Chương 8
Tory mất chưa đầy hai giờ đồng hồ đã đi hết khu vực buôn bán của Dellpoint, Iowa. Sau khi quần thảo một ngân hàng, một quầy thuốc, hai cửa hàng thực phẩm, ba quán ca phê, bốn cửa hàng tạp phẩm, năm salon làm đẹp và một quán cắt tóc, cô vẫn không biết gì nhiều hơn lúc mới bắt đầu.
Cô đã fax một bức ảnh tới hãng giải trí Amherst, đơn vị tổ chức đoàn carnival mà cô đã chụp ảnh, nhưng không mấy hy vọng có hồi đáp mong muốn. Tory đã biết là mặc dù có một vài đoàn kinh doanh liên tục nhiều năm liền, đa số các công nhân của họ vẫn làm tạm bợ và thường bỏ việc không báo trước. Vì thế cô hầu như không còn hy vọng nào khi trở về nhà nghỉ. Ở rìa hai thị trấn có một cửa hàng thức ăn gia súc. Tory vẫn chưa vào, ngoài ra còn có một quán bar ở phía bắc đường ranh giới với thành phố mãi đến sáu giờ chiều mới mở cửa. Trừ hai chỗ ấy ra, Tory đã đi hết cả Dellpoint, vậy mà vẫn không có tin tức gì của người xăm mặt.
Khi Tory về đến nhà nghỉ, cô để ý thấy một chiếc bán tải màu đỏ tươi kéo theo một cái rờ-moóc chở ngựa cùng màu ở đằng sau đã đậu ngay cạnh xe mình, hiện giờ nó đang trống không. Mùi phân ngựa vẫn nồng nặc khi cô lên đến phòng mình. Cô nhăn mũi rồi tránh chiếc xe đẩy của cô phục vụ bị bỏ lại ngay trước cửa phòng kế bên.
Nhớ đến những chiếc khăn tắm đã sờn rách, trong lúc bốc đồng Tory liền lấy thêm một chiếc khăn khi cô đi ngang qua cái xe đẩy. Cô ném túi xách lên ghế, khóa cửa phòng lại, rồi nhảy lên giường nằm ủ dột. Một tập ảnh rơi ra khỏi túi và khuôn mặt gã đàn ông cùng cái nhìn lạnh lẽo, trống rỗng của ông ta cứ như đang chế giễu cô từ xa. Tory không thể bỏ qua ý nghĩ ông ta biết điều gì đó mà cô không biết về đời mình. Tức giận, cô quăng chiếc khăn thừa ra sàn nhà, rồi mỉm cười hài lòng khi nó ụp lên trên đống ảnh, che khuất chúng.
Thất vọng sau những nỗ lực ban chiều, Tory với lấy điện thoại nhưng giữa chừng lại đổi ý. Có lẽ cô nên đợi và gọi cho Brett sau khi đi vào quán bar tối nay. Hy vọng tới lúc đó cô sẽ có chuyện khả quan hơn kể cho anh.
Một tràng cười đùng đục, tiếp theo là những tiếng khúc khích cao vút phát ra từ căn phòng kế bên. Tory nhớ lại chiếc xe đẩy bị để quên ở cửa phòng và chiếc ô tô tải sáng bóng rồi thở dài. Nếu có máu cá cược, cô sẽ đặt tiền cho sự thật là gã cao bồi sở hữu chiếc xe đang vui vẻ với cô hầu phòng của nhà nghỉ.
“Cứ đặt nó ở đây,” Brett nói, chỉ vào căn phòng đầu tiên bên phải, cuối hành lang. Nhân viên chuyển nhà đã gần xong việc. Chỉ cần vài lượt đi ra xe tải nữa là mọi đồ đạc của anh sẽ ở trong ngôi nhà mới. Anh đi từ phòng này sang phòng khác, nghiên cứu phần không gian rộng thêm ở ngôi nhà mới thuê. Anh sẽ không để bản thân mình nghĩ về chuyện tại sao lại thuê một ngôi nhà thay vì một căn hộ khác. Anh từ chối thừa nhận, cho dù với chính mình, rằng khi nhìn thấy phòng sinh hoạt chung được làm mới lại ở kế bên phòng ngủ chính, ý nghĩ đầu tiên của anh là nó sẽ trở thành phòng làm việc hoàn hảo cho Tory, và rằng cái nhà kho rộng rãi thông với nó sẽ làm thành phòng tối tuyệt nhất. Cuộc sống mới của anh không còn chỗ cho những ý nghĩ ấy nữa. Cho đến khi anh biết là cô thực sự muốn có anh trong đời. “Thùng cuối cùng đây,” người chuyển nhà nói sau khi đặt chiếc hộp đề “Nhà bếp” xuống.
Brett gật đầu và với tay lấy quyển séc. Vài phút sau, những người chuyển nhà đã đi khỏi. Anh đứng ở giữa những thứ còn sót lại trong đời mình và nhận ra mình chưa bao giờ cảm thấy cô đơn như lúc này. Rồi anh hít một hơi và lôi con dao nhíp ra. Chuyện Tory có còn là một phần của đời anh nữa hay không thì chưa biết được. Trong khi đó vẫn còn nhiều việc cần làm.
Anh mở chiếc hộp đề “Nhà bếp”, lôi ra chiếc điện thoại rồi cắm dây cho nó. Âm thanh tút tút vang lên trong tai anh. Ít nhất ngày hôm nay đã có một thứ đúng đắn. Điện thoại đã được kết nối.
Brett bấm một dãy số và chờ.
“Xin chào.” Trước giọng nói quen thuộc, anh nắm ống nghe hơi chặt hơn một chút rồi bắt đầu nói: “Mẹ, con Brett đây. Mẹ có sẵn giấy bút đó không? Con muốn ẹ địa chỉ và số điện thoại mới của con. Không, chẳng có chuyện gì cả. Chỉ là con nghĩ mình cần chỗ rộng rãi hơn thôi.” Khi Tory tỉnh dậy thì đã quá tám giờ tối. Cô bị nhức đầu và đau một bên mạng sườn. Chuyện đau đầu không có gì lạ, cô thường bị như thế. Nhưng chỗ đau ở bên sườn làm cho cô thẫn thờ một lúc cho đến khi nhìn vào chỗ mình vừa nằm. Cô đã ngủ đè lên chiếc giày. Kỳ quái là cô không hề nhớ là mình đã cởi nó ra. Cô ngáp dài và vươn vai rồi đi giày vào trước khi vào nhà tắm. Nếu cô định đi bar thì phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng.
Nhưng sau một lúc bước vào cái quán đầy khói được biết đến với tên Dump’s, Tory nhận thấy là lẽ ra mình đã tiết kiệm được khối kẹo xịt tóc. Với cấp độ đèn đóm và mức độ tỉnh táo của khách ở đây thì dẫu cô có bị hỏi cũng chẳng ai để ý tới.
“Cô uống gì?” bartender hỏi khi Tory ngồi vào chiếc ghế cao ở cuối dãy.
Cô lấy từ trong túi ra một bức ảnh. “Tôi không muốn uống gì cả. Tôi chỉ muốn biết anh có…” “Chẳng có gì miễn phí ở đây cả,” bartender gầm gừ. “Kể cả nói chuyện. Muốn gì nào?” Tory thở dài. Chiếc tạp dề của anh chàng bartender này rất bẩn thỉu, tay anh ta cũng thế, chúng không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho những cái cốc đang xếp trên kệ phía sau.
“Ừ, vậy thì coca… lon nhé,” cô nói thêm, không sẵn lòng mạo hiểm với những cái cốc.
Bartender giật nắp lon, đập một cái khăn giấy trước mặt cô rồi quẳng cái lon lên trên, làm bắn cả một ít coca ra ngoài.
“Hai đô.” Tory giận dữ vì cái kiểu cư xử trịch thượng của anh ta. Không cần suy nghĩ, cô ném luôn bức ảnh người đàn ông xăm mặt lên quầy rồi đặt tờ năm đô la lên trên đó. Khi bartender thò tay ra định cầm tiền, cô đập tay lên trên nó rồi vươn tới.
“Như tôi định hỏi từ nãy… anh có biết người này không?” Bartender cười nhăn nhở trước hành động gan góc của cô và cúi xuống để nhìn rõ hơn.
“Hừm, có, trông quen đấy,” anh ta lẩm bẩm rồi chỉ vào hình xăm con bọ cạp. “Một khi đã nhìn thấy cái này rồi thì không dễ quên. Cô hiểu ý tôi chứ?” Hy vọng của Tory dâng lên. “Tên ông ta là gì? Anh có biết ông ta ở…” “Này,” bartender nói. “Tôi bảo trông quen thôi. Tôi có nói là tôi biết ông ta đâu. Khối người đi ra đi vào cái chỗ này. Đúng là tôi đã trông thấy ông ta nhưng đó là từ lâu lắm rồi.” Tory không chịu để chướng ngại vật nhỏ mọn này cản trở mình: “Anh biết ông ta sống ở đâu không?” Anh ta lắc đầu rồi nhìn ra khắp phòng, nheo mắt để nhìn qua đám khói và những chiếc bóng.
“Thấy người đứng ở bàn bi-a đằng sau kia không? Anh chàng to con mặc đồ jeans ấy?” Tory nhìn chằm chằm. Có năm người đàn ông đang đứng ở bàn bi-a thì tới bốn người mặc đồ jeans.
“Ai cơ?” cô hỏi.
Bartender chỉ. “Người bị hói và có con đại bàng trên áo ấy.” Lúc ấy tim Tory thắt lại. Nhất định là anh ta rồi. Anh ta dễ cao đến hơn một mét chín, mặt chằng chịt sẹo như cái bản đồ. Kể cả từ đây cô cũng thấy những vết sẹo vắt ngang má anh ta, và cô không biết thứ gì làm cô thấy ngại hơn: chiếc khuyên ở tai hay ở mũi anh ta. “Có, thấy rồi,” Tory nói.
“Tên anh ta là Bull. Nếu có ai biết về người đàn ông của cô thì đó chính là anh ta.” Tory nhìn chằm chằm vào đám du côn đó, và lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu cuộc tìm kiếm này, cô nhận ra mình có thể dễ dàng gặp phải những rắc rối ngoài tầm kiểm soát đến thế nào. Nhưng nhu cầu hiểu rõ sự việc trong cô quá lớn, và cô đã đi quá xa để lùi bước. Hơn nữa, cô nhắc nhở mình rằng cô rất giỏi che giấu cảm xúc.
Nào Bull, dù sẵn sàng hay không tôi cũng tới đây.
Như một con thú đang đi săn mồi, gã đàn ông tên Bull cảm nhận được sự hiện diện của Tory trước cả khi nhìn lên, và rồi khi anh ta nhìn lên, một nụ cười hoang dã làm giãn cái cau mày trên mặt anh ta.
Thay vì chọc cú tiếp theo với chiếc gậy bi-a trong tay, anh ta dùng đầu gậy để nâng một lọn tóc khỏi ngực cô.
“Này cô em, Bull này không thích tóc tai rối bù. Tôi thích đàn bà của tôi chải chuốt cơ,” anh ta nói.
Tory liếc cái đầu hói rồi nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Phải, tôi có thể thấy tại sao lại thế,” cô dài giọng.
Bull có vẻ giật mình khi cô không lùi lại, rồi anh ta cười toe toét, những gã khác đứng quanh bàn cũng bắt đầu cười phá lên. Anh ta dùng đầu gậy bi-a vẽ vòng tròn trên ngực cô, khẽ chạm vào chỗ đầu ngực.
“Anh làm gì được cho em hả cưng?” Tory nắm lấy chiếc gậy và giật ra, quăng sang một bên. Nó rơi đánh cách trên sàn nhà. Và rồi cô chỉ tay vào mặt anh ta.
“Thứ nhất, anh giữ cái tay chết tiệt của anh và cả cái gậy xê ra.” Rồi cô với tay vào trong túi. Tory chưa kịp rút tay ra thì Bull đã tóm cổ tay cô.
“Từ từ thôi, con mụ cau có này. Để tao xem trong đó có gì đã chứ hả?” Anh ta thả tay cô, tưởng sẽ trông thấy một vũ khí chứ không phải bức ảnh hai mươi nhân hai lăm phân của gã đàn ông mặt xăm.
“Cái quái gì…” Bull liền giật nó khỏi tay Tory. “Mày làm gì với ảnh Stinger thế này?” Tory quên mất cô đang cô đơn giữa bầy sói, quên mất rằng cô phải thấy sợ hãi mới đúng. Cuối cùng cô đã có cái tên cho gương mặt này.
“Anh gọi ông ta là gì?” Bull cau có. “Stinger. Stinger Hale. Mày làm gì với ảnh của già Stinger thế?” Anh ta với lấy túi xách của cô, mặt càng cau lại. “Mày là cái quái gì, cớm hả?” Tory giật túi ra khỏi tay hắn. “Không, không,” cô lẩm bẩm. “Tôi không phải cảnh sát. Tôi là nhiếp ảnh gia. Thực ra là một phóng viên ảnh. Tôi chỉ đang cố tìm người này. Anh có biết ông ta sống ở đâu không?” Bull bước lên trước nhưng Tory vẫn đứng nguyên tại chỗ. “Chứng minh đi,” anh ta nói cộc cằn.
“Chứng minh cái gì?” “Dốc ngược túi của mày ra bàn. Nếu không có thẻ công vụ hay súng trong đó, chúng ta sẽ nói chuyện. Còn không thì biến khỏi quán này trước khi tao ném mày ra ngoài.” “Ôi vì Chúa,” Tory lẩm bẩm và giận dữ đẩy anh ta. Không nghĩ ngợi gì về việc mình sắp làm, cô gạt hết những quả bóng sang một bên và đổ mọi thứ trong túi ra.
“Này,” một người chơi kêu lên khi bóng bắt đầu nảy ra khỏi mép bàn. “Ván này cược cả trăm đô đấy.” “Không phải ý tưởng của tôi,” cô nói ngắn gọn rồi lùi lại, chống hai tay lên hông, chờ anh ta xem xét.
Bull lục lọi đồ đạc của cô, thậm chí mở cả son môi và bấm bút bi như thể chúng là những vũ khí bí mật gì đó.
“Không phải màu dành cho anh,” Tory nói, giật thỏi son ra khỏi tay anh ta và bắt đầu nhét đồ trở lại túi xách. “Tôi đã làm như anh yêu cầu, giờ đến lượt anh nói, nhớ chứ?” Anh ta cười toe toét. “Cô muốn biết gì?” Tory chỉ vào bức ảnh. “Tôi có thể tìm ông ta ở đâu?” Anh ta nhìn cô thật lâu và chăm chú. “Nếu cô đang lừa tôi… nếu tôi phát hiện ra cô mang rắc rối đến cho già Stinger, tôi sẽ đi tìm cô.” Vào lúc đó, mọi nỗi sợ hãi và chán chường của Tory tích tụ nhiều tuần qua đã lên đến đỉnh điểm. Cô giơ ngón tay đẩy vào ngực Bull, giọng gần như hét.
“Quỷ tha ma bắt anh đi! Tôi không muốn làm hại ông ta, tôi chỉ muốn nói chuyện. Và nếu tôi không tìm được ông ta thì tôi mới là người gặp rắc rối ấy.” Một trong những người đang xem đứng ra dàn xếp.
“Trời ơi, Bull, nói cho cô ta biết quách đi cho rồi chơi tiếp thôi. Tôi phải gỡ lại tiền nếu không đêm nay mụ già nhà tôi không chịu cho tôi vào nhà đâu.” Bull nhìn Tory thêm nhiều giây nữa cho đến khi thấy những lời cô nói là đáng tin.
“Mấy tháng nay tôi không gặp ông ấy rồi. Theo chỗ tôi biết thì có khi ông ấy đã chuyển đi.” Tory cắn môi để khỏi hét lên. “Vậy hãy cho tôi biết ông ta từng sống ở đâu. Để tôi lo phần còn lại.” “Ở Morrow.” “Morrow là ở đâu?” “Khoảng bốn mươi kilomet theo đường kia,” Bull nói, chỉ về phía đông. “Tôi tới nhà ông ấy rồi. Đó là một ngôi nhà thuê ở vườn rau của một bà nào đó.” Tory viết vội viết vàng những lời anh ta nói để khỏi quên.
“Anh có nhớ địa chỉ không?” cô hỏi.
Anh ta khịt mũi. “Không. Ông ấy không nằm trong danh sách tặng quà Giáng sinh của tôi.” Tory thở dài. Cô sẽ phải bằng lòng với những thông tin này.
“Cảm ơn,” cô nói và chuẩn bị đi thì lại cảm thấy đầu gậy bi-a, lần này là chọc vào giữa lưng mình. Thần kinh Tory đã căng hết cỡ, sức chịu đựng đã đến giới hạn, và cô quay phắt lại giận dữ.
“Gì thế?” Bull cười toe toét rồi gãi gãi chỗ trên khuyên mũi. “Đại lộ Turner. Tôi nghĩ nhà ông ấy ở góc giao giữa đường Turner và Phố 4.” Sự tức giận dịu xuống. “Cảm ơn anh,” cô khẽ nói, “Anh sẽ không hiểu tôi biết ơn anh đến thế nào đâu.” Khi ra đến ngoài cửa, cô run lên vì mừng.
“Ôi Chúa ơi, ôi Chúa ơi.” Chân cô như không còn cảm giác, tim cô thì đang đập đến chín mươi nhịp một phút. Không nhìn lại đằng sau, cô chạy về chỗ xe mình. Chỉ khi đã ngồi an toàn bên trong với cả bốn cánh cửa đã khóa và xe đã khởi động, cô mới dám hít thở. Brett sẽ giết mình vì việc này. Rồi cô vào số và quay lại nhà nghỉ. Mai sẽ là một ngày tìm kiếm nữa, nhưng có một việc đã thay đổi. Giờ cô đã biết tên ông ta.
Stinger Hale.
Cái tên chẳng có ý nghĩa gì với cô, nhưng có lẽ khi gặp ông ta, hay khi nghe ông ta nói, cô sẽ biết được vài câu trả lời.
Mặt trời tỏa sáng trên gương mặt cô bé khi nó đi bộ trên đoạn đường bụi bặm. Một con bướm bay lượn trước mặt nó, nó cười lớn rồi đuổi theo. Càng ngày cô bé càng chạy nhanh hơn, cố đuổi bắt bướm, rồi cố chạy nhanh hơn nó, nhưng bất kể đôi chân nhỏ có chạy nhanh đến mấy, nó vẫn không bắt kịp.
“Chờ đã!” cô bé kêu lên. “Chờ đã.” Một cái bóng bay ngang qua mặt trời. Bầu không khí bắt đầu lạnh dần khi con bướm biến mất. Cô bé dừng lại để nhìn lên, rồi há hốc miệng khi trông thấy những đám mây đen đang tích tụ lại. Trời sắp mưa rồi! Nó phải nhanh lên nếu không sẽ gặp rắc rối vì bị ướt hết.
Lờ đi mọi thứ xung quanh, ngoại trừ ngôi nhà mà nó có thể nhìn thấy từ cuối đường, cô bé bắt đầu chạy. Nó phải đến được đó trước khi giọt mưa đầu tiên rớt xuống. Tóc nó bay phấp phới phía sau như một cánh buồm màu vàng nhạt. Váy của nó lúc đầu thì dính chặt vào chân, về sau dồn lại một đống ở trên đầu gối. Hai khuỷu tay vung vẩy và tim đập theo những nhịp điên cuồng, cô bé rút ngắn dần khoảng cách tới ngôi nhà.
Gió bắt đầu nổi lên, rú rít qua hàng cây trồng dọc bên đường. Cô bé nhìn thấy ai đó, một người phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà ở ngay phía trước mặt nó. Người phụ nữ đang gọi tên nó, cầu xin nó nhanh lên… nhanh lên… nhanh lên.
Rồi cánh cửa đột nhiên đóng sầm, và ngay khi cô bé đặt chân lên bậc thềm đầu tiên, ngôi nhà đã biến mất. Nó ngã cắm mặt xuống nền đất cứng khi mưa bắt đầu rơi.
“Không! Không!” cô bé gào thét. “Chờ con với! Chờ con với!” Vừa khóc lóc cầu xin, cô bé vừa lồm cồm bò dậy và chạy vòng quanh, tìm ngôi nhà. Nó hẳn phải ở đâu đó chứ. Chỉ cần tìm được nó, cô bé sẽ an toàn.
Mưa trút xuống nhiều hơn, làm tóc bết vào mặt và váy dính chặt vào người cô bé. Nó nhìn xuống người mình, nhìn mưa chảy từ cơ thể mình xuống mặt đất. Sét đánh đì đùng trên đầu nó, giây phút ấy cô bé nhìn xuống vũng nước nó đang đứng và hét lên. Nó không thể trông thấy hình phản chiếu của mình được nữa. Giống như ngôi nhà… và như người phụ nữ vừa gọi tên nó… cả nó cũng đã biến mất.