Chàng đã làm một đường mòn đặc biệt để đua ngựa xuyên qua rừng. Chàng tận hưởng tiếng chim hót véo von, tiếng sột soạt của những con thú nhỏ. Nhưng hơn hết, chàng thích mặc đồ đẹp đi cưỡi ngựa. Áo khoác đỏ tươi, giầy ống đi ngựa màu nâu, chiếc roi trên tay chưa bao giờ chàng sử dụng, chiếc mũ đi săn bằng da mềm. Chàng mỉm cười với bóng của chính mình trong gương, tưởng tượng mình là một lãnh chúa Anh thời trung cổ.
Chàng xuống chuồng ngựa. Ở đó chàng nhốt sáu con ngựa, và chàng hài lòng thấy rằng huấn luyện viên Aldo Monza đã chuẩn bị xong một trong những con ngựa đực của mình. Chàng lên yên và cho ngựa chạy nước kiệu lên trên con đường mòn vắt qua rừng. Tăng tốc độ, chàng phi qua một vòm lá đỏ, vàng lộn xộn tạo thành một tấm rèm đăng ten ngăn mặt trời đang lặn. Chỉ có những cánh hoa vàng mảnh dẻ soi sáng con đường. Móng ngựa làm bốc lên mùi lá mục. Chàng nhìn thấy đống phân bón lúa mì và thúc ngựa băng qua, rồi phi lên lối rẽ trên con đường mòn. Đó là một lộ trình khác để đi quanh nhà. Ánh vàng trên đường biến mất.
Chàng ghìm dây cương. Đúng lúc đó hai bóng người xuất hiện phía trước chàng. Chúng mặc quần áo của những người lao động chân tay ở trang trại. Nhưng chúng đeo mặt nạ, ánh kim loại lóe lên trên tay chúng. Astorre vội thúc ngựa và cúi rạp mình xuống. Khu rừng chìm trong ánh sáng và âm thanh của những loạt đạn. Bọn người này đã tiến đến rất gần. Chàng cảm thấy lưng và sườn mình trúng đạn. Con ngựa hoảng sợ phi nước đại điên cuồng trong khi Astorre cố ngồi cho vững. Chàng phi xuống đường mòn và lại thêm hai bóng người xuất hiện. Họ không đeo mặt nạ và không mang vũ khí. Chàng tuột khỏi mình ngựa và ngã vào vòng tay họ, bất tỉnh.
Trong vòng một giờ Kurt Cilke đã nhận được báo cáo của đơn vị giám sát đã cứu Astorre Viola. Cái làm ông thực sự ngạc nhiên là bên dưới lớp quần áo của anh chàng thích trưng diện này là chiếc áo lót chống đạn che phần thân trên bằng chiều dài của chiếc áo khoác cưỡi ngựa. Một gã như Astorre - một người nhập khẩu macaroni, một ca sĩ phòng trà, một kỵ sĩ lập dị lại đi mặc áo giáp làm cái chết tiệt gì cơ chứ? Cú va chạm của những viên đạn chỉ làm gã bất tỉnh, và gã cũng đã ra viện rồi.
Cilke viết một thông báo nhờ điều tra cuộc sống của Astorre Viola từ bé đến giờ. Con người này có thể là chìa khóa để giải quyết mọi vấn đề. Tuy nhiên ông đã biết một điều: Kẻ nào mưu toan sát hại Astorre Viola.
Astorre gặp hai người anh họ tại nhà Valerious. Chàng kể cho họ nghe về cuộc tấn công, về chàng đã bị bắn như thế nào.
- Tôi đã nhờ các anh giúp đỡ, chàng nói. Nhưng các anh đã từ chối và tôi hiểu. Nhưng bây giờ tôi cho rằng các anh phải xem xét lại. Ở đây có một loạt đe dọa nào đó nhằm vào tất cả các anh chị. Tôi nghĩ việc này có thể giải quyết được bằng việc bán các nhà băng. Đó sẽ là một tình huống hai bên đều thắng. Ai cũng có cái mình cần. Hoặc chúng ta cũng có thể chọn tình huống thắng – thua. Chúng ta giữ các nhà băng, đẩy lùi và tiêu diệt kẻ thù, dù chúng có là ai đi nữa. Cuối cùng là tình huống hai bên đều thua mà chúng ta phải hết sức cẩn thận để không rơi vào.
- Dễ ợt, Valerious nói. Bán quách nhà băng. Hai bên đều thắng.
Marcantonio nói
- Chúng ta đâu phải người Sicily, chúng ta không muốn ném đi mọi cái chỉ để trả thù.
- Chúng ta bán nhà băng rồi chúng ta vất bỏ luôn tương lai của mình, Nicole bình tĩnh nói. Marc, một ngày nào đó anh muốn có mạng lưới truyền hình của riêng mình. Val, với những ưu thế lớn lao về chính trị anh có thể trở thành đại sứ hay bộ trưởng quốc phòng.
- Còn Astorre, anh có thể hát với ban nhạc Rolling Stones. Nàng mỉm cười với Astorre. Được thôi, cũng hơi khó tin, nàng nói và đổi giọng. Hãy quên những chuyện đùa đó đi. Việc ba bị giết không là cái gì với anh em mình hay sao? Có phải thưởng công cho lũ sát nhân khong? Tôi nghĩ chúng ta phải giúp Astorre hết khả năng của mình.
- Em có biết em đang nói gì không? Valerious hỏi.
- Biết chứ, Nicole khẽ đáp.
Astorre nhẹ nhàng nói
- Ông già dạy tôi rằng cháu không được đẻ cho người khác áp đặt ý muốn của họ lên cháu, nếu không cuộc sống chẳng còn mảy may giá trị. Anh Val, đó là chiến tranh đấy, đúng không?
- Chiến tranh là một quyết định hai bên đều thua. Nicole nói.
Valerious thể hiện sự khó chịu của mình
- Những người khoan dung muốn nói gì thì nói, chiến tranh là tình huống thắng – thua. Ai khôn ngoan hơn sẽ thắng trong cuộc chiến. Thất bại là một điều khủng khiếp không thể tưởng tượng được.
- Ông già đã có một quá khứ, Astorre nói. Quá khứ đó bây giờ phải được tất cả chúng ta cùng quan tâm. Vì thế một lần nữa tôi yêu cầu các anh chị giúp đỡ. Hãy nhớ rằng, tôi là người dưới sự chỉ đạo của ông, và nhiệm vụ của tôi là bảo vệ gia đình, điều đó có nghĩa là không được bán các nhà băng.
Valerious nói
- Trong vòng một tháng tôi sẽ có thông tin cho chú.
Astorre quay sang Marcantonio
- Thế còn anh, Marc?
Marcantonio đáp
- Tôi sẽ bắt tay vào chương trình đó ngay lập tức. Khoảng hai hay ba tháng là xong.
Astorre nhìn Nicole
- Nicole, chị đã hoàn thành việc phân tích hồ sơ của FBI về ông già chưa?
- Vẫn chưa xong, nàng có vẻ buồn. Chúng ta không thể nhờ Cilke giúp hay sao?
Astorre mỉm cười.
- Cilke là một trong số những kẻ tôi nghi ngờ. Khi nào tôi có đủ thông tin chúng ta mới có thể quyết định phải làm gì.
Trong cả tháng trời Valerious đã tìm ra một vài thông tin vừa bất ngờ vừa đáng buồn. Thông qua các đầu mối CIA của mình gã đã biết sự thật về Inzio Tulippa. Y có những tiếp xúc ở Sicily, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Pakistan, Colombia, và các nước Mỹ La tinh khác. Thậm chí y còn quan hệ với cả gia đình Corleone ở Sicily.
Theo Valerious, chính Tulippa đang tài trợ cho những phòng thí nghiệm nghiên cứu nguyên tử nào đó ở Nam Mỹ. Chính y liều lĩnh mưu toan lập một quỹ khổng lồ ở Hoa Kỳ để mua phương tiện và nguyên liệu. Chính y muốn sở hữu một loại vũ khí khủng khiếp để chống lại chính quyền. Trong tất cả những mưu đồ này Timmona Portella chỉ là tấm bình phong cho Tulippa. Với Astorre, đây là một tin vui.
- Những gì Tulippa hoạch định có thể thực hiện được không ? Astorre hỏi.
- Y sẽ thực hiện được, Valerious đáp. Và y được các quan chức chính phủ bảo vệ ở tất cả những nơi y đặt phòng thí nghiệm.
- Cảm ơn anh, Val, Astorre nói. Chàng trìu mến vỗ vai người anh họ.
- Không có gì, Valerious nói. Nhưng đây là tất cả những gì chú nhận được từ tôi đấy.
Marcantonio phải mất sáu tuần để nghiên cứu tiểu sử tóm tắt của Kurt Cilke. Gã đưa cho Astorre một đống hồ sơ tin tức. Astorre giữ lại hai mươi bốn tiếng đồng hồ rồi đem trả.
Chỉ có Nicole là lo lắng cho chàng. Nàng gửi cho chàng bản hồ sơ FBI về ông Trùm Aprile, nhưng ở đó có cả một đoạn hoàn toàn để trống. Khi chàng hỏi về điều đó nàng chỉ nói
- Khi tôi nhận nó đã như vậy rồi.
Astorre nghiên cứu các giấy tờ rất kỹ. Đoạn để trống hình như nói về quãng thời gian chàng mới lên hai.
- Thôi được, chàng bảo Nicole, lâu quá rồi nên chẳng quan trọng lắm.
Lúc này Astorre không thể trì hoãn thêm được nữa. Chàng đã có đủ thông tin để bắt đầu cuộc chiến của mình.
Nicole bị Marcantonio Rubio và sự tán tỉnh của y làm cho lóa mắt. Nàng vẫn chưa lấy lại được thăng bằng từ vụ bội tình của Astorre khi nàng còn là một thiếu nữ, khi chàng chọn giải pháp vâng lời cha nàng. Mặc dù đã trải qua vài cuộc tình ngắn ngủi với những người đàn ông đầy quyền lực, nàng vẫn biết đàn ông luôn luôn âm mưu chống lại đàn bà.
Nhưng Rubio dường như là một ngoại lệ. Y không hề nổi nóng với nàng khi lịch làm việc của nàng cản trở các kế hoạch được ở bên nhau của họ. Y hiểu, với nàng công việc là trên hết. Y không xử sự vô lý như nhiều người đàn ông khác, những kẻ cho rằng ghen tuông mới là cơ sở của một tình yêu chân chính.
Rubio là kẻ hào phóng trong khoản quà cáp; quan trọng hơn nàng thấy y là một người thú vị và say sưa nghe y thao thao nói về văn học, về kịch nghệ. Nhưng việc y là một người tình hăng hái, một chuyên gia trong lĩnh vực chăn gối, và bên cạnh đó không làm mất nhiều thì giờ của nàng mới là ưu điểm lớn nhất của y.
Một buổi tối Rubio đưa Nicole đi ăn tại nhà hàng Le Cirque với vài người bạn của y: một tiểu thuyết gia Nam Mỹ nổi tiếng thế giới, kẻ quyến rũ Nicole bằng sự hóm hỉnh và những câu chuyện ma vô lý của mình, một ca sĩ Opera cách tân cứ mỗi lần ăn một món mới lại ngân nga một bản Aria vui vẻ và sau đó ngốn ngấu đồ ăn cứ như sắp phải lên ghế điện, và cuối cùng là một nhà báo chuyên mục bảo thủ, rất có uy tín về các vấn đề quốc tế của tờ New York Times. Tay này rất tự hào được cả những người tự do và bảo thủ ghét như nhau.
Sau bữa tối Rubio đưa Nicole về căn hộ sang trọng của y trong lãnh sự quán Peru. Ở đó, y quần nàng một trận tơi bời. Cả bằng sức, cả bằng những lời thì thầm. Sau đó y bế nàng trần truồng ra khỏi giường và khiêu vũ với nàng trong khi vẫn ngâm thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Nicole có một khoảng thời gian tuyệt vời. Nhất là khi họ cùng im lặng và y rót Champagne cho cả hai rồi thành thật nói,
- Anh yêu em lắm.
Vẻ thành thật còn ngời lên trên nét mặt y. Sao lại có những kẻ mặt dày mày dạn đến thế. Nicole cảm thấy hài lòng. Cha nàng lẽ ra đã phải tự hào về nàng. Nàng đã hành động như một Mafioso thực thụ.
Là người đứng đầu cơ quan FBI New York, Kurt Cilke có nhiều vụ án quan trọng hơnvụ giết Trùm Raymonde Aprile. Vụ thứ nhất điều tra về sáu tổ hợp khổng lồ âm mưu đưa lậu những máy móc bị cấm, bao gồm cả công nghệ máy tính, sang Trung Quốc. Vụ thứ hai là âm mưu của các công ty thuốc lá lớn khai man trước một ủy ban điều tra của nghị viện. Vụ thứ ba là việc các nhà khoa học hạng trung di cư tới các nước Nam Mỹ như Brazil, Peru và Comlombia. Ngài giám đốc FBI muốn được tường trình về những vụ này.
Trên chuyến bay tới Washington, Boxton nói
- Chúng ta đã làm mấy tay bên các công ty thuốc lá bị tóm, đã làm cho những chuyến hàng của Trung Quốc bị giữ lại. Cái duy nhất chúng ta chưa rờ đến được là các nhà khoa học kia. Nhưng tôi cá anh sẽ lên phó giám đốc sau vụ này. Người ta không thể phủ nhận chiến tích của anh được.
- Cái đó còn phụ thuộc vào giám đốc, Cilke nói. Ông ấy biết rõ tại sao các nhà khoa học lại kéo nhau xuống Nam Mỹ nhưng vẫn bình chân như vại.
Tại Hoover Building, Boxton bị cản lại không được vào dự họp.
Mười một tháng trôi qua kể từ ngày ông Trùm Aprile bị giết. Cilke đã chuẩn bị xong tất cả những giấy tờ cần thiết. Vụ Aprile dần lắng xuống, nhưng ông đã có thông tin về những vụ thậm chí còn quan trọng hơn. Và lần này, việc ông sẽ đề nghị giữ chân phó giám đốc Cục là một cơ hội thực sự.
Giám đốc là một người tầm thước, lịch thiệp, cực kỳ giàu có nhờ tiềm năng của chính mình và tham gia chính trường như một bổn phận trước công chúng. Bắt đầu nhiệm kỳ của mình lão đã đặt ra những luật lệ nghiêm ngặt.
- Không làm bậy, lão vui vẻ nói bằng giọng mũi. Tuân theo quy tắc. Không vi phạm Luật nhân quyền. Một nhân viên FBI phải luôn luôn lịch sự, phải luôn luôn đúng luật, phải luôn luôn đứng đắn trong đời tư. Bất kỳ một tai tiếng nào, dù nhỏ đến đâu chăng nữa, như đánh vợ, say rượu, quan hệ quá gần gũi với quan chức cảnh sát địa phương, những trò tra tấn ngu ngốc, thì bạn chỉ còn nước cắp đít mà đi dù cho cha chú bạn có làm đến Thượng nghị sĩ cũng mặc. Đấy là luật lệ suốt mười năm qua. Còn nữa, nếu bạn được báo chí nói đến nhiều, dù toàn những lời khen ngợi, bạn cũng sẽ được lên đường tới Alaska để canh chừng những ngôi nhà tuyết của người Eskimo.
Giám đốc mời Cilke ngồi xuống một chiếc ghế cực kỳ khó chịu ở phía bên kia chiếc bàn gỗ sồi rộng rãi của lão.
- Tôi triệu tập cậu về vì vài nguyên nhân, lão nói. Thứ nhất: Tôi đã đưa vào hồ sơ cá nhân của cậu việc cậu được đặc biệt tuyên dương vì công tác chống Mafia ở New York. Nhờ có cậu chúng ta đã bẻ gãy xương sống của chúng. Xin chúc mừng. Lão nhổm lên để bắt tay Cilke. Chúng tôi không công bố bây giờ vì Cục chỉ khen thưởng cho những thành tích đặc biệt. Hơn nữa, nó có thể đặt cậu vào tình thế nguy hiểm.
- Chỉ từ vài kẻ điên thôi, thưa ngài, Cilke nói. Các tổ chức tội phạm hiểu rằng chúng không thể làm hại một nhân viên Cục điều tra Liên bang.
- Cậu định nói rằng Cục trả thù cá nhân chứ gì, lão nói.
- Ồ không, Cilke nói. Ý tôi là chúng ta phải cẩn thận hơn thôi.
Ngài giám đốc cho qua chuyện này. Ở đây có những đường ranh giới. Đạo đức luôn luôn có một giới hạn mỏng manh.
- Thật không công bằng nếu để cậu chôn chân một chỗ, lão nói. Tôi đã quyết định không bổ nhiệm cậu làm phó của tôi tại đây, ở Washington này. Chưa phải lúc. Có ba lý do. Thứ nhất, cậu là một người thông thạo đường phố và ở đó vẫn còn công việc phải được giải quyết. Thứ hai, cậu có một tên chỉ điểm mà cậu từ chối tiết lộ danh tánh hắn với cả phòng giám sát nhân sự của Cục. Thứ ba, quan hệ của cậu với thanh tra cảnh sát New York quá riêng tư.
Hai người chuyển qua những mục khác trong chương trình nghị sự.
- Chiến dịch Omertà của chúng ta sao rồi? Lão hỏi. Phải hết sức thận trọng, chúng ta có hành lang pháp lý trong toàn bộ chiến dịch của mình.
- Tất nhiên rồi, thưa ngài, Cilke nói, mặt lạnh như tiền. Lão giám đốc phải gió này biết rõ phải bỏ qua luật lệ mà. Chúng tôi có một ít trở ngại. Raymonde Aprile từ chối hợp tác với chúng ta. Tuy nhiên, những trở ngại đó không tồn tại lâu được.
- Lão Aprile bị giết hợp lý quá, giám đốc giễu cợt nói. Ông bạn Portella của cậu làm vụ này chứ gì?
- Chúng tôi không biết, Cilke nói. Dân Italy có khi nào đi báo chính quyền đâu. Chúng tôi chỉ phải chờ những xác chết được tìm thấy thôi. Hiện tôi đã tiếp cận Astorre theo cách chúng ta đã thảo luận. Gã đã ký những giấy tờ bảo mật nhưng lại từ chối hợp tác. Gã không làm ăn với Portella và nghe nói không bán các nhà băng.
- Thế chúng ta làm gì bây giờ? Lão hỏi. Cậu cũng biết việc đó quan trọng như thế nào. Nếu có thể buộc tội chủ nhà băng theo luật RICO thì chúng ta sẽ thu hồi được các nhà băng cho chính phủ. Và mười tỷ đó sẽ được dùng để đấu trnh chống tội phạm. Đây sẽ là một thành tích đáng nể đối với Cục. Lúc bấy giờ chúng ta có thể chấm dứt mối liên kết của cậu với Portella. Y đã sống lâu hơn lợi ích của mình. Kurt này, chúng ta đang ở trong một tình huống rất tế nhị. Chỉ có các phụ tá của tôi và bản thân tôi biết việc cậu hợp tác với Portella, việc cậu nhận tiền của y còn y cứ đinh ninh cậu là kẻ đồng lõa. Cuộc sống của cậu có thể bị đe dọa đấy.
- Y sẽ không dám làm hại người của FBI đâu, Cilke nói. Y điên thật, nhưng chưa điên đến thế.
- Thôi được, Portella phải tiêu trong chiến dịch này. Kế hoạch của cậu thế nào?
- Anh chàng Astorre Viole không ngây thơ như mọi người vẫn nghĩ, Cilke nói. Tôi đang cho kiểm tra quá khứ của gã. Tôi cũng sẽ yêu cầu các con của Aprile không đếm xỉa gì đến gã nữa. Nhưng tôi thấy lo, liệu chúng ta có thể mang cây gậy RICO lùi lại mười năm để đối phó với những gì chúng đang làm không?
- Đấy là việc của ngài Tổng kiểm sát trưởng, giám đốc nói. Chúng ta chắc chắn tìm ra cái gì đó tòa án có thể ủng hộ.
- Về tài khoản bí mật của tôi mà Portella rót tiền vào, Cilke nói, tôi nghĩ ngài phải rút ra một ít để y tin tôi đang sử dụng.
- Tôi sẽ thu xếp việc này, lão nói. Tôi phải nói, ông bạn Timmona Portella của cậu không vắt cổ chày ra nước đâu.
- Y thực sự tin tôi đã thay đổi, Cilke nói và mỉm cười.
- Cứ cẩn thận. Đừng tạo cho chúng những cơ sở có thể biến cậu thành một kẻ đồng lõa với tội ác thực sự.
- Tôi hiểu, Cilke noi. Dù sao nói cũng dễ hơn làm.
- Và đừng hành động mạo hiểm không cần thiết, giám đốc nói. Nhớ rằng, bọn buôn bán ma túy ở Nam Mỹ và Sicily có quan hệ với Portella và chúng là những kẻ liều lĩnh đấy.
- Tôi sẽ lưu chỉ thị của ngài ở dạng lời nói hay văn bản? Cilke hỏi.
- Cả hai đều không được, giám đốc nói. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự ngay thẳng của cậu. Ngoài ra, tôi không muốn phải nói dối trước một ủy ban nào đó của nghị viện. Để trở thành một trong các phụ tá của tôi, cậu sẽ phải rũ sạch những thứ đó. Lão hy vọng chờ đợi.
Cilke thậm chí không dám nghĩ những ý nghĩ thật của mình trước mặt ngài giám đốc, sợ rằng lão có thể đọc được suy nghĩ của ông. Mặc dù vậy cơn giận cứ bùng lên. Lão nghĩ ông là thằng đéo nào, thành viên của Hiệp hội những người có quyền tự do dân sự Hoa Kỳ chắc? Thông báo của lão chỉ để khẳng định rằng Mafia đếch phải là người Italy, dân Hồi giáo đếch có thằng nào làm khủng bố, người da đen đếch phải là tầng lớp tội phạm. Vậy lão nghĩ thằng đéo nào gây ra những tội ác trên đường phố chứ?
Nhưng rồi Cilke nhẹ nhàng nói,
- Thưa ngài, nếu ngài muốn tôi từ chức, tôi đã công tác đủ thời gian để về hưu sớm được rồi.
- Ồ không, lão nói. Hãy trả lời tôi. Liệu cậu có thể xóa sạch các mối quan hệ của cậu không?
- Tôi đã trao cho Cục tên của tất cả những kẻ chỉ điểm, Cilke nói. Đối với những việc làm tắt, bỏ qua luật lệ, đó chỉ là vấn đề giải thích. Còn việc làm bạn với lực lượng cảnh sát địa phương chỉ là quan hệ xã hội.
- Kết quả của cậu biện minh cho công việc của cậu, lão nói. Nào, cố thêm một năm nữa. Cứ tiếp tục đi. Lão im lặng một hồi lâu và thở dài. Rồi không còn kiên nhẫn được, lão hỏi – Theo đánh giá của cậu, chúng ta đã có đủ bằng chứng về việc các nhà điều hành công ty thuốc lá khai man hay chưa?
- Dễ quá mà, Cilke, nó và tự vấn tại sao giám đốc lại phải hỏi. Lão đã có tất cả hồ sơ rồi cơ mà.
- Nhưng đấy có thể là niềm tin của cá nhân họ, lão nói. Những cuộc thăm dò dư luận của chúng ta chỉ ra rằng một nửa số người Mỹ đồng ý với họ.
- Cái đó đâu có liên quan đến vụ này, Cilke phản đối. Những người được hỏi ý kiến không thực hiện hành vi khai man trước Nghị viện. Chúng ta có những cuốn băng và những tài liệu nội bộ chứng minh được các nhà điều hành công ty thuốc lá cố ý lừa dối. Họ đã có ý đồ.
- Cậu nói đúng, giám đốc nói cùng một tiếng thở dài. Nhưng ngài Tổng kiểm sát trưởng đã hoàn tất một thỏa thuận. Không một can phạm nào bị kết án, không ai phải đi tù. Người ta sẽ trả tiền phạt lên đến hàng trăm tỷ đô la. Vậy hãy khép vụ án đó lại. Nó nằm ngoài tầm tay chúng ta.
- Được thôi, thưa ngài. Tôi có thể sử dụng nhân lực dôi dư vào những việc khác.
- Được việc cho cậu quá còn gì. Tôi sẽ còn làm cậu vui hơn nữa. Cứ sử dụng nhân lực của cậu vào cái vụ vận chuyển công nghệ bất hợp pháp sang Trung Quốc. Vụ này rất nghiêm trọng đấy.
- Không cho qua được, Cilke nói. Các công ty đó cố ý vi phạm điều luật về đầu cơ tiền tệ và xâm hại an ninh Hoa Kỳ. Những người lãnh đạo công ty đã có âm mưu từ trước rồi
- Chúng ta có đủ bằng chứng kết tội họ, lão tiếp tục. Nhưng cậu biết đấy, âm mưu chỉ là một từ chung chung. Ai mà chả có âm mưu. Nhưng vụ này cậu cũng có thể khép lại và tiết kiệm nguồn nhân lực.
Cilke ngờ vực hỏi,
- Thưa ngài, có phải ngài đang nói một thỏa thuận về việc này đã được hoàn tất?
Ngài giám đốc ngả lưng vào ghế và chau mày vì câu nói xấc xược của Cilke, nhưng rồi lão vẫn ngọt nhạt
- Cilke cậu là sĩ quan xuất sắc nhất ở Cục nhưng cậu không có giác quan chính trị. Bây giờ hãy nghe tôi và đừng bao giờ quên điều này: Cậu không thể tống sáu nhà tỷ phú vào tù được. Không làm thế được trong một xã hội dân chủ.
- Và đó là lý do ư? Cilke hỏi.
- Các biện pháp chế tài sẽ rất nặng, lão nói. Bây giờ ta chuyển sang các vụ khác, có một vụ cực kỳ bí mật. Chúng ta sẽ đổi một tù nhân của Liên bang lấy một trong những chỉ điểm viên của chúng ta đang bị giữ làm con tin ở Comlombia, một người rất hữu dụng trong cuộc đấu tranh chống ma túy của chúng ta. Vụ này phù hợp với cậu đấy. Lão đề cập đến một vụ bốn năm về trước. Một tên buôn ma túy đã bắt năm người, một phụ nữ và bốn đứa con, làm con tin. Rồi y giết họ và cả một nhân viên của Cục. Nhưng y vẫn được tha mạng. Tôi nhớ rằng cậu rất kiên quyết với việc thi hành án tử hình, lão nói. Tôi biết cậu chẳng vui vẻ gì khi chúng ta sẽ để y được tự do. Tất cả chuyện này được giữ kín, nhớ nhé. Tuy nhiên, báo chí có khả năng sẽ bới vụ này lên và lúc ấy tha hồ mà om xòm. Cậu và các nhân viên của cậu sẽ không được bình luận gì. Cậu hiểu chứ?
Cikle nói
- Chúng ta không được dể bất kỳ kẻ nào giết nhân viên của chúng ta được ra đi như vậy.
- Với một nhân viên của Cục điều tra Liên bang, thái độ đó là không thể chấp nhận được.
Cilke cố gắng không để lộ sự phẫn nộ của mình.
- Thế thì tất cả đồng đội của chúng ta sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm. Đồng nghiệp của chúng ta bị giết khi đang cố giải cứu con tin. Đó là một vụ giết người tàn bạo. Việc tha bổng kẻ sát nhân xúc phạm đến hương hồn người đồng đội đã khuất.
- Không có tâm lý báo thù ở Cục, giám đốc nói. Nếu không chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn chúng. Nào, cậu có những gì về các nhà khoa học di cư đó hả?
Lúc này Cilke nhận ra ông không thể tin vào ngài giám đốc.
- Chẳng có gì mới, ông nói dối. Ông quyết định từ giờ trở đi ông sẽ không dính vào những thỏa hiệp chính trị. Ông sẽ hành động một mình.
- Nào, cậu đang có khá nhiều nhân lực, vậy hãy làm vụ này đi, giám đốc nói. Và sau khi cậu tóm Timmona Portella, tôi sẽ đưa cậu về đây làm một trong các phụ tá của tôi.
- Cảm ơn ngài, Cilke đáp. Nhưng tôi đã quyết định, sau khi tính sổ Portella, tôi sẽ nghỉ hưu.
Giám đốc buông một tiếng thở dài.
- Hãy xem xét lại. Tôi biết toàn bộ việc này làm câu ngán tới cỡ nào. Nhưng hãy nhớ điều này: Cục không chỉ chịu trách nhiệm bảo vệ xã hội chống lại những kẻ phạm pháp, mà còn phải thi hành những biện pháp về lâu về dài mang lại lợi ích cho xã hội chúng ta.
- Tôi nhớ điều đó từ ngày học phổ thông cơ, Cilke nói. Kết quả biện minh cho phương tiện.
Giám đốc nhún vai,
- Dù sao cũng hãy xem xét lại việc xin nghỉ hưu của cậu.Tôi sẽ đưa vào hồ sơ của cậu một đơn đề nghị. Dù cậu đi hay ở, cậu vẫn sẽ nhận huân chương do Tổng Thống Hoa Kỳ ban tặng.
- Cảm ơn ngài, Cilke nói. Giám đốc bắt ty ông và tiễn ông ra cửa. Nhưng lão còn hỏi thêm câu hỏi cuối cùng.
- Chuyện gì xảy ra trong vụ Aprile thế. Đã nhiều tháng rồi mà hình như chưa làm được gì.
- Đó là việc của bên cảnh sát New York, đâu phải là của chúng ta, Cilke đáp. Tất nhiên, tôi cũng đã xem xét vụ này. Đến giờ vẫn chưa rõ động cơ. Không có đầu mối, tôi thiết nghĩ, thì không thể giải quyết được vụ này.
Đêm hôm đó Cilke ăn tối cùng Bill Boxton.
- Có những tin tốt lành đây, Cilke nói. Vụ thuốc là và vụ máy móc của Trung Quốc khép lại rồi. Ngài tổng kiểm sát trưởng ngả theo các biện pháp chế tài chứ không theo biện pháp trấn áp tội phạm. Nhân lực tha hồ mà dôi dư.
- Cứt, Boxton nói. Tôi cứ nghĩ giám đốc là một người ngay thẳng, công bằng. Lão sẽ từ chức chứ?
- Có những người thẳng thẳn và có những người thẳng thắn với một chút lương lẹo, Cilke nói.
- Còn gì nữa không? Boxton hỏi.
- Khi tôi hạn xong Portella toi sẽ trở thành phụ tá của giám đốc. Bảo đảm đấy. Nhưng đến lúc đó tôi cũng sẽ nghỉ hưu.
- Ừ, Boxton nói. Thế thì đề nghị để tôi giữ cương vị đó nhé?
- Không được đâu. Lão giám đốc biết cậu đã sử dụng những từ có ba chữ cái mà, ông phá lên cười.
- Cứt, Boxton nói, giả vờ thất vọng.
Đêm hôm sau Cilke cuốc bộ từ ga về nhà. Georgette và VAnesa đi Flỏida thăm bà ngoại một tuần và ông không thích đón taxi. Ông ngạc nhiên không nghe tiếng chó sủa khi bước lên con đường dẫn vào nhà. Ông gọi chúng nhưng không được. Hẳn chúng đã xổng nhà đi lang thang đâu đó bên hàng xóm hay trong khu rừng gần nhà.
Ông nhớ gia đình mình, nhất là vào giờ ăn. Ông đã ăn tối một mình hoặc cùng các nhân viên khác ở rất nhiều thành phố trên khắp nước Mỹ, luôn phải cảnh giác với bất kỳ mối nguy hiểm nào. Ông chuẩn bị một bữa ăn đơn giản như vợ ông đã hướng dẫn - một ít rau, một món salad trộn và một miếng bít-tết nhỏ. Không cà phê nhưng có một ly nhỏ rượu mạnh. Sau đó ông lên lầu tắm rửa và gọi điện cho vợ trước khi đọc vài trang sách để dỗ giấc ngủ. Ông yêu quý sách và việc FBI bị mô tả như những tên côn đồ trong các tiểu thuyết trinh thám luôn làm ông buồn. Chúng biết quái gì nào?
Khi mở cửa phòng ngủ, ngay lập tức ông ngửi thấy mùi máu và đầu óc ông quay cuồng. Tất cả những lo sợ giấu kín trong ông đang hiện ra trước mắt.
Hai gã chăn cừu người Đức đang nằm trên giường của ông. Nước da trắng rám nắng của họ lốm đốm đỏ, chân họ bị trói lại với nhau, miệng bị bịt kín bằng băng keo. Trái tim của họ bị cắt ra để bên sườn.
Với một cố gắng phi thường, ông cố trấn tĩnh. Theo bản năng, ông gọi điện cho vợ để biết chắc Georgette vẫn an toàn. Ông không nói gì với chị. Rồi ông gọi điện cho sĩ quan trực ban của FBI yêu cầu một đội pháp y đặc biệt và một nhóm truy bắt tội phạm. Họ sẽ phải tống khứ hết khăn trải giường, đệm và thảm. Ông không thấy nhà chức trách địa phương nào xuất hiện.
Sáu tiếng sau, các toán FBI ra về còn ông viết một bản tường trình gửi cho giám đốc. Ông rót ình một ly rượu mạnh và cố phân tích tình hình.
Lúc này ông cân nhắc việc nói dối Georgette, phịa ra chuyện hai con chó đi khỏi nhà. Nhưng phải giải thích ra sao về tấm thảm và khăn trải giường bị mất. Ngoài ra, làm như thế là không công bằng với chị. Georgetta có quyền lựa chọn. Trên hết thảy, chị sẽ không tha thứ cho ông nếu ông nói dối. Ông sẽ phải nói cho chị sự thật.
Hôm sau, trước tiên Cilke bay đến Wasshington để hội ý với giám đốc, sau đó ông xuống Florida, nơi vợ con ông đang nghỉ với gia đình bên ngoại.
Ở đó, sau khi ăn trưa cùng họ, ông đưa Georgette đi dạo dọc theo bờ biển. Trong khi họ dõi theo mặt nước xanh lung linh, ông nói với chị chuyện lũ chó bị giết, rằng đó là dấu hiệu cảnh cáo của Mafia Sicily nhằm đe dọa ông.
- Theo giới truyền thông, các anh đã xóa sổ Mafia ở đất nước này rồi cơ mà, Georgette ngạc nhiên nói.
- Chẳng chóng thì chầy, Cilke nói. Bọn anh vẫn còn để sót một vài tổ chức ma túy, và anh biết rõ ai làm việc này.
- Lũ chó tội nghiệp của chúng ta, Georgettte than. Tại sao con người lại có thể độc ác đến thế? Anh đã báo cho giám đốc chưa?
Cilke cảm thấy một nỗi tức giận trào lên khi chị chỉ quan tâm đến lũ chó.
- Giám đốc cho anh ba sự lựa chọn, ông nói. Thứ nhất anh sẽ từ nhiệm và chuyển đến nơi khác. Anh đã từ chối việc này. Thứ hai, anh đặt gia đình dưới sự bảo vệ của Cục cho đến khi vụ này kết thúc. Thứ ba, em cứ ở lại nhà như chẳng có chuyện gì xảy ra. Chúng mình sẽ được một đội an ninh bảo vệ hai bốn trên hai bốn tiếng đồng hồ. Một nữ mật vụ sẽ sống cùng em và mỗi khi em cùng Vanesa ra khỏi nhà, sẽ có hai vệ sĩ đi kèm. Sẽ có những trạm cảnh giới với hệ thống báo động hiện đại nhất được đặt quanh nhà. Em nghĩ sao? Trong vòng sáu tháng việc này sẽ kết thúc.
- Anh nghĩ đó chỉ là trò hù dọa thôi sao? Georgette hỏi.
- Phải. Chúng không dám làm hại một nhân viên. Cục điều tra Liên bang và gia đình. Đó sẽ là một hành động tự sát đối với chúng.
Georgette đăm đăm nhìn nhìn mặt vịnh xanh yên ả. Tay chị xiết chặt lấy tay ông.
- Em sẽ ở lại, chị nói. Em nhớ anh nhiều lắm, và em biết anh sẽ chẳng chịu bỏ vụ này. Làm sao anh có thể đoán chắc anh sẽ giải quyết xong trong vòng sáu tháng?
- Anh bảo đảm mà, Cilke nói.
Georgette lắc đầu.
- Em không thích anh quả quyết như thế đâu. Làm ơn đừng làm bất cứ điều gì tệ hại. Và em muốn một lời hứa. Khi vụ này kết thúc, anh sẽ rời nhiệm sở. Hãy bắt đầu công việc luật sư của anh hay đi dạy. Em không thể sống như thế này mãi được. Chị nói hết sức nghiêm chỉnh.
Câu nói chị sẽ rất nhớ ông in sâu vào tâm trí ông. Và ông cũng thường nhớ Georgette như vậy. Ông tự hỏi làm sao một phụ nữ như chị lại có thể yêu một người như ông. Tuy nhiên ông luôn biết sẽ có ngày Georgette đưa ra đề nghị này. Ông thở dài và nói,
- Anh hứa.
Họ tiếp tục đi theo bờ biển rồi rẽ vào một công viên nhỏ rợp bóng cây giúp họ tránh ánh mặt trời. Một làn gió mát từ vịnh thổi vào làm rối tung mái tóc Georgette. Lúc này, trông chị rất trẻ và hanh phúc. Cilke biết ông không thể nào thất hứa với vợ. Và thậm chí ông còn kiêu hãnh về vẻ hấp dẫn của chị trong cách moi lời hứa của ông vào đúng một thời điểm thích hợp, khi chị mạo hiểm cả cuộc sống của mình để đứng về phía ông. Suy cho cùng, có ai muốn được một người đàn bà đần độn yêu thương cớ chứ? Đồng thời ông biết rằng vợ ông sẽ kinh sợ và cảm thấy bị xúc phạm nếu biết được những gì ông đang nghĩ. Vẻ hấp dẫn của chị hoàn toàn trong trắng. Ông xét đoán ai đây? Georgette không khi nào xét đoán ông, không nghi ngờ cái vẻ hấp dẫn không được trong trắng của ông bao giờ.
(1) Mũ Panama: mũ rộng vành
(2) Faun (thần thoại La Mã): vị thần cai quản đồng ruộng và rừng cây, có sừng, chân dê, mình người.