Long Phụng Bảo Thoa Duyên

Đoàn Khắc Tà trên mặt nóng rần, “Nguyên lai nàng đã sinh hài tử. Ta canh ở bên ngoài phòng sản phụ thì còn coi thế nào?” Chàng đang muốn bỏ đi, nhưng lại không biết chuyện bên ngoài ra sao, bản thân mình còn chưa lấy được giải dược, làm sao có thể hỗ trợ Ngạc Khắc Sấm tự chống cường địch được.

Đang lúc chần chừ chưa dứt khoát, chợt nghe “kẹt” một tiếng, cửa phòng mở ra, nông phụ kia chỉ chỉ vào bên trong cửa, ý muốn gọi chàng tiến vào. Đoàn Khắc Tà đỏ bừng cả mặt, chàng lúng túng nói:

“Cái này, cái này sợ rằng không tiện”.

Nông phụ kia không hiểu chàng nói gì, song nhìn thần tình của chàng thì cũng minh bạch mấy phần, bà ta liền làm mấy động tác, tỏ vẻ rằng trong phòng đã được thu dọn sạch sẽ, rồi liền kéo chàng tiến vào.

Đoàn Khắc Tà có đang dùng dằng, thì thanh âm run rẩy của Sử Triêu Anh truyền đến:

“Khắc Tà, ngươi có thể tiến vào rồi. Ta có chuyện nói cùng ngươi, lúc này, ngươi cũng không cần kiêng kị nhiều như vậy. Ngươi không nguyện ý gặp ta một chút sao? Ta cầu xin ngươi đó!”

Thanh âm rất yếu ớt, nhưng cũng còn nghe được rõ ràng.

Đoàn Khắc Tà nghe thấy nàng nói đáng thương như vậy, trong lòng cũng nổi lên niềm trắc ẩn, chàng không dùng dằng nữa, để cho nông phụ đưa chàng vào trong sản phòng. Chỉ thấy Sử Triêu Anh mặt vàng như ghệ, nửa nằm nửa ngồi dựa vào thành giường, trên giường còn có một có một đứa nhỏ sơ sinh được bọc bằng vải gấm đỏ thẫm, đứa nhỏ cũng đã ngừng khóc. Trong phòng bày một lò hương, dưới đất đã quét dọn sạch sẽ.

Đoàn Khắc Tà bảo:

“Mưu phu nhân, cung hỉ ngươi mẫu tử bình an, ngươi, ngươi có chuyện gì muốn nói với ta?”

Sử Triêu Anh không trả lời câu hỏi của chàng, nàng lại hướng đứa nhỏ sơ sinh, chỉ nó mà nói rằng:

“Ngươi ôm nó đến đây, cho ta nhìn một chút”.

Đoàn Khắc Tà làm theo lời nàng, chàng ôm đứa bé đến trước mặt nàng. Sử Triêu Anh bảo:

“Là một đứa bé khỏe mạnh, ngươi xem nó có khả ái hay không, có giống ta không?”

Đoàn Khắc Tà đáp:

“Khả ái lắm, cũng rất giống ngươi nữa”.

Kỳ thật đứa nhỏ này càng giống Mưu Thế Kiệt hơn.

Sử Triêu Anh trên khuôn mặt tiều tụy hiện ra nét tươi cười, nàng bảo:

“Thực sự là giống ta ư, ngươi có thích hài tử của ta không?”

Đoàn Khắc Tà nói luôn:

“Thích, có thích!”

Chàng từ khi sinh ra, đây là lần thứ nhất ôm một đứa trẻ sơ sinh, không hề có kinh nghiệm gì, sợ làm rơi nó, nên ôm chặt hơn một chút.

Đứa nhỏ đột nhiên lại “Ô oa” gào khóc, tay nó quờ quờ vào mặt chàng.

Sử Triêu Anh nói:

“Nam nhân việc nặng có thể làm, nhưng lại không thể thay thế nữ nhân nuội dạy hài tử được”.

Nàng hướng nông phụ kia nói một câu gì đó, nông phụ liền đến ôm lấy đứa nhỏ, rồi cho nó uống sữa dê, đứa nhỏ đang khóc tức thì ngưng bặt. Đoàn Khắc Tà lúc này mới như trút được gánh nặng ngàn cân.

Đoàn Khắc Tà đang nói mở lời, thì Sử Triêu Anh lại cướp lời nói trước:

“Khắc Tà, ngươi cũng nên thành thân đi. Ôi, vị Sử cô nương kia của ngươi không biết hận ta như thế nào?”

Đoàn Khắc Tà nghĩ bụng, “Ngươi dùng thủ đoạn bắt ta đến đây, Nhược Mai chỉ sợ còn không biết ta có còn sống ở nhân gian hay không, đương nhiên là nàng hận chết ngươi rồi”. Nhưng thấy Sử Triêu Anh sau khi sinh, dung nhan tiều tuy, hơi thở yếu ớt, nhưng điều trong lòng chàng nghĩ lại không tiện nói thật ra với nàng, lập tức chàng chỉ đành hàm hồ trả lời:

“Ta nếu như rời khỏi đây, sẽ hướng nàng mà giải thích cho ngươi, nàng ta mặc dù có chút ít nhỏ nhen, nhưng cũng là người rất rộng lượng”.

Sử Triêu Anh liếc mắt nhìn chàng, dường như có điều suy nghĩ, thật lâu vẫn không nói gì. Đoàn Khắc Tà bảo:

“Mưu phu nhân, ngươi nếu như không có gì để nói, ta thực sự là có một việc muốn xin ngươi”.

Sử Triêu Anh đột nhiên ngẩng đầu lên hỏi:

“Bên ngoài xảy ra chuyện gì, ta nghe dường như có tiếng chém giết?”

Sau khi nàng sinh được nửa canh giờ, tình thần cũng hơi hồi phục, mơ hồ nghe được tiếng chém giết.

Đoàn Khắc Tà vội vàng nói:

“Tinh Tinh Nhi và mấy người võ công rất lợi hại đã xông vào chùa, muốn bắt ta và ngươi. Mấy người Huyễn Diệt phương trượng, Huyễn Không pháp sư đã cùng bọn họ động thủ. Ta chính là vì việc này mà đến....”

Sử Triêu Anh thản nhiên nói:

“Nơi này cực kỳ bí mật, Phương trượng đã đáp ứng ta, quyết sẽ không tiết lộ bí mật của ta, chắc chắn lão khỉ giả đó cũng không tìm được đến đây, ngươi có thể an tâm rồi”.

Đoàn Khắc Tà bảo:

“Hầy, ngươi thế nào lại chỉ nghĩ đến mình như vậy? Mấy người kia lợi hại phi thường, chỉ sợ Phương trượng cũng không phải đối thủ của bọn chúng. Ngươi mang giải dược cho ta, ta muốn hỗ trợ bọn họ một tay! Bằng không Ngạc Khắc Sấm tự này bị hủy rồi, chúng ta sớm muộn cũng sẽ rơi vào tay bọn chúng”.

Sử Triêu Anh cười buồn bã nói:

“Ngươi trách ta rất đúng, ta luôn nghĩ đến mình nhiều hơn. Bây giờ ta còn có một chuyện muốn vì mình mà trù mưu, đây cũng là một lần tối hậu ta cầu xin ngươi, ngươi chịu khó nhẫn nại nghe ta nói một chút được không? Cũng không mất nhiều ít bao lâu thời gian”.

Đoàn Khắc Tà một lòng quan tâm đến chuyện bên ngoài, lúc này trận ác đấu bên ngoài sớm đã đình chỉ, Đoàn Khắc Tà không nghe thấy tiếng chém giết nữa thì lại càng kinh hoảng, “Chẳng lẽ Ngạc Khắc Sấm tự đã hoàn toàn bại rồi ư, mấy người Huyễn Diệt và chúng cao tăng đều đã bị bắt rồi sao?” Nhưng không lấy được giải dược, có gấp cũng không được gì, chàng chỉ đành vội vàng nói:

“Ngươi có chuyện gì thì nhanh nhanh nói ra đi!”

Tâm thần chàng không chăm chú, căn bản là không cẩn thận nghiền ngẫm ý tứ trong lời nói của Sử Triêu Anh.

Sử Triêu Anh thở dài bảo:

“Ta biết ta cả đời này không phải với ngươi, nhưng trên đời ta đã không còn người thân, mặc dù ngươi coi ta là cừu nhân, ta lại còn điều muốn ủy thác cho tri kỷ, chỉ có thể coi ngươi xem như bằng hữu”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Ngươi có chuyện gì cần ta tương trợ, cứ nói ra đi. Ta sẽ tận hết sức mà làm”.

Sử Triêu Anh đưa mắt ngắm chàng, nàng hỏi:

“Vậy là ngươi đã tha thứ cho ta?”

Đoàn Khắc Tà thứ nhất là muốn nàng ta nói cho nhanh, thứ hai cũng quả thật đối với nàng có chút lòng thương xót, chàng liền gật đầu nói:

“Ta cũng không phải là người hẹp lượng mà nuôi hận, ta đã tha thứ cho ngươi”.

Sử Triêu Anh lại lần nữa lộ ra nét tươi cười nàng bảo:

“Được, vậy, ta xin ngươi hãy chiếc cố đến hài tử của ta, ngươi có bằng lòng hay không?”

Đoàn Khắc Tà trong lòng mơ hồ cản thấy có điềm bất tường, chàng hỏi:

“Mưu phu nhân, ngươi vì cớ gì mà lại nói lời này? Ta cùng với phu phụ ngươi tuy có hiềm khích, nhưng bây giờ Thế Kiệt đã chết, chỗ cựu oán này cũng sớm một bút gạch bỏ rồi. Hài tử của ngươi cũng là điệt nhi của ta, ngươi đã tin tưởng ta, ta đương nhiên là sẽ chiếu cố nó, ngươi an tâm mà điều dưỡng đi”.

Sử Triêu Anh nghe chàng nói khẩn thiết như vậy, khuôn mặt ủ ê mới giãn ra, mặt cười như hoa nở, nàng nói:

“Đa tạ ngươi đã tha thứ, vậy là ta có thể yên tâm được rồi!”

Nàng lấy ra trong mình một chiếc kim hạp [1], rồi nói:

“Giải dược ở đây, ngươi tự mình lấy đi, dùng nước mà uống, chỉ một viên là đủ rồi”.

Đoàn Khắc Tà mừng rỡ, chàng tiếp lấy giải dược, đương lúc đang phục giải dược thì Sử Triêu Anh lại nói:

“Bảo kiếm của ngươi, ta cũng nên giao trả lại cho ngươi”.

Thanh kiếm này là lúc đầu khi chàng bị Sử Triêu Anh bắt thì nàng ta đã đoạt của chàng.

Đoàn Khắc Tà đang muốn quay mình lại tiếp lấy kiếm thò chợt nghe “Sát....” một tiếng, Sử Triêu Anh đã cắm thanh kiếm vào trong lồng ngực mình, thều thào nói:

“Có ngươi chiếu cố hài tử của ta, ta có thể không cần phải quan tâm đến đứa nhỏ này nữa!”

Đoàn Khắc Tà cả kinh khôn xiết, chàng thất thanh kêu lên:

“Mưu phu nhân, ngươi sao phải khổ như vậy?”

Nhưng chàng bước lên cứu thì đã không còn kịp nữa rồi. Đoàn Khắc Tà đỡ lấy thân thể nàng, chỉ thấy ba thước kiếm đã cắm sâu vào ngực nàng hơn một nửa, như vậy quyết không thể cứu được nữa.

Sử Triêu Anh đứt quãng nói:

“Thế Kiệt, muội đã nói muốn theo huynh, bây giờ muội đến cùng huynh tương hội, huynh ước chừng cũng sẽ tha thứ cho muội? Huynh có nghe thấy Khắc Tà gọi muội một tiếng ‘Mưu phu nhân’ không? Không sai, muội thủy chung là thê tử của huynh!”

Thanh kiếm này nếu rút ra, Sử Triêu Anh sẽ liền lập tức tử vong, Đoàn Khắc Tà không dám rút bảo kiếm ra, chàng đỡ lấy thân hình nàng, cảm thấy mờ mịt không biết phải làm sao, thanh âm của Sử Triêu Anh càng nói chàng yếu, chợt nghe có tiếng bước chân chạy đến, có người gọi: “Khắc Tà!” lại có người gọi: “Anh nhi!” Thanh âm trước là tiếng của Sử Nhược Mai, còn phía sau là tiếng của Tân Chỉ Cô.

Nguyên lai Tân Chỉ Cô đoán định rằng Đoàn Khắc Tà đang ở trong phòng đồ đệ mình, bà liền hỏi Huyễn Diệt nơi ẩn thân của Sử Triêu Anh rồi cùng Sử Nhược Mai, Niếp Ẩn Nương, ba nữ nhân tìm đến. Mấy người Không Không Nhi, Phương Ích Phù vì là nam tử, cho nên không tiện cùng bọn họ đến nơi, còn lưu lại bên ngoài. Đáng tiếc là bọn họ còn đến chậm một bước.

Sử Triêu Anh hai mắt đã khép lại, nghe được giọng của bọn họ, tinh thần chấn động, nàng lại mở mắt ra nói:

“Khắc Tà, đáp ứng ta sớm ngày cùng Sử cô nương thành hôn. Ta bây giờ lấy cái chết để tạ lỗi với hai người, chỉ còn một chuyện khiến ta không an lòng, đó là ta hổ thẹn với sư phụ. Sư phụ người có chịu trong giờ phút con lâm trung mà thu lại con vào môn hộ không?”

Khi nàng nói mấy lời này thì Tân Chỉ Cô cũng đã bước vào, bà kêu lên một tiếng “Anh nhi”, rồi nhào đến ôm lấy nàng.

Sử Triêu Anh nói:

“Sư phụ, người đã chịu tha thứ cho đồ nhi rồi chứ?”

Tân Chỉ Cô nước mắt doanh tròng, bà nói:

“Vi sư cũng có chỗ không đúng. Ôi, Anh nhi, con, con yên tâm ra đi, hài tử của con, ta sẽ thay con nuôi dưỡng, lớn lên ta sẽ bảo nó đi theo Đoàn Khắc Tà, như vậy nó quyết sẽ không đi vào tà lộ nữa”.

Sử Triêu Anh mỉm cười, bảo:

“Như vậy là con an tâm rồi. Các người đối với ta đều rất tốt, đáng tiếc, đáng tiếc, ta tự mình không có học theo gương tốt....”

Nói đến câu cuối cùng thì thanh âm của nàng đã mỏng manh như tơ. Tân Chỉ kêu lên:

“Anh nhi!”

Chỉ cảm thấy thân thể nàng dần dần cương lãnh, thử xem mũi nàng thì hơi thở đã đoạn rồi.

Tân Chỉ Cô rút bảo kiếm ra, lau sạch vết máu, bà yên lặng không nói trao kiếm lại cho Đoàn Khắc Tà. Sau đó bà kéo tấm chăn phủ quá đầu Sử Triêu Anh, đắp kín thân thể nàng, rồi buông trướng tử xuống.

Đứa trẻ mới sinh tựa hồ như cũng cảm thấy không khí nhưng trọng ảm đạm, nó lại “Ô Oa” khóc lên. Tân Chỉ Cô ôm đứa nhỏ, bà nói:

“Đừng khóc, đừng khóc, con lớn lên sẽ không giống như cha mẹ mình, con sẽ phải là một đại trượng phu chính trực cương cường. Khắc Tà, nó lớn lên ta sẽ phó thác cho ngươi, ngươi có chịu đồng ý không?”

Đoàn Khắc Tà đang lo bản thân mình và Sử Nhược Mai đều không biết chăm sóc trẻ con, nay có Tân Chỉ Cô nhận trách nhiệm nuôi dưỡng, thật là quá tốt rồi, đương nhiên là chàng nhận lời.

Không Không Nhi, Phương Ích Phù mấy người còn ở Phật đường cùng với mấy tăng lữ của Ngạc Khắc Sấm tự là Huyễn Không, Huyễn Diệt đang ở một nơi. Tân Chỉ Cô ôm đứa nhỏ ra gặp mặt bọn họ, rồi kể lại sự tình của Sử Triêu Anh, mọi người lúc này thấy nàng sám hối trước khi chết, cũng đều không khỏi than thở.

Tân Chỉ Cô mang hậu sự của Sử Triêu Anh nhờ Huyễn Diệt liệu lý cho, và xin hai túi sữa dê, chuẩn bị trên đường sẽ để nuôi đứa nhỏ,mọi việc dặn dò ổn thỏa, liền cùng Huyễn Diệt phương trượng cáo biệt.

Huyễn Diệt mang tuấn mã mà Sử Triêu Anh cưỡi giao lại cho Đoàn Khắc Tà, thất mã này vốn là của Tần Tương tặng Đoàn Khắc Tà, sau lại bị Sử Triêu Anh đoạt mất. Huyễn Diệt dẫn đầu chúng cao tăng tiễn họ ra khỏi cổng chùa, lại một lần nữa cảm tạ ơn cứu nạn của Không Không Nhi, lúc đó mới nói lời từ biệt.

Không Không Nhi bảo:

“Ta cùng với Tân Chỉ Cô trở về núi gặp sư nương, mang Tinh Tinh Nhi giao cho người xử trí, cũng là để bố trí ổn thỏa nơi ở cho đứa nhỏ. Khắc Tà, ta nghĩ ta có thể đến kịp để uống một chén hỉ tửu của đệ”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Trước tiên phải uống rượu mừng của sư huynh, sau đó sẽ uông rượu của đệ”.

Không Không Nhi lấy Kim Tinh đoản kiếm của Tinh Tinh Nhi ra, đưa cho Đoàn Khác Tà rồi dặn:

“Thanh kiếm này vốn là bảo vật gia truyền của Sở Bình Nguyên, ta thời trẻ lúc còn hoang đường, thấy bảo vật liền đánh trộm, sau khi thanh kiếm này đến tay ta thì lại tặng cho Tinh Tinh Nhi, để cho hắn đi gây ác, thật là có lỗi với Sở gia. Sở Bình Nguyên lần này vì tìm đệ, thật là rất tận tâm tận lực, nghe nói y bây giờ đang dưỡng thương ở Y Khắc Chiêu Minh, thanh khiếm này sẽ do đệ giao trả lại cho y”.

Sử Nhược Mai nói:

“Không sai, Sở Bình Nguyên bị thương ở Y Khắc Chiêu Minh, có đến một nửa nguyên nhân là vì huynh, huynh ấy nếu không phải vì huynh sẽ không chạy đến Y Khắc Chiêu Minh. Một hảo bằng hữu như vậy, huynh hẳn là phải đến thăm qua”.

Đoàn Khắc Tà lấy làm kinh hãi:

“Sở đại ca bị thụ thương, thương thế có nặng không?”

Sử Nhược Mai mang đoạn tao ngộ với Sở Bình Nguyên ở Y Khắc Chiêu Minh ra kể lại cho Đoàn Khắc Tà. Đoàn Khắc Tà than:

“Vì chuyện của ta mà làm liên lụy đến nhiều bằng hữu phải bôn ba, Sở đại ca lại còn bị thương nữa. Trong lòng ta thật bất an, đương nhiên là phải đến thăm huynh ấy trước”.

Hạ Lăng Sương cùng với Sở Bình Nguyên không quen biết, bà nói:

“Bây giờ Khắc Tà đã thoát hiểm, ta phải về trước báo tin cho Thiết Ma Lặc, để y khỏi lo nghĩ!”

Lập tức mọi người chia tay ai đi đường nấy. Thất mã của bốn người Đoàn, Sử, Phương, Niếp đều là tuấn mã bất phàm, nhưng đường đến Y Khắc Chiêu Minh phải đi qua thảo nguyên, đầm lầy và sa mạc, trung gian còn có một số vùng là thuộc địa của Hồi tộc, có binh lĩnh của họ đóng ở đó. Bọn họ không muốn có nhiều phiền toái, cho nên thường xuyên phải chọn đường vòng mà đi, đi đến gần một tháng thì mới đến được Y Khắc Chiêu Minh.

Khi đến sơn cốc nơi Tát Ba Vương Công sống, các võ sĩ của Y Khắc Chiêu Minh còn nhận ra mấy người Phương, Niếp, mãi từ xa khi nhìn thấy bọn họ thì đã liền đến báo tin cho Tát Ba Vương Công.

Tát Ba Vương Công cùng con gái Hương Bối cách cách đích thân ra ngoài nghênh tiếp đón họ vào trướng bồng. Đoàn Khắc Tà liền vội vàng hỏi ngay về Sở Bình Nguyên.

Tát Ba Vương Công nói:

“Thương thế của Sở đại hiệp đã lành rồi. Thế nhưng bây giờ y không có ở đây”.

Đoàn Khắc Tà thoáng ngẩn người rồi hỏi:

“Huynh ấy đi đâu vậy?”

Tát Ba Vương Công đáp:

“Cũng không có đi đâu. Hôm qua thám tử của chúng ta về báo, có một đạo binh mã của Hồi tộc vượt qua biên cảnh, Sở đại hiệp xung phong cùng với các dũng sĩ của chúng ta đi trước chặn đánh. Chắc là ngày mai sẽ có thể quay lại”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Đã như vậy, không bằng chúng ta cũng đến trợ trận”.

Tát Ba Vương Công bảo:

“Tình cảnh của Hồi tộc bây giờ rất bất lợi, đoán chừng bọn chúng không dám đại cử động binh với chúng ta. Theo như báo cáo của thám mã, đám nhân mã phát hiện được quân số cũng không nhiều, rất có khả năng chỉ là đến để nghe ngóng hư thực, tối đa cũng chỉ mang tính chất tụ tập quấy nhiễu mà thôi. Dũng sĩ của chúng ta đã tập trung tại biên cảnh, lại có thêm Sở đại hiệp hỗ trợ, nhất định có thể ứng phó được. Ta nghĩ, cũng bất tất phải nhọc sức các người nữa”.

Đoàn Khắc Tà nghe Vương Công nói rất chắc chắn, hơn nữa đoán định ngày mai Sở Bình Nguyên liền có thể quay lại, cho nên chỉ đành nghe theo sự an bài của lão, đề nghị vừa rồi cũng thôi.

Niếp Ẩn Nương bảo:

“Tháng này, chúng ta trên đường ngựa không dừng vó, tin tức bên ngoài không biết chút nào. Vương Công nói tình cảnh của Hồi tộc rất bất lợi, không biết rốt cuộc là như thế nào?”

Tát Ba Vương Công đáp:

“Thổ Hồn Cốc cùng Hồi tộc đã khai chiến, quân đội của Sư Đà Quốc vốn là thuộc sự chỉ huy của thống soái Hồi tộc, trú ở Trường An, bây giờ cũng đã phản lại Hồi tộc, ban sư hồi quốc, đuổi sạch toàn bộ kỵ binh của Hồi tộc đóng trong nước họ. Còn nữa, ở Tây Vực, phàm là nước nhỏ cũng kết thành liên minh, tuy chưa hưng binh cùng Hồi tộc đối địch, nhưng cũng không còn nghe hiệu lệnh của bọn chúng”.

Niếp Ẩn Nương nói:

“Nói như vậy, kế hoạch của Vũ Văn cô nương đều đã nhất nhất thực hiện rồi”.

Hương Bối cách cách nói:

“Đây đều là may nhờ ngày ấy có các ngươi tương trợ, bắt được tên tặc vương tử và Tiểu vương gia của Hồi tộc binh mã Đại nguyên soái”.

Niếp Ẩn Nương bảo:

“Chúng ta chỉ góp một chút sức nhỏ, tính làm cái gì. Nói ra đều là công của các người trượng nghĩa tương trợ cùng Sở đại hiệp trù tính”.

Tối đó Tát Ba Vương Công thiết yến tiệc khoản đãi mấy người Đoàn Khắc Tà trong trướng, đang lúc rượu quá tam tuần thì chợt nghe bên ngoài có tiếng võ sĩ cảnh vệ reo lên:

“Sở đại hiệp và Lô tướng quân đã trở lại”.

Mọi người mừng rỡ, vội vàng theo Tát Ba Vương Công bước ra mở trướng bồng nghênh đón. Dưới ánh đuốc, chỉ thấy Sở Bình Nguyên và một võ sĩ của Y Khắc Chiêu Minh đã xuống ngựa trước tướng.

Phương, Niếp hai người nhận ra võ sĩ này chính là hảo thủ đấu vật đệ nhị của Y Khắc Chiêu Minh - Lô Thạch.

Sở Bình Nguyên đột nhiên phát hiện Đoàn Khắc Tà và Sử Nhược Mai cùng ở một chỗ nghênh đón y thì thực sự vui mừng khôn xiết. Đoàn Khắc Tà cười nói: “Chuyện của đệ từ từ sẽ nói, trước tiên nói chuyện của huynh đi”.

Tát Ba Vương Công bảo:

“Đúng đó, các ngươi thế nào lại nhanh trở về như vậy? Ta còn tưởng rằng tối thiểu cũng phải đến ngày mai mới có thể quay về. Trận này đánh thắng không?”

Sở Bình Nguyên đáp:

“Căn bản là không có chiến tranh. Nguyên lai là một đám nhân mã Hồi tộc mang đồ tống lễ đến cho lão nhân gia”.

Tát Ba Vương Công lấy làm lạ hỏi:

“Tống lễ cho ta? Đây thật là kỳ sự đó!”

Lô Thạch cười thưa:

“Một điểm cũng không sai, là đến tống lễ cho chúng ta và bồi tội. Ba mươi bảy con lạc đà làm lễ vật, thực cũng không có tệ. Vương tử Hồi tộc gây sự ở nơi chúng ta, Khả Hãn của bọn chúng sợ chúng ta lấy cớ này, mà xuất binh cùng Sư Đà Quốc giáp công bọn chúng. Ha ha, bọn chúng hung ác bá đạo, luôn hoành hành vô kỵ, lúc này lại cần phải đối tốt với chúng ta rồi!”

Tát Ba Vương Công cũng cười ha hả rồi nói:

“Hồi tộc vốn chỉ bắt nạt kẻ yếu sợ kẻ mạnh. Từ trước đến nay, chúng ta sợ bọn chúng, bọn chúng vẫn khi áp chúng ta. Bây giờ chúng ta cứng rắn thì bọn chúng lại muốn đến bồi tội. Người của bọn chúng đâu?”

Lô Thạch đáp:

“Ba Sơn tướng quân hộ tống bọn chúng. Chúng tôi sợ người lo lắng nên về trước tấn báo”.

Ba Sơn là đệ nhất dũng sĩ của Y Khắc Chiêu Minh, lần này là do y suất lĩnh dũng sĩ bổn tộc đến biên cảnh chặn đánh binh mã của Hồi tộc.

Sau khi nói xong chuyện Hồi tộc, Đoàn Khắc Tà mới có cơ hội hướng Sở Bình Nguyên cảm tạ. Sở Bình Nguyên nói:

“Chúng ta tình như huynh đệ, ta đang hổ thẹn chưa thể tận lực vì đệ, đệ mới thoát hiểm đã liền đến thăm ta, nếu nói những lời khách khí thì phải là ta đa tạ thịnh tình của đệ mới đúng”.

Đoàn Khắc Tà cười nói:

“Vậy chúng ta không cần khách khí với nhau nữa. Sở đại ca, huynh cứ nói thật, huynh có muốn cùng chúng đệ trở lại hay là lưu lại chỗ này? Đệ không miễn cưỡng huynh”.

Sở Bình Nguyên đáp:

“Vết thương của ta cũng đã hoàn toàn lành lại rồi, chắc là Hồi tộc cũng không dám tái xâm phạm Y Khắc Chiêu Minh, ta có ở lại cũng chẳng có tác dụng gì, đương nhiên là cùng với các người trở lại”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Chúng ta ngày mai là muốn lên đường”.

Sở Bình Nguyên cười bảo:

“Ta biết, ta cũng đang rất nóng lòng trở về, chỉ mong ngày mai lên đường”.

Tát Ba Vương Công nói:

“Các ngươi nghìn núi vạn sông, không dễ dàng mà đến được đây? Thế nào mà ngày mai đã lại đi rồi? Theo quy củ của Y Khắc Chiêu Minh chúng ta, khách từ phương xa đến, tối thiểu cũng phải ở đến tám mười ngày”.

Sở Bình Nguyên cười giải thích:

“Vương Công có điểm không biết, vị huynh đệ này của tôi là muốn nhanh chóng trở về thành thân. Chỉ đành xin Vương Công phá lệ một lần”.

Tát Ba Vương Công lúc này mới biết Đoàn Khắc Tà, Sử Nhược Mai là một đôi hôn phu thê, lão cười ha hả nói:

“Nguyên lai như vậy, vậy ta thực sự không tiện cưỡng lưu nữa”.

Hương Bối cách cách nói:

“Sở đại ca, huynh không muốn ở đây chờ tin tức của Hồng Nghê muội tử sao? Huynh muốn uống hỉ tửu của bằng hữu, ta cũng muốn uống hỉ tửu của huynh đó”.

Đoàn Khắc Tà cũng chính vì nghĩ đến chuyện này, cho nên vừa rồi mới hướng y, ý bảo rằng không miễng cưỡng phải cùng chàng trở về.

Sở Bình Nguyên đỏ mặt lên, nói:

“Việc này để sau hãy nhắc. Bây giờ chiến tranh giữa Hồi tộc với Thổ Hồn Cốc chưa kết thúc, Tây Vực các tiểu vương quốc đều chịu ảnh hưởng. Chờ sau khi thiên hạ thái bình, ta sẽ lại quay lại bái phỏng các người. Bằng hữu của ta đều ở phương nam, cách biệt đã lâu, ta muốn trước tiên về gặp bọn họ”.

Tát Ba Vương Công thấy y nói khẩn thiết như vậy thì cũng không miễn cưỡng nữa, lão nâng chén bảo:

“Vậy yến tiệc đêm nay là mời khách cũng là tiễn hành!”

Hương Bối cách cách cười nói thêm:

“Cũng là rượu mừng cầu chúc cho Đoàn công tử và Sử cô nương bách niên hảo hợp!”

Mọi người đều khoan khoái sướng ẩm, mãi khuya mới thôi.

Tát Ba Vương Công an bài chỗ ở cho bọn họ, Sở Bình Nguyên cùng Đoàn Khắc Tà ở chung một trướng bồng.

Sở Bình Nguyên cũng không muốn ngủ, y nói:

“Đoàn huynh đệ, ta và đệ ra ngoài đi dạo một chút”.

Trăng đêm chiếu xuống, thảo nguyên có một phong cảnh rất khác biệt, gió lùa qua khiến cho thảo nguyên giống như hải dương mênh mông không bờ không bến, sóng cỏ cuốn lên mãi tận trời. Đoàn Khắc Tà tán thưởng rằng:

“’Thiên thương thương, địa mang mang, phong suy thảo đê kiếm ngưu dương.’ Trên thảo nguyên mới biết được trời đất mênh mông nhường nào, trong lòng cũng tự nhiên rộng rãi hơn. Sở đại ca, nếu đệ là huynh, đệ thực sự không muốn trở về”.

Sở Bình Nguyên cười bảo:

“Ta lại thực sự muốn về. Bât quá, ta rất xin lỗi đệ, chính là không kịp đến uống chung rượu mừng của đệ”.

Đoàn Khác Tà bất tri bất giác ngẩn người ra, chàng hỏi:

“Huynh không phải nói ngày mai sẽ cùng chúng ta trở về sao?”

Sở Bình Nguyên đáp:

“Ta không muốn cho nhiều người biết, thật không dám giấu giếm, ta đang muốn đến Sư Đà Quốc một chuyến, ngày mai ra khỏi sơn cốc ta liền cùng với các người chia tay”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“A, Nguyên lai là huynh muốn âm thầm đến gặp Tiểu Nghê Tử, sợ bị người ta cười. Đây là chuyện tốt quá, chúng ta vui mừng cho huynh còn không hết”.

Sở Bình Nguyên bảo:

“Không phải là ta muốn đến gặp nàng. Hôm qua nàng phái người đến đưa thư cho ta, trùng hợp giữa đường thì gặp. Trong thư nói, nàng có chuyện muốn gặp mặt mình ta, không cho ta nói cho người ngoài biết. Ngay cả với cha con Tát Ba Vương Công cũng không thể nói. Chuyện này thực sự có điểm kỳ quái. Đoàn huynh đệ, nếu như ta không kịp đến uống chén rượu mừng của đệ, mong đệ lượng thứ”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Đệ cũng xin lỗi sợ rằng không thể uống chung hỉ tửu của huynh. Nàng ta mời huynh gặp mặt, cũng chính là chờ huynh mở miệng cầu hôn đó, cái này có gì mà lạ?”

Sở Bình Nguyên đáp:

“Nàng ta cùng với Tát Hương Bối tình như tỷ muội, nếu nàng ta thật sự có tâm sự này, thì đã nhờ Hương Bối cách cách biểu đạt với ta rồi. Nhưng bây giờ lại ngay cả Hương Bối cách cách, nàng ta cũng muốn giấu giếm”.

Đoàn Khắc Tà cười bảo:

“Sở đại ca, huynh mặc dù tuổi nhiều hơn đệ, nhưng cũng không biết tâm sự của nữ hài người ta. Đây là chung thân đại sự của nàng, nàng ta sao có thể nhờ người khác biểu đạt cho huynh, giục huynh đến cầu hôn được? Nhưng thực ra Hương Bối cách cách cũng biết tâm sự của nàng ta, huynh không nghe buổi tối nay Cách cách nói gì sao?”

Đoàn Khắc Tà đã có hôn thê, tự xem như mình là tiền bối tình trường, chàng khoa trương rằng mình hiểu được tâm sự của nữ hài tử, Sở Bình Nguyên lại bán tín bán nghi, y tìm không ra lý do gì để phản bác, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy lần ước hẹn của Vũ Văn Hồng Nghê có điểm gì đó cổ quái. Nhưng dù sao thì bản thân cũng đã quyết định ngày mai sẽ đến Sư Đà Quốc, do vậy y cũng không lo lắng thêm nữa.

Ngày thứ hai, Sở Bình Nguyên theo mọi người cùng cáo biệt Tát Ba Vương công, ra khỏi sơn cốc liền theo kế hoạch chia tay với mấy người Đoàn Khắc Tà mà đi.

Phương, Niếp, Đoàn, Sử hai cặp tình lữ, sau khi phu thê Mưu Thế Kiệt lần lượt tử vong, đối với cái chết của Sử Triêu Anh tuy cũng không khỏi thở dài, nhưng trong lòng cũng không còn nửa điểm mây đen, suốt dọc đường đi nói sao cho hết những lời âu yếm, ngọt ngào. Người hay hỉ sự tinh thần sảng, đường dài gian khổ chẳng từ lao, lồng lộng gió xuân đưa vó ngựa. Từ trong gió tuyết cuối chân trời nơi miền tái ngoại, mọi người trở lại Trung Nguyên đúng là vào lúc xuân quang rực rỡ.

Trên Phục Ngưu sơn, hoa đỗ quyên đã nở thành một dải núi hồng, hai đôi tình lữ tâm tình thư sướng, trở lại sơn trại giữa cảnh hoa thơm chim hót. Mấy người Thiết Ma Lặc đã nghe lâu binh báo tin mà ra ngoài nghênh tiếp.

Đoàn Khắc Tà mới nhìn thì đã thấy mấy người Không Không Nhi, Tân Chỉ Cô, Hạ Lăng Sương đều ở hết cả đây. Đoàn Khắc Tà làm lễ ra mắt xong, cười nói:

“Sư huynh, huynh cũng tới thật nhanh!”

Thiết Ma Lặc cười bảo:

“Sư huynh, sư tẩu của đệ vội vàng đến uống hỉ tửu của đệ, bọn hạ đã đến đây ba ngày rồi. Thế nhưng hỉ tửu của bọn họ thì lại không chờ được đệ, ta đang muốn phạt bọn họ mời bù đây”.

Đoàn Khắc Tà mừng rỡ hỏi:

“À, hai ngươi đã, đã thành thân rồi sao?”

Không Không Nhi một đời anh hùng, lúc này cũng ấp úng xấu hổ nói:

“Sư nương tuổi đã cao, người không muốn xuống núi, ta muốn lão nhân gia được vui vẻ, cho nên đã bái đường ngay trên núi. Không mời khách nhân nào hết”.

Nguyên lai Không Không Nhi tuổi quá bốn mươi mới thành hôn, sợ rằng nếu cùng với Đoàn Khắc Tà đồng thời cử hành hôn lễ, tân khách đến đông, đến khi ‘nháo loạn tân phòng’ sẽ không tránh khỏi mang “Lão tân lang” ra đùa giỡn, như vậy thì sẽ không biết như thế nào mà ứng phó. Cho nên được sự đồng ý của Tân Chỉ Cô, y liền lặng lẽ thành hôn.

Đoàn Khắc Tà hỏi:

“Sư nương thân thể có khỏe không?”

Không Không Nhi đáp:

“Khỏe, lần này Tinh Tinh Nhi đã làm người rất tức giận, may mà có phen hỉ sự của ta, cho nên đã giảm đi cho hắn mấy phần, bằng không chỉ sợ Tinh Tinh Nhi không còn mệnh rồi”.

Đoàn Khắc Tà lại hỏi:

“Tinh Tinh Nhi thế nào rồi?”

Không Không Nhi đáp:

“Hắn bị sư nương phế bỏ võ công, phạt mỗi ngày đun nước, sư nương biết đệ cũng muốn thành thân, bảo đệ mang tân nương tử đến gặp người”.

Đoàn Khắc Tà nói:

“Điều này là đương nhiên, thành thân hay không thì đệ đều muốn trở về một lần thể thăm lão nhân gia”.

Phương Ích Phù không có thân nhân, đang có vài phần buồn bã, chợt nghe thấy có một âm thanh già cả ha hả cười bảo:

“Ẩn Nương, Ích Phù, hai ngươi có ngờ được ta cũng đến đây không?”

Niếp Ẩn Nương vui mừng quá đỗi, nàng kêu lên:

“Phụ thân, người thế nào cũng đến nơi này?”

Nguyên lai người này chính là Niếp Phong.

Niếp Phong nói:

“Triều đình nói ta ‘tiễu phỉ’ bất lực, nhưng vì ta có công bình Sử Triêu Nghĩa, lấy công bù tội, Hoàng thượng đặc xá thi ân, tước chức vị của ta cho làm dân thường, đây chính là toại với chí nguyện giải giáp quy điền của ta”.

Thiết Ma Lặc cũng cười bảo:

“Nếu không có như vậy, phụ thân của muội với thân phận tướng quân, sao dám đến sơn trại gặp tay cường đạo đầu tử này?”

Niếp Phong thở dài bảo:

“Ta khi niên thiếu rất muốn làm một du hiệp, đáng tiếc là sau đó lại đi nhầm đường, đi theo Tiết Tung, muốn lập quân công mà tiến thân. Làm tướng quân như vậy nhiều năm, mặc dù không đến mức lạm sát kẻ vô tội, nhưng tội nghiệt cũng không nhỏ. Ta chỉ hy vọng các ngươi cho ta bù đáp. Ẩn Nương, phụ thân chuẩn bị sau khi uống xong hỉ tửu của Đoàn hiền điệt, sẽ mang các con trở về. Hôn sự của con và Ích Phù cũng nên tiến hành đi thôi”.

Phương, Niếp hai người đều đỏ hồng cả má, cúi đầu, âm thầm hoan hỉ.

Không Không Nhi nói:

“Hà tất phải chia hai nơi, không bằng cứ đều làm luôn ở đây đi?”

Niếp Phong đáp:

“Thân hữu của ta đều ở gia hương, ta chỉ có một đứa con gái này, nên còn phải để cho bọn chúng thành hôn ở nhà. Sau khi bọn chúng thành hôn, nếu như muốn phiêu bạt giang hồ, ta có thể tùy ý cho chúng”.

Thiết Ma Lặc cười nói:

“Niếp lão tiền bối có ý muốn có con rể ở nhà, chúng ta cũng không nên miễn cưỡng người cử hành hỉ sự ở đây. Bất quá, chúng ta còn muốn mời người uống chén rượu này trước”.

Nguyên lai Niếp Phong mặc dù kết giao với lục lâm hào kiệt, nhưng rốt cuộc thì cũng là người đã từng làm tướng quân, trong ý nghĩ vẫn còn chưa thể giống như mấy người Không Không Nhi, Thiết Ma Lặc được. Y có thể để cho con gái và nữ tế trở thành du hiệp, nhưng lại không muốn bọn họ làm cường đạo. Nếu như thành hôn trong sơn trại, truyền đi ra ngoài, chỉ sợ sẽ gây ra tai họa, khi đó chắc chắn sẽ bức bách y phải “vào rừng làm cướp”. Thiết Ma Lặc cũng đoán được tâm ý của y, cho nên cũng không muốn miễn cưỡng y.

* * * * *

Hôn lễ của Đoàn Khắc Tà sau khi truyền đi, oanh động cả võ lâm. Hào kiệt bốn phương, cả quen lẫn không quen, thậm chí là chưa nhận được thiếp mời cũng đều vội vàng đến nơi. Sư phụ Thiết Ma Lặc là Ma Kinh lao nhân, sư phụ Sử Nhược Mai là Diệu Tuệ thần ni, cùng mấy vị lão tiền bối như Phong Cái Vệ Việt vốn không dễ dàng chịu đi lại trên giang hồ cũng đều cùng đến nơi. Trên Phục Ngưu sơn lại chẳng khác thêm một lần “Quần anh tụ hội”.

Sau khi tân nhân giao bái thiên địa, Đoàn Khắc Tà nắm tay Sử Nhược Mai trước tiên hướng Hạ Lăng Sương hành đại lễ, khấu tạ bà công ân dưỡng dục, sau lại theo thứ tự hướng hai người Không Không Nhi và Thiết Ma Lặc hành đại lễ. Mấy người này đều từng được phụ thân chàng Đoàn Khuê Chương phó thác, bây giờ nhìn thấy Đoàn, Sử hai người thoa liên bích hợp, hoàn thành tâm nguyện, đều không khỏi lệ nóng doanh tròng.

Đại lễ cáo thành xong, đầu mục đảm nhiệm chức vụ tri khách chợt đến báo rằng có một hòa thượng cũng đến đây chúc mừng. Thiết Ma Lặc kinh ngạc nói:

“Ta không có bằng hữu làm hòa thượng!”

Sau khi thỉnh mời vào, mới nhìn thì ra là Huyễn Không pháp sư của Ngạc Khắc Sấm tự.

Huyễn Không cười bảo:

“Tuy là đến chậm một bước, may mắn còn kịp để uống chung hỉ tửu”.

Đoàn Khắc Tà ở Ngạc Khắc Sấm tự từng ở chung với Huyễn Không pháp sư trong bảy tháng, sớm đã hóa cừu thành bạn, vừa mới nhìn thấy lão đến thì mừng rỡ vô cùng. Chàng hỏi lão về chiến tranh của bổn quốc, Huyễn Không cười bảo:

“Tây Vực có mấy tiểu quốc liên hợp phản kháng Hồi tộc, Hồi tộc có lo lắng bên mình, không dám toàn lực xâm lăng, đã bị chúng ta đánh bại rồi. Ta lần này đến đây, thứ nhất là uống rượu mừng của người, thứ hai là báo tin mừng cho ngươi”.

Đoàn Khắc rất lo lắng cho hảo hữu là Sở Bình Nguyên, chàng lại hỏi về tin tức của Sư Đà Quốc. Huyễn Không đáp:

“Ta chỉ biết Sư Đà Quốc đã phục quốc, lập một nữ vương rồi”.

Tây Vực một số tiểu quốc hoàn toàn không có quan niệm trọng nam khinh nữ, lập một nữ vương cũng không có gì là ngạc nhiên. Đoàn Khắc Tà thầm nghĩ, “Nữ vương này nhất định là Vũ Văn Hồng Nghê rồi, Sở đại ca ở Sư Đà Quốc như vậy thiết tưởng cũng thành tựu nhân duyên mỹ mãn”.

Tin vui mang đến, lại càng tăng thêm không khí vui vẻ. Đêm xuống, động phòng hoa chúc, đôi tân nhân thật vất vả để chúng tân khách “nháo loạn tân phòng”, sau đó mới có thể đơn độc tương đối.

Đoàn Khắc Tà lấy ra Long thoa, cười bảo:

“Ngày chúng ta mới ra đời, phụ mẫu chúng ta đã lấy cặp Long Phụng bảo thoa này làm chứng, ước định lương duyên cho chúng ta. Đáng mừng là, trải qua vô số trắc trở, Long Phụng bảo thoa, hôm nay chung vu đã lại hợp thành một đôi”.

Sử Nhược Mai hai má ửng hồng, vừa là hoan hỉ, vừa là thương cảm, nàng nói:

“Đáng tiếc là muội mới sinh thì đã mất phụ thân rồi”.

Đoàn Khắc Tà bảo:

“Tên của ta và muội đều là do phụ thân nàng đặt cho, người muốn ta làm một hảo hán hành hiệp trượng nghĩa trừ gian diệt ác, muốn muội làm một anh hùng sánh như hoa mai không sợ tuyết sương. Chúng ta nếu như có thể không phụ kỳ vọng của lão nhân gia, cũng khả dĩ an ủi được người dưới cửu tuyền”.

Sử Nhược Mai nói:

“Đúng vậy. Sau này muội nguyện theo huynh làm du hiệp trên giang hồ, kế thừa di chí của phụ thân huynh”.

Vậy là hai cây ngọc thoa lại hợp cùng một chỗ, hai người nhìn nhau mà cười, tâm đầu ý hợp, không còn lo lắng. Câu chuyện “Long Phụng Bảo Thoa Duyên” cũng kết thúc ở đây.

Đúng là:

Chỉ nguyện uyên ương chẳng nguyện tiên.

Chiến trinh không nhạt tuổi hoa niên.

Ngọc thoa hảo hợp, lại gương liền

Nguyện hướng giang hồ cùng rộng cánh

Làm thân du hiệp khắp muôn miền

Bên nhau chẳng phụ mối kỳ duyên

--------------------------------------------------------------------------------

[1] 金盒 tức Kim hạp: hộp bằng kim loại.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui