hy lạp,” Thalia nói. “Nhưng nó đang làm gì ở đây?” “Mooooo!”
“Nó nói rằng Percy là người bảo vệ của nó,” Grover tuyên bố. “và nó đang chạy trốn khỏi bọn người xấu. Nó nói chúng đang ở rất gần.”